Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

TRUNG tâm của LỊCH sử bên lề DI cư, INTERNET và PHIÊN bản mới về TIỀN sử VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.3 KB, 34 trang )

TRUNG TÂM CỦA “LỊCH SỬ BÊN LỀ”: DI
CƯ, INTERNET VÀ PHIÊN BẢN MỚI VỀ TIỀN
SỬ VIỆT NAM
Liam C. Kelley*
TÓM TẮT
Cho đến gần đây, hầu như tất cả thông tin về quá khứ ở Việt Nam đều
do các học giả làm việc cho nhà nước, chủ yếu là các giáo sư đại học tiến
hành, và được xuất bản dưới hình thức in. Tuy nhiên, trong những năm gần
đây, các cá nhân đã bắt đầu sử dụng Internet để đưa ra những góc nhìn mới
về q khứ Việt Nam, và trong một số trường hợp là để in cơng trình của
họ. Một số nhà sử học nghiệp dư này hiện đã đưa ra một bản văn mới về
thời tiền sử Việt Nam. Bản văn này trình bày một cái nhìn cực kỳ tích cực
về lịch sử của tổ tiên xa xưa của người Việt, coi họ về cơ bản là những người
sáng lập ra nền văn minh Đông Á. Trong khi một số phương diện của câu
chuyện này lần đầu tiên được nhà triết học Nam Việt Nam Lương Kim Định
đưa ra vào những năm 1960, các nhà sử học nghiệp dư Việt Nam ở hải
ngoại vào khoảng đầu thế kỷ 21 đã bổ sung điều mà họ cho là những phát
hiện “khoa học” của các học giả “quốc tế” về vấn đề này. Cuối cùng, các
học giả ở Việt Nam đã tiếp cận những ý tưởng này thông qua Internet và
tổng hợp chúng với các cơng trình của các học giả đang làm việc tại Việt
Nam. Sự lan truyền các ý tưởng từ miền Nam Việt Nam sang cộng đồng
người hải ngoại và sau đó trở lại Việt Nam qua Internet mang lại một cái
nhìn hấp dẫn về cách thức giao tiếp trong kỷ nguyên số, giúp một số tác giả
từ các thế giới bị chia cắt trước đây của Việt Nam và cộng đồng người nước
ngồi tìm ra điểm chung nhằm thúc đẩy tầm nhìn dân tộc về quá khứ xa xôi
với mong muốn chung là tạo ra một nền tảng văn hóa và triết học vững chắc
giúp người Việt Nam phát triển mạnh mẽ trong thời đại toàn cầu.
***
GIỚI THIỆU
Ngày 14 tháng 7 năm 2012, tại Văn Miếu, Hà Nội, Trung tâm Khai
sáng Trí tuệ (Trung tâm Minh triết) và Trung tâm Nghiên cứu Triết học


Phương Đông (Lý học Đông phương) tổ chức hội thảo kỷ niệm 15 năm ngày
mất của nhà triết học Nam Việt Nam Lương Kim Định1, với các khách mời
danh dự từ Đảng Cộng sản, Quốc hội và giới học giả. Đây là sự kiện đầu
tiên được tổ chức tại Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam để thảo luận về


các tác phẩm và tư tưởng của Lương Kim Định. Sau lễ khai mạc, hội thảo
bắt đầu với phần trình bày của tác giả Hà Văn Thùy và ông đã phát biểu:
“Từ nửa thế kỷ trước, Kim Định đã tuyên bố như một nhà tiên tri thấu
thị rằng người Việt đã chiếm cứ lãnh thổ Trung tâm (middle kingdom) trước
người Hoa và xây dựng nên một nền văn hóa Việt Nho nhân bản, minh triết.
Cùng chung số phận với những nhà tiên tri khác, suốt 50 Kim Định bị ghẻ
lạnh và chỉ trích! Nhưng ngày nay, thời gian và khoa học minh chứng cho
Kim Định. Thuyết Việt nho và An vi của ông trở thành báu vật không chỉ
giúp dân tộc Việt tìm lại bản thể của mình để xây dựng một dân tộc Việt
Nam mới mà còn thắp lên ngọn lửa minh triết soi đường cho nhân loại (Vũ
2012).”[1]
Những ý kiến được nêu ra trên đây, rằng tổ tiên của người Việt Nam
đã cư trú ở khu vực ngày nay là Trung Quốc và đã xây dựng một nền văn
hóa mà ngày nay có thể giữ vai trị hoa tiêu cho nhân loại là những điều lạ
lẫm với bất cứ ai ở ngoài Việt Nam và từng nghiên cứu lịch sử Việt Nam
thơng qua các kênh học thuật chính thống. Dù đọc các biên niên sử Việt
Nam thời cận đại bắt đầu bằng cách lần theo một dòng dõi chính trị cổ xưa
từ Thần Nơng, vua thần thoại của Trung Quốc cổ đại, đến các vua Hùng,
vua thần thoại của Việt Nam, hay đọc các cơng trình thời thuộc địa của các
nhà sử học Pháp, lập luận rằng lịch sử đích thực bắt đầu ở khu vực mà ngày
nay là Việt Nam mở đầu với sự cai trị của Trung Quốc vào cuối thế kỷ thứ
hai trước Công nguyên, hay đọc ngay cả các cơng trình đậm tính dân tộc ở
miền Bắc Việt Nam vào những năm 1960 và 1970 đã tìm cách chứng minh
có một xã hội với trình độ cao ở Đồng bằng sơng Hồng trước khi tiếp xúc

với người Trung Quốc, hoặc đọc các tác phẩm của nhà sử học Mỹ, Keith
Taylor, người mà các quan điểm đã chuyển từ việc theo cách nhìn dân tộc
tính của các nhà sử học người Việt sang lập luận rằng có q ít bằng chứng
để khẳng định chắc chắn về q khứ xa xơi, khơng có tác phẩm nào khẳng
định rằng tổ tiên xa xôi của người Việt đã chiếm cứ khu vực ngày nay là
Trung Quốc và xây dựng nền tảng của những gì chúng ta nghĩ đến như
truyền thống văn hóa Đơng Á (Ngơ 1983 [1479]; Maybon và Russier 1909;
Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam 1971; Taylor 1983, 2013).
Tuy nhiên, ai đã ở Việt Nam trong 20 năm qua, hoặc ai từng đọc các
bài đăng trên mạng về lịch sử Việt Nam, chắc hẳn sẽ gặp phải những ý kiến
trên đây. Là một nhà nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, tôi bắt đầu gặp những
quan niệm đó từ đầu những năm 2000. Dù đó là những câu hỏi được đặt ra
trong các buổi nói chuyện chun mơn, đến những cuộc trị chuyện thường
nhật trong quán cà phê, tôi liên tục gặp những ý kiến khơng nằm trong
chương trình đào tạo hàn lâm mà tơi đã được học, nhưng rõ ràng đó là một


phần của kiến thức lịch sử phổ thông của Việt Nam, và chắc chắn là quan
trọng với một số người Việt Nam, cả trong và ngoài nước.
Các chủ đề của “lịch sử biến thể” (alternative history) này mà tôi gặp
chủ yếu tập trung vào thời tiền sử và sự hình thành văn hóa truyền thống
Việt Nam. Ví dụ, tơi được cho hay rằng người Việt đã tạo ra một loại chữ
viết (nay đã thất truyền) trước khi văn học Trung Quốc được tầng lớp ưu tú
tiếp nhận khoảng 2.000 năm trước. Người ta nói với tơi rằng người Việt đã
tạo ra Kinh Dịch (Yijing- Classic of Changes) – văn bản mà hầu hết các học
giả trên thế giới đều coi là một trong những văn bản “Trung Quốc” sớm nhất
– và người Trung Quốc sau đó đã “đánh cắp” nó, rồi tuyên bố đó là của họ.
Thật vậy, theo thời gian, tơi nghe người ta nói nhiều hơn những dịng này,
như thông báo cho tôi chẳng hạn, và như Hà Văn Thùy đã nói trước đó, rằng
người Việt Nam định cư ở vùng đất của Trung Quốc trước khi người Trung

Quốc có mặt, và rằng có một sự khác biệt cơ bản giữa hai cư dân này, với
người Việt Nam là “trồng trọt” và người Trung Quốc là “chăn nuôi”. Cuối
cùng, tôi cũng được nghe nhiều lần rằng người Việt phát minh ra việc trồng
lúa, và điều này đã được một học giả phương Tây “chứng minh” trong cuốn
sách có tên “Địa đàng ở Phương đông” (East of Eden).
Càng nghe mọi người đưa ra những bình luận như vậy, tơi càng tị mị
muốn biết chúng đến từ đâu. Do đó, tơi bắt đầu tìm kiếm, và cuối cùng nhận
ra rằng nhiều ý kiến trong số đó lần đầu tiên được nhà triết học tên là Lương
Kim Định, người hoạt động rất tích cực ở miền Nam Việt Nam vào những
năm 1960 và đầu 1970, nêu ra. Các học giả từ miền Nam Việt Nam không
được nhà nước Cộng sản Việt Nam hoan nghênh khi Chiến tranh Việt Nam
kết thúc năm 1975, và Lương Kim Định khơng là ngoại lệ. Ơng di cư sang
Mỹ và sách của ông bị cấm. Rồi tôi tự hỏi, làm thế nào mà những quan niệm
của ông ấy lại được biết đến và lan truyền ở Việt Nam vào thế kỷ 21? Và
làm thế nào mà vào năm 2012 một hội thảo chính thức được tổ chức tại Văn
Miếu ở trung tâm Hà Nội, để thảo luận những quan niệm của ông ấy?
Những câu hỏi như vậy dẫn đến nhiều vấn đề phức tạp nằm ngoài
phạm vi của bài tiểu luận này. Tuy nhiên, cuối cùng chúng ta có thể nói rằng
có một sợi dây nối kết các ý tưởng của Lương Kim Định, Hà Văn Thùy và
nhiều người khác. Đó là cảm nhận rằng các thế lực như phương Tây hóa, và
hiện nay là tồn cầu hóa, đang đặt ra một mối đe dọa sống còn đối với xã
hội Việt Nam, và cần phải tạo ra một triết lý và văn hóa Việt Nam mới để
chống lại mối đe dọa đó. Ngồi ra, ở mức độ nào đó, các cá nhân được thảo
luận trong bài viết này đều cho rằng chính phủ Cộng sản, hoặc các trí thức
chính thống hiện thời, khơng có khả năng làm việc này. Chẳng hạn, vào
những năm 1960, Lương Kim Định đã tìm cách đưa ra một triết lý cho miền


Nam Việt Nam nhằm chống lại ảnh hưởng của phương Tây và đó cũng là
một giải pháp thay thế cho Chủ nghĩa Cộng sản. Cung Đình Thanh, một

nhân vật chủ chốt trong việc phát triển các ý tưởng được xem xét trong bài
viết này, người mà chúng ta sẽ gặp trong phần tiếp theo, tin là từ vị trí thuận
lợi của ông ở Úc vào những năm 1990, rằng chế độ Cộng sản sẽ sớm chấm
dứt ở Việt Nam và đất nước cần một nền văn hóa mới cho một thời đại mới,
nhưng là một nền văn hóa vẫn bám sâu vào một thứ gì đó có thể nhận dạng
là “Việt Nam”. Vào thời điểm đó, chính phủ Việt Nam coi tồn cầu hóa như
một mối đe dọa và tìm cách chống lại ảnh hưởng tiêu cực mà sự hội nhập
quốc tế của Việt Nam sẽ mang lại cho văn hóa và xã hội Việt Nam bằng
cách thúc đẩy các bình diện khác nhau của văn hóa truyền thống. Tuy nhiên,
như chúng ta sẽ thấy dưới đây, Hà Văn Thùy đã viết vào năm 2005 rằng
mặc dù chính phủ đã ban hành nhiều nghị quyết “bảo vệ tinh hoa văn hóa
dân tộc”, nhưng những nghị quyết này, theo ơng, đã khơng có hiệu quả. Vì
vậy, ơng cũng tranh luận cần để những người khác có trách nhiệm tạo ra
một nền văn hóa mới, có thể chống chọi lại sự “xâm lăng văn hóa” (cultural
invasion) của những ảnh hưởng tồn cầu (Hà 2005).
Chính vì thế các cá nhân được thảo luận trong bài viết này đều lo ngại
về sự sống còn của văn hóa và xã hội Việt Nam khi tiếp xúc với các nền văn
hóa nước ngồi. Hơn nữa, tất cả họ đều nhận thấy rằng bước đầu tiên để đẩy
mạnh văn hóa và xã hội Việt Nam là đưa ra một cái nhìn mới về những thời
kỳ sơ khai nhất của lịch sử. Bài viết này nhằm cung cấp một cố gắng ban
đầu để chỉ ra các quan điểm của những người này về q khứ xa xơi đó,
hoặc về cơ bản là tiền sử Việt Nam. Những quan điểm lịch sử mà họ phát
triển được dùng làm bối cảnh để từ đó đưa ra những luận cứ có thể coi như
là nền tảng cho nền văn hóa và triết lý mới của người Việt Nam. Chẳng hạn,
Lương Kim Định đã phát triển một số lý thuyết triết học, như “Việt Nho”
và “An Vi” (Tranquillity Philosophy) dựa trên niềm tin rằng những quan
niệm trong các tác phẩm như Kinh Dịch được phát triển trước hết bởi tổ tiên
người Việt. Để xác lập luận điểm này, Lương Kim Định đã xây dựng một
phiên bản tiền sử độc đáo, cho rằng tổ tiên của người Việt là những cư dân
đầu tiên của lục địa Châu Á và họ đã tạo ra nền tảng mà ngày nay người ta

gọi là “Trung Quốc” hay Văn hóa “Đơng Á”. Trong 30 năm qua, người Việt
ở hải ngoại và ở Việt Nam đã phát triển câu chuyện tiền sử đó xa hơn bằng
cách kết hợp các ý kiến từ khảo cổ học và di truyền học. Họ có thể làm được
một phần lớn điều này là nhờ Internet vừa cung cấp thông tin vừa tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho việc giao tiếp giữa người Việt ở hải ngoại và ở Việt
Nam, những người trước đây sống biệt lập với nhau. Chuyên luận này sẽ
theo dõi sự phát triển của những quan niệm này giữa các thành viên của
các cộng đồng khác nhau này.


Trong khi các ý tưởng tạo nên câu chuyện biến thể này của tiền sử
Việt Nam đã đi từ miền Nam Việt Nam đến cộng đồng người hải ngoại, và
bây giờ trở lại trong tâm thức người Việt qua Internet và thông qua nỗ lực
của cả Việt kiều và người Việt trong nước, những cá nhân đã đóng góp vào
việc phát triển những quan niệm lịch sử này phần lớn có thể được coi là
chiếm một vị trí bên “rìa” (fringes) của đời sống học thuật Việt Nam, hay rõ
ràng là bên rìa của ngành sử học. Quả thật, sự xác định tương tự cũng được
dành cho Lương Kim Định khi ơng cịn hoạt động ở miền Nam Việt Nam
(Tạ 2008). Đồng thời, các cá nhân được thảo luận trong bài viết này, cụ thể
là những người viết trong những năm 1990 và 2000, cũng đã chỉ trích các
học giả chính thống ở trung tâm của đời sống học thuật chính thống ở Việt
Nam. Điều này có thể được nhìn thấy theo một số cách. Thứ nhất, một số
tác giả trong số này đối chiếu những gì được cho là của “các học giả quốc
tế” với những gì mà các học giả ở Việt Nam đã viết, và về cơ bản chê các
học giả ở Việt Nam không chịu cập nhật. Tuy nhiên, như chúng ta sẽ thấy
trong thảo luận tiếp theo, có những vấn đề nghiêm trọng về việc các tác giả
này hiểu và sử dụng “học thuật quốc tế” như thế nào. Thứ hai, các tác giả
này coi trọng yếu tố học thuật mang tính dân tộc hiện đại ở Việt Nam – phê
phán cách tiếp cận được cho là lấy Trung Quốc làm trung tâm của các học
giả thời thuộc địa – và cũng chỉ trích các học giả chính thống ở Việt Nam

đã khơng vượt ra ngồi mơ hình đó bằng cách khơng nhận ra sự đóng góp
của “Người Việt” vào cội nguồn của nền văn minh Đông Á. Tuy nhiên, như
chúng ta cũng sẽ thấy dưới đây, khi lập luận rằng tổ tiên của người Việt là
những người tạo lập nên nhiều bình diện khác nhau của nền văn minh Đơng
Á, thì việc này quả thực đã vượt xa quan điểm thời thuộc địa coi Việt Nam
là một “Tiểu Trung Hoa”, và bằng chứng cho lập luận này là rất có vấn đề.
Như vậy, mặc dù “lịch sử biến thể” này không dựa trên bằng cứ đáng
tin, nhưng nó được dựa vững chắc trên những động lực xã hội đương thời,
và nó có thể phát triển một phần nhờ những động lực đó. Mặc dù một số tác
giả được thảo luận trong bài viết này cơng khai chỉ trích các sử gia chính
thống, có rất ít phản hồi từ các sử gia chuyên nghiệp. Có thể là các học giả
chuyên nghiệp không thấy cần phải trả lời các nhà sử học không chuyên,
nhưng thực tế là các tác giả được thảo luận trong bài viết này đang hoạt động
tích cực trên Internet cịn các nhà sử học chính thống thì khơng, tức là những
ý tưởng mới này về tiền sử Việt Nam có khả năng tồn tại và ngày càng có
vai trị trung tâm trong đời sống của người Việt Nam hiện nay. Như vậy, tôi
đề cập đến câu chuyện về thời tiền sử Việt Nam mà các tác giả này đã tạo
nên là “lịch sử bên rìa” để nóị rằng nó nổi lên bên ngoài thế giới của các nhà
sử học chuyên nghiệp. Tuy nhiên, việc những quan niệm này được thảo luận


ở những địa điểm trung tâm như Văn Miếu nói lên “tầm quan trọng” của
“lịch sử bên rìa” này trong cuộc sống của một số người Việt Nam ngày nay.
Trong bài này, chúng tơi sẽ lần theo hành trình mà những ý tưởng tạo
nên “lịch sử bên rìa” này được thực hiện. Đó là câu chuyện làm thế nào
những ý tưởng từ “rìa” của sử học đã dần dần chiếm được vị trí “trung tâm”
trong một số phân đoạn của xã hội Việt Nam ngày nay. Chúng tôi bắt đầu
với các tác phẩm của Lương Kim Định.
LƯƠNG KIM ĐỊNH
Sinh năm 1914 tại tỉnh Nam Định, miền Bắc Việt Nam, Kim Định,

như người ta thường gọi ông, trở thành một linh mục Cơng giáo và sau đó
vào cuối những năm 1940, sang Pháp và lấy bằng triết học và Hán học
(Sinology) vào thập kỷ tiếp theo ở đây. Sau đó Kim Định trở về Việt Nam
và làm việc tại nhiều trường đại học ở miền Nam vào những năm 1960 và
đầu 1970 trước khi chuyển đến Mỹ vào cuối chiến tranh. Trong thời kỳ Kim
Định làm việc ở miền Nam Việt Nam, ông đã xuất bản nhiều (“Lương Kim
Định” n.d.).
Những tác phẩm mà Kim Định viết không thật sự là lịch sử đúng
nghĩa, nhưng nó chứa đựng rất nhiều thơng tin lịch sử, và Kim Định đã tìm
cách giáo dục bạn đọc của mình về q khứ. Cái mà chính ơng đã cố gắng
tạo ra là một triết lý mới. Viết vào những năm 1960 và đầu 1970, Kim Định
sợ rằng chủ nghĩa duy vật của phương Tây và chủ nghĩa Mác của miền
Bắc Việt Nam có thể khuynh đảo cả xã hội miền Nam Việt Nam nếu
một triết học thích hợp cho đất nước không được phát triển. Khi tạo ra
một triết lý mới, Kim Định đã tìm cách tiếp thu logic phương Tây trong khi
vẫn duy trì các khía cạnh của văn hóa truyền thống. Để đơn giản hóa một
lập luận phức tạp được phát triển qua một loạt ấn phẩm, Kim Định làm điều
này trước tiên bằng cách cho rằng văn hóa Đơng Á chứa đựng những tư
tưởng khoa học và logic. Ví dụ, ơng lưu ý rằng những tư tưởng như vậy có
thể được tìm thấy trong Kinh Dịch, một trong những văn bản cổ nhất ở Đông
Á và là tác phẩm nền tảng cho triết học Đơng Á.
Tư tưởng này mà người ta có thể tìm thấy logic trong Kinh Dịch lần
đầu tiên được nhà giáo dục và cải cách tài danh Trung Quốc, Hồ Thích (Hu
Shi), đề xướng vào đầu thế kỷ 20 và sau đó được nhiều trí thức ở Đơng Á
cổ vũ. Nhưng, Kim Định đã đưa ra một cách giải thích mới lạ cho cuộc thảo
luận này bằng lập luận rằng Kinh Dịch đã được tổ tiên của người Việt làm
ra. Để làm rõ điều này, Kim Định đã vận dụng một cách sáng tạo các khái
niệm từ lĩnh vực nhân học cấu trúc mới để nói rằng các văn bản tiếng Việt
cổ hơn đã tiết lộ một cấu trúc ý nghĩa lặp lại các khái niệm trong Kinh



Dịch (Lương 1973). Không cung cấp bằng chứng, ông cũng biện luận rằng
điều này là do tổ tiên của người Việt đã tạo ra Kinh Dịch, vì họ là những cư
dân đầu tiên của lục địa Châu Á và rằng sau này người Hán Trung Quốc,
“người chăn nuôi” đã đẩy “người trồng trọt” Việt Nam xuống phía nam cho
đến khi họ đến đồng bằng sơng Hồng. Trong q trình này, người Trung
Quốc đã chiếm đoạt Kinh Dịch và tuyên bố nó là của riêng họ và là một
phần của truyền thống “Nho giáo” (Lương 1970: 51–63).
Trong khi vận dụng một cách sáng tạo những ý tưởng từ nhân học cấu
trúc để đưa ra những lập luận như vậy, Kim Định cũng đã phát triển một
khái niệm của riêng mình gọi là “huyền sử” (obscure history). Các ghi chép
đầu tiên của Việt Nam về thời cổ không được ghi lại cho đến thế kỷ 15 sau
CN và có thơng tin mà các học giả thời cận đại coi là “vô lý” và các học giả
thuộc địa Pháp cũng coi là “hoang đường”. Tuy nhiên, đối với Kim Định,
những giải thích này thể hiện một kiểu “huyền sử” kết hợp cả sự cường điệu
thơ ca với tư liệu lịch sử xác thực và từ đó sử gia có thể rút tỉa ra ý nghĩa
(Lương 1970: 26–36).
Những quan niệm của Kim Định đã truyền cảm hứng cho một số
người Việt Nam, nhưng chúng rất khó chứng minh bằng tư liệu, nhất là các
lập luận của ông rằng tổ tiên của người Việt Nam là những người đầu tiên
cư trú trên lục địa Châu Á, rằng họ là những người làm nông nghiệp trước
người Hán, rằng họ đã tạo ra Kinh Dịch, và họ đã bị những người Hán chăn
nuôi xâm lược đẩy về phía nam đến đồng bằng sơng Hồng. Đây cũng là
những vấn đề mà người Việt ở Việt Nam có lẽ khơng nghĩ đến nhiều sau
năm 1975 vì sách Kim Định bị cấm cùng với nhiều tác phẩm khác được xuất
bản ở miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, ông vẫn tiếp tục xuất bản ở Mỹ cho
đến khi ông qua đời vào năm 1997, và người Việt Nam ở hải ngoại tiếp tục
quen thuộc với luận giải của ông về tiền sử. Do đó, có lẽ khơng có gì đáng
ngạc nhiên rằng từ cộng đồng người hải ngoại một phiên bản cập nhật và
“khoa học hơn” về cách giải thích của Kim Định về tiền sử vào đầu thế kỷ

21 đã xuất hiện. Người đề xuất phiên bản khoa học hơn của mơ hình Kim
Định là một người Việt nhập cư vào Úc tên Cung Đình Thanh.
TƯ TƯỞNG
Cung Đình Thanh sinh năm 1937 ở tỉnh Thái Bình, miền Bắc Việt
Nam. Chắc ông phải di cư vào Nam Việt Nam năm 1954 sau Hiệp định
Genève, vì tên ơng xuất hiện trong danh sách những học sinh lấy bằng tú tài
năm 1956 tại Sài Gịn (Cơng báo Việt Nam Cộng Hịa 1957)2. Sau đó, ơng
lấy bằng chun ngành luật và văn thư cũng như bằng hành chính và lãnh
đạo của Đại học Connecticut. Khi trở về miền Nam Việt Nam, Cung Đình


Thanh trở thành luật sư của Tòa phúc thẩm và cũng tham gia giảng dạy tại
Học viện Hành chính Quốc gia. Sau đó, ơng chuyển sang lĩnh vực giáo dục
và văn hóa, làm quản lý một số trường học, biên tập tạp chí Phát triển Văn
hóa, và tham gia vào các tổ chức văn hóa khác nhau. Khi Chiến tranh Việt
Nam kết thúc vào năm 1975, Cung Đình Thanh khơng còn tham gia tất cả
các hoạt động trên. Năm 1989, ông di cư đến Úc, và từ ngôi nhà mới của
mình ở New South Wales, ơng dần trở lại hoạt động. Ơng đã thành lập một
tổ chức có tên là Phát triển văn hóa Quốc tế Việt Nam (Vietnam
International Culture Development Inc.) nhằm thúc đẩy sự phát triển của
văn hóa Việt Nam. Con đường chính để thực hiện điều này là thông qua bản
in và xuất bản trực tuyến của tạp chí Tư tưởng (Though) mà Cung Đình
Thanh đã xuất bản từ năm 1999 cho đến khi ông qua đời năm 2006 (Who’s
who in Vietnam 1974; “Cung Đình Thanh” n.d.).
Số đầu tiên của “Tư tưởng” có một “bức thư ngỏ” của Cung Đình
Thanh với tiêu đề “Tiếng chim gọi đàn” (bird’s call to the flock). Cung Đình
Thanh bắt đầu bài viết này bằng cách lưu ý rằng ông vui mừng khi thấy ý
tưởng được thể hiện trên nhiều phương tiện truyền thơng vào thời điểm đó
rằng văn hóa có thể đóng một vai trị quan trọng trong việc lật đổ chủ nghĩa
độc tài và giải phóng tư tưởng để mọi người có thể đóng góp hết sức mình

vào việc phát triển q hương. Khơng rõ Cung Đình Thanh đề cập đến
những bản văn cụ thể nào, nhưng khi việc sử dụng Internet ngày càng phổ
biến vào những năm 1990, chắc chắn là có nhiều thơng tin hơn, ít nhất là
giữa những người Việt Nam ở nước ngoài, và với việc Chiến tranh Lạnh kết
thúc và Việt Nam mở cửa với thế giới bên ngoài, một trong những chủ đề
được thảo luận rõ ràng là khả năng sự cai trị của Cộng sản ở Việt Nam có
thể chấm dứt. Trong bài viết này, Cung Đình Thanh tun bố rằng ngày đó
khơng còn xa, nhưng điều này đặt ra một vấn đề lớn là xã hội Việt Nam
thiếu một thứ thay thế hiển nhiên cho hệ tư tưởng Mác xít. Vì vậy, “Tiếng
chim gọi đàn” của Cung Đình Thanh là lời kêu gọi những người cùng chí
hướng phát triển những ý tưởng có thể làm nền tảng cho một xã hội Việt
Nam mới, một xã hội có thể phát triển mạnh mẽ trong thế giới tồn cầu hóa.
Để làm được điều này, Cung Đình Thanh đề xuất cần viết một cuốn lịch sử
tư tưởng Việt Nam, và ơng đã trình bày một dàn ý của cuốn sách như vậy
trong bài tiểu luận này. Tuy nhiên, ông nhận ra rằng sẽ mất nhiều thời gian
để tạo ra một tác phẩm như vậy và ông kêu gọi độc giả của mình hỗ trợ bằng
cách chia sẻ ý tưởng và học thuật của họ (Cung 1999a)3.


LÚA
Đàn nghe rõ tiếng gọi, vì số thứ hai của Thought có sự đóng góp của
một độc giả dưới dạng bản dịch tiếng Việt của một bài báo mà nhà nhân
chủng học người Mỹ Wilhelm “Bill” Solheim đã đăng trên National
Geographic năm 1971 (Solheim 1999). Với tiêu đề “Ánh sáng mới về quá
khứ bị lãng quên” (New Light on a Forgotten Past), điểm chính của bài viết
này được tóm tắt cơ đọng trong phần chú thích cho một trong những bức
ảnh kèm theo trong đó nói rằng, “Tác giả, được những nhà tiền sử học khác
ca ngợi là ‘Mr. Đông Nam Á’, đưa ra trong những trang này lý thuyết cách
mạng của ơng rằng người Đơng Nam Á có thể là những người đầu tiên làm
đồ gốm, mài và đánh bóng các cơng cụ bằng đá, trồng lúa và đúc đồng”

(Solheim 1971: 331). Tuy nhiên, điều này không đúng. Nghiên cứu khảo
cổ học sau đó đã chứng minh rằng “lý thuyết cách mạng” mà Solheim
đề xuất này khơng chính xác, và vào cuối những năm 1970, các nhà
khảo cổ học và nhà tiền sử học phương Tây đều nhận ra điều này.
Song, việc một học giả “quốc tế” đưa ra những tun bố “khoa học”
chỉ ra rằng nơng nghiệp “có lẽ” xuất hiện trước tiên ở Đông Nam Á là điều
quan trọng đối với Cung Đình Thanh. Một điều cũng quan trọng đối với
Cung Đình Thanh là, như chúng ta sẽ thấy trong thảo luận sau, việc Solheim
sử dụng một thuật ngữ có liên quan đến Việt Nam, “Hoabinhian”, để gán
cho những gì ơng đề xuất là bằng chứng về các xã hội thời kỳ đầu ở Đông
Nam Á. Về cơ bản những gì Cung Đình Thanh đã làm là kết hợp các tuyên
bố khác nhau của Solheim để khẳng định rằng người Việt Nam là những
người đầu tiên trồng lúa. Để hiểu ông ấy làm điều này như thế nào, trước
tiên chúng ta cần hiểu được chính xác những gì một số nhà khảo cổ học đã
khám phá ra vào những năm 1960 và chính xác những gì Solheim đã tuyên
bố về phát hiện của họ.
Tuyên bố của Solheim trên National Geographic rằng Đơng Nam Á
có thể là nơi thực vật được thuần canh đầu tiên đã được nhà địa lý người Mỹ
Carl O. Sauer nêu ra vào năm 1952 trong tác phẩm Nguồn gốc và sự phát
tán nông nghiệp (Agricultural Origins and Dispersals) của ông. Sauer đưa
ra giả thiết này dựa trên suy đoán hơn là bằng chứng khảo cổ. Chẳng hạn,
ông đã tuyên bố:
Tôi đề xuất Đông Nam Á là cái nôi của nền nông nghiệp sớm nhất.
Nó đáp ứng các u cầu về tính đa dạng hữu cơ và vật lý cao, khí hậu ơn
hịa với gió mùa đảo ngược tạo ra nhiều thời kỳ mưa và khơ, nhiều nước
cho phép đánh bắt cá, vị trí ở trung tâm của thế giới cổ cho việc liên lạc
bằng đường thủy hoặc đường bộ. Khơng có khu vực nào khác có vị trí tốt


hoặc được trang bị tốt cho sự phát triển của văn hóa đánh bắt và ni trồng

như khu vực này” (Sauer 1952: 24–25).
Nói cách khác, Sauer lần đầu tiên đưa ra một mẫu khái niệm cho bối
cảnh môi trường mà ông tin rằng nông nghiệp có thể được xuất hiện trước,
sau đó ơng tìm kiếm một địa điểm trên trái đất phù hợp với mơ hình đó và
tìm thấy Đơng Nam Á. Ơng khơng thực sự tìm thấy bằng chứng khảo cổ học
ủng hộ ý kiến của mình.
Tuy nhiên, vào những năm 1960, hai học trò của Solheim, Chester
Gorman và Donn Bayard, ban đầu nghi ngờ rằng họ có thể đã tìm thấy bằng
chứng khảo cổ học như vậy ở Thái Lan khi họ điều tra hai địa điểm khảo
cổ: Non Nok Tha ở đông bắc Thái Lan và Sprit Cave ở tây bắc Thái Lan.
Tại Non Nok Tha, Bayard cho biết đã tìm thấy trấu (vỏ hạt thóc) mà ơng tin
phải có niên đại ít nhất là 3.500 năm trước CN (Bayard 1970: 135). Trong
khi đó, tại Spirit Cave, Gorman tìm thấy tàn tích của những cây họ đậu mà
ơng cho rằng có thể đã được thuần canh chứ khơng phải thu thập, và có niên
đại khoảng 7.000 năm trước CN (Gorman 1969: 672).
Trong báo cáo về cuộc khai quật của mình, Gorman gọi địa điểm Spirit
Cave là “Hoabinhian.” Thuật ngữ “Hoabinhian” này xuất phát từ “Hịa
Bình”, tên một tỉnh ở miền Bắc Việt Nam, nơi vào những năm 1920, nhà
khảo cổ Madeleine Colani người Pháp đã phát hiện ra bằng chứng về việc
cư trú của người cổ xưa. Đặc điểm quan trọng nhất của địa điểm khảo cổ
này là dấu tích của các cơng cụ mảnh đá nhỏ “flaked stone tools” (Colani
1927). Sau đó, vào năm 1932, một cuộc họp của những người nghiên cứu
tiền sử được tổ chức tại Hà Nội, thuật ngữ “Hoabinhian” được dùng để chỉ
những nơi cư trú cổ xưa của con người được nhận biết bằng việc sử dụng
các công cụ bằng mảnh đá nhỏ (Matthews 1966: 86). Một đặc điểm nổi bật
khác của địa điểm Hịa Bình là khơng có bằng chứng về nơng nghiệp,
vì thế, thuật ngữ “Hoabinhian” sau đó được sử dụng để chỉ các địa điểm
thuộc thời kỳ đồ đá giữa (Mesolithic), thời kỳ trung gian giữa đồ đá
cũ (Paleolithic) và đồ đá mới (Neolithic) và kéo dài từ khoảng 15.000 đến
5.000 năm trước CN, thời kỳ mà con người vẫn gắn với việc săn bắn và hái

lượm hơn là nơng nghiệp.
Dấu vết cây đậu mà Gorman tìm thấy tại Spirit Cave, một địa
điểm Hoabinhian cổ khác, cùng với các mẫu lúa mà Bayard tìm thấy ở Non
Nok Tha, khiến Solheim đưa ra một số giả thuyết táo bạo. Trong bài báo
của mình trên National Geographic năm 1971, Solheim nói rằng ơng đồng
ý “với Sauer rằng việc thuần canh thực vật đầu tiên trên thế giới được những
người thuộc nền văn hóa Hoabinhian (một thuật ngữ Sauer chưa sử dụng)
thực hiện, ở đâu đó ở Đơng Nam Á”, và ông sẽ không ngạc nhiên khi thấy


rằng “điều này đã bắt đầu sớm nhất là 15.000 năm trước CN” (Solheim
1971: 339). Solheim nói thêm rằng thay vì việc các thành tựu kỹ thuật đã di
chuyển về phía nam vào Đơng Nam Á trong q khứ, như được nhiều người
tin tưởng, điều ngược lại có thể xảy ra. Ông viết:
Việc tái tạo truyền thống của thời tiền sử Đơng Nam Á đã có những
cuộc di cư từ phía bắc mang những phát triển quan trọng về kỹ thuật đến
Đơng Nam Á. Thay vào đó, tơi gợi ý rằng nền văn hóa đồ đá mới đầu tiên
(tức là, cuối thời kỳ đồ đá) của miền Bắc Trung Quốc, được gọi là Yangshao,
đã phát triển từ một tiểu văn hóa Hoabinhian di chuyển lên phía bắc từ bắc
Đơng Nam Á vào khoảng thiên niên kỷ thứ sáu hoặc thứ bảy trước Công
nguyên (Solheim 1971: 339).
Cuối cùng, một năm sau, vào năm 1972, Solheim công bố một bài báo
trên tạp chí Scientific American với tựa đề “Một cuộc cách mạng nơng
nghiệp sớm hơn”, trong đó ơng tun bố rằng “Cuộc cách mạng nông
nghiệp, được cho là xảy ra lần đầu tiên cách đây khoảng 10.000 năm trong
các xã hội thời kỳ đồ đá mới đang nổi của khu vực Trung Đông, dường như
đã đạt được một cách độc lập ở Đơng Nam Á cách hàng ngàn
dặm” (Solheim 1972: 34).
HỊA BÌNH
Mặc dù đây là những tuyên bố thú vị, cuối cùng chúng lại được

chứng minh là sai. Như nhà khảo cổ học Miriam Stark đã lưu ý (2014)
trong một chuyên luận tưởng nhớ Solheim, “Các cuộc điều tra thực địa
tiếp theo – và các phân tích của các sinh viên và cộng sự thân cận của
ông – không ủng hộ các tun bố của Bill rằng Đơng Nam Á có nơng
nghiệp hoặc thực vật sớm nhất”. Thật vậy, vào cuối những năm 1970, các
học giả khác nhau đã xác định rằng các mẫu lúa mà Gorman và Bayard tìm
thấy là các giống lúa hoang, chứ không phải lúa trồng (Yen 1980;
1982). Ngày nay, sự đồng thuận về học thuật giữa các nhà tiền sử học
trái ngược với những gì Solheim đề xuất, khi các chuyên gia lập luận
rằng các công nghệ như trồng lúa và luyện kim đều di chuyển về phía
nam vào Đơng Nam Á (Castillo 2011; Higham et al. 2015).
Dù một số dự đoán táo bạo mà Solheim đưa ra không thành hiện thực,
những tuyên bố của ông từ đầu những năm 1970 đã gây ấn tượng rõ ràng
với Cung Đình Thanh khi ơng ta cơng bố một bài báo vào năm 1999 trong
số thứ tư trên tạp chí Tư tưởng, nơi ông sử dụng thông tin về những phát
hiện ban đầu của Gorman và những phát biểu sau đó của Solheim để biện
luận về sự tồn tại của nghề trồng lúa tại một địa điểm ở tỉnh Hòa Bình được
gọi là Hang Xóm Trại. Khơng trích dẫn thơng tin lấy ở đâu, Cung Đình


Thanh khẳng định trong bài viết này rằng có những hạt thóc được tìm thấy
ở Hang Xóm Trại giống với mẫu lúa mà Gorman đã tìm thấy ở Spirit Cave
và điều Gorman đã đề xuất ban đầu cho thấy bằng chứng được thuần canh
(một đề xuất, như chúng ta thấy, đã khơng cịn được tin cậy vào cuối những
năm 1970). Cung Đình Thanh nói rằng những mẫu thóc này ở Hang Xóm
Trại có niên đại khoảng 3.500 năm trước CN. Sau đó, ơng ngụ ý rằng có
một truyền thống trồng lúa lâu đời hơn ở các địa điểm của Hoabinhian bằng
cách trích dẫn bài báo trong National Geographic của Solheim: “Tơi đồng
ý với [Carl O.] Sauer rằng việc thuần hóa thực vật đầu tiên trên thế giới được
thực hiện bởi những người thuộc nền văn hóa Hoabinhian (một lần nữa, một

thuật ngữ mà Sauer khơng sử dụng), ở đâu đó ở Đông Nam Á. Tôi sẽ không
ngạc nhiên nếu điều này bắt đầu sớm nhất là 15.000 năm trước CN” (Cung
1999b; Solheim 1971: 339).
Nếu lúa được trồng ở Đông Nam Á vào 15.000 năm trước CN, thì
điều đó đã sớm hơn nhiều so với bằng chứng về việc trồng lúa ở Trung
Quốc, và Cung Đình Thanh cố gắng chứng minh rằng đây là một kỹ thuật
đã thực sự lan truyền từ thế giới Hoabinhian về phía bắc. Để đưa ra quan
điểm này, Cung Đình Thanh trích dẫn các nghiên cứu về việc trồng lúa ở
Trung Quốc đã được xuất bản vào những năm 1970 và đầu những năm 1980,
chẳng hạn như một chương sách năm 1983 về nguồn gốc của việc trồng các
loại ngũ cốc và cây họ đậu ở Trung Quốc của Zhang Deci (Trương Đức Từ
– 張德慈). Là một nhà khoa học nông nghiệp và môi trường tại Viện Nghiên
cứu Lúa Quốc tế ở Philippines, ông Trương đã làm việc với giả định rằng
chi (Orzya) mà loài lúa hiện tại phát triển có nguồn gốc từ khu vực ngày nay
là Nam Á, một giả thuyết đã bị thách thức bởi các nhà di truyền học, những
người hiện cho rằng Orzya biến đổi ở nhiều địa điểm từ một tổ tiên hoang
dã chung (Kovach và cộng sự 2007).
Trong chương sách năm 1983 của mình, cũng như trong một bài báo
vào năm 1976, Trương đã thảo luận về các con đường khác mà theo ơng hai
tiểu lồi lúa hoang của Orzya: Orzya sativa Japonica và Orzya sativa
Indica, lan đến Trung Quốc. Đối với Orzya sativa Indica, Trương nói rằng
họ hàng hoang dã của lồi phụ này “… có thể được mang từ Đông Dương
và phân tán dọc theo bờ biển đến tận [Hồ Bắc]” (Chang 1983: 72). Sau đó,
ơng nói rằng, “Q trình thuần canh thực sự có lẽ lần đầu tiên diễn ra ở
Trung Quốc” (Chang 1983: 73, xem thêm Chang 1976a: 143–145). Đây là
một ý kiến mà Trương đã nêu ra trước đó, trong một bài báo vào năm 1976
rằng, “Các kỹ thuật văn hóa như sục bùn và cấy ghép lần đầu tiên được phát
triển ở miền bắc và miền trung Trung Quốc và sau đó được truyền sang
Đông Nam Á” (Chang 1976b: 425). Đây cũng là một ý kiến đã được chấp



nhận rộng rãi vào những năm 1990 và được trình bày ngay cả trên các tạp
chí nổi tiếng như Science (Normile 1997: 309).
Vì thế, Trương Đức Từ lập luận rằng các chủng lúa hoang đã lan vào
Trung Quốc, chứ không phải là việc trồng lúa nước bắt đầu từ bên ngoài,
rồi lan vào Trung Quốc. Tuy nhiên, điểm thứ hai này chính là những gì
Cung Đình Thanh tun bố dựa trên việc đọc (sai) chương sách của
Trương. Cung Đình Thanh làm điều này bằng cách đầu tiên thảo luận về
tác phẩm của Trương, nhưng ông bỏ qua điểm quan trọng mà Trương đã
viết về sự phát tán của lúa hoang hơn là trồng lúa nước. Khi làm như vậy,
Cung Đình Thanh biến lập luận của Trương rằng lúa hoang phát tán về phía
bắc từ Đơng Dương đến lưu vực sơng Dương Tử thành lập luận rằng thực
hành trồng lúa nước lan rộng trên cùng khu vực đó. Trong q trình
này, Cung Đình Thanh cũng trích dẫn sai nghiên cứu của Trương và
đưa thông tin lịch sử mới lạ vào. Để trích dẫn, Cung Đình Thanh nói rằng
Trương Đức Từ “khẳng định rằng loại lúa này (Orzya sativa Indica) được
đưa (đến Trung Quốc) từ Indonesia (thực ra, Trương nói là ‘Indochina’) và
nó được phát triển dọc theo bờ biển từ Hà Bắc (thực ra, Trương đã đề cập
đến ‘Hồ Bắc’) đến khu vực phía nam sơng Dương Tử xung quanh Thượng
Hải, đi qua tuyến đường quan trọng của tỉnh Chiết Giang, nơi mà sau này,
trong thời Chiến quốc, là nơi Vương quốc Yue (Việt) dưới thời vua Câu
Tiễn đã được định vị.” Cung Đình Thanh tiếp tục nói rằng, “Như đã trình
bày ở trên, một trong những trung tâm trồng lúa nước sớm nhất của lồi
người là Hịa Bình, ngày nay thuộc Việt Nam. Nghề trồng lúa nước do đó
đã có mặt ở vùng này cách đây 10.000 năm” (Cung 1999b).
Kết luận mà Cung Đình Thanh đưa ra này, khơng dựa trên bằng
chứng. Vào thời điểm ông viết bài báo của mình năm 1999, những suy đốn
của Gorman và Solheim về việc thuần canh thực vật sớm ở Đông Nam Á đã
bị mất tin cậy từ lâu, và Cung Đình Thanh chỉ đơn giản là hiểu sai sự thật
rằng Trương Đức Từ đã nói về sự lan truyền của lúa hoang về phía bắc trong

quá khứ hơn là thuần canh lúa nước. Thay vào đó, điều Cung Đình Thanh
làm trong bài viết này là kết hợp một lập luận dựa trên mối liên hệ giữa một
số tên cụ thể và các tuyên bố xuất hiện trong các bài viết mà ông trích dẫn,
hơn là bằng chứng cứ học thuật có thật.
Cụ thể hơn, điều quan trọng đối với Cung Đình Thanh là Gorman đã
tìm thấy hạt lúa ở Spirit Cave, Solheim nói rằng thực vật trong vùng có thể
đã được thuần canh sớm nhất là 15.000 Trước CN, mà cả Gorman và
Solheim đều sử dụng thuật ngữ “Hoabinhian”, và Trương Đức Từ đã khẳng
định một con đường mà lúa lan truyền đến Trung Quốc là theo hướng bắc
dọc theo bờ biển từ Đông Dương. Điều không quan trọng đối với Cung Đình


Thanh là những hạt lúa mà Gorman tìm thấy hóa ra là dại chứ không phải
được thuần canh, rằng giả thuyết của Solheim không bao giờ được chứng
minh là đúng, rằng Gorman và Solheim đã dùng thuật ngữ “Hoabinhian” để
chỉ các địa điểm ở Thái Lan, chứ không phải ở tỉnh Hịa Bình, Việt Nam, và
Trương Đức Từ đã đề cập đến sự lan truyền về phía bắc của lúa hoang, chứ
khơng phải lúa nước thuần canh. Nói cách khác, bằng cách tập trung
vào những từ ngữ và các tuyên bố nhất định, Cung Đình Thanh đã tạo ra
một lập luận rằng lúa đã được trồng ở Hịa Bình từ 10.000 năm trước và sau
đó đã phát tán về phía bắc đến đồng bằng sông Dương Tử.
Điều quan trọng ở đây là cách mà Cung Đình Thanh chuyển đổi thuật
ngữ “Hoabinhian”, một thuật ngữ được các học giả quốc tế sử dụng theo
nghĩa chung chung, thành cụ thể hơn và thuộc về trung tâm Việt Nam hơn,
chỉ Hịa Bình. Như đã đề cập ở trên, “Hoabinhian” là một thuật ngữ được
quốc tế chấp nhận để chỉ các tàn tích vật chất của những người săn bắn
hái lượm thời Đồ đá giữa (Mesolithic), những người sử dụng dụng cụ
làm bằng mảnh đá nhỏ và những người sinh sống trong một khu vực
địa lý kéo dài từ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc ngày nay đến đảo Sumatra
của Indonesia. Hơn nữa, việc một số vật thể được dán

nhãn “Hoabinhian” đơn thuần là vì những mẫu vật đầu tiên của công cụ
mảnh đá nhỏ tiêu biểu cho nền văn hóa khảo cổ học này đã được tìm thấy ở
tỉnh Hịa Bình, Việt Nam. Cho đến nay, các nhà khảo cổ học quốc tế chưa
bao giờ xác định được một “trung tâm” hay “nơi phát sinh” của văn
hóa Hoabinhian. Tuy nhiên, Cung Đình Thanh đã coi tỉnh Hịa Bình ở Việt
Nam là trung tâm của mọi thứ thuộc Hoabinhian mà các học giả quốc tế đề
cập đến bất kể nơi nào ở Đông Nam Á mà họ nói đến. Làm như vậy, Cung
Đình Thanh khơng chỉ tin rằng cây lúa nước đã có mặt ở Hịa Bình từ 10.000
năm trước, mà điều này có nghĩa là Hịa Bình có thể là “một trong ba cái
nơi trồng trọt trên thế giới”, cùng với Nam Mỹ và Trung Đơng, trong đó
Nam Mỹ cung cấp cho thế giới sắn, Trung Đơng, lúa mì và Hịa Bình, lúa
nước (Cung 1999b). Quan điểm coi Hịa Bình là một trung tâm văn minh là
điều mà các học giả nói đến dưới đây cũng có.
Vì thế Cung Đình Thanh coi Hịa Bình không chỉ là trung tâm của thế
giới Hoabinhian cổ đại, mà còn là nơi khai sinh ra nghề trồng lúa nước. Sau
khi xác lập “sự thật” này qua việc đọc một cách sáng tạo các tác phẩm của
các học giả quốc tế, Cung Đình Thanh sau đó đã tìm cách giải thích những
yếu tố lịch sử nào đã giúp kiến thức trồng lúa nước lan truyền từ Hịa Bình
đến những nơi xa xơi như đồng bằng sơng Dương Tử. Ơng làm điều này
trong một bài báo khác trong số thứ ba của Tư tưởng, trong đó ơng tìm cách
gắn kết việc thuần hóa thực vật ở Hịa Bình và sự di cư lên phía bắc của


những người rời khỏi khu vực đó với trường hợp mực nước biển dâng trong
quá khứ. Cụ thể, ông lập luận rằng có một xu hướng chung của con người
là đi về vùng đất thấp và hướng ra biển. Vì vậy, ông cho rằng từ 30.000 năm
trước, người Việt cổ đã sinh sống ở vùng đồng bằng sông Hồng. Tuy nhiên,
sau đó, mực nước biển bắt đầu dâng từ 20.000 đến 17.000 năm trước vào
thời kỳ cuối thời đại băng hà. Cung Đình Thanh lập luận rằng điều này
đã đẩy người Việt cổ trở lại vùng đồi và chân núi, nơi họ buộc phải bắt đầu

tham gia vào việc trồng cây. Ơng nói rằng điều này đã dẫn đến sự xuất hiện
của văn hóa Hịa Bình. Cung Đình Thanh cũng lập luận rằng mực nước biển
dâng cao đã buộc người dân vào khoảng 8.000 năm trước CN phải di cư ra
xa hơn nữa, và đây là nguyên nhân dẫn đến sự lan rộng của nghề trồng lúa
nước đến các nơi ở Thái Lan và đồng bằng sông Dương Tử (Cung 1999c).
HỌC THUẬT QUỐC TẾ
Việc Cung Đình Thanh dựa vào học thuật của các học giả không phải
người Việt Nam chỉ ra một khía cạnh quan trọng khơng chỉ trong các bài
viết của ơng mà cịn của các học giả Việt Nam khác về cùng chủ đề này –
sự tin tưởng vào quan niệm về tính ưu việt của “học thuật quốc tế”. Đây là
điểm được thể hiện rõ ràng trong một bài báo đăng trên mạng năm 2001 về
cùng chủ đề nơng nghiệp ở Hịa Bình của Tiến sĩ y khoa Nguyễn Thị Thanh
ở Canada. Sinh tại tỉnh Quảng Trị, miền Trung Việt Nam, Nguyễn Thị
Thanh lấy bằng y khoa tại Paris năm 1965. Bà giảng dạy một thời gian tại
Đại học Moncton ở New Brunswick, Canada, nhưng sau đó trở về miền
Nam Việt Nam lập nghiệp, mở phòng khám bệnh. Bà vẫn ở đó sau khi chiến
tranh Việt Nam kết thúc. Một tiểu sử ngắn gọn trên Internet nói rằng sau đó
bà đã bị bỏ tù ba năm vì chống lại chế độ tham nhũng. Cuối cùng, vào năm
1988, Nguyễn Thị Thanh di cư sang Canada và được cấp bằng sáng chế cho
một phương pháp mà bà đã phát triển để điều trị ung thư và các bệnh nhiễm
vi rút bằng thuốc diệt nấm (Vơ 2002).
Năm 2001, Nguyễn Thị Thanh đã đăng một bài báo có tên “Việt Nam,
Trung tâm Nông nghiệp Lúa nước và Công nghiệp Đá lâu đời nhất Thế giới”
trên một trang web do một tổ chức có tên là Thơng tấn xã Cơng giáo Việt
Nam (Vietnamese Catholic News Agency) chủ trì, mà vào thời điểm đó nằm
ở Huntington Beach, California. Trong thảo luận của mình về q khứ,
Nguyễn Thị Thanh theo mơ hình mà Lương Kim Định đặt ra hàng chục năm
trước, đó là tưởng tượng tổ tiên của người Việt ban đầu sinh sống ở khu vực
ngày nay là Trung Quốc và những người chăn ni Hán tộc sau đó đã di cư
vào, xua đuổi tổ tiên của người Việt trở về phía nam, và tiếp thu kiến thức

nông nghiệp của họ. Khi cho rằng tổ tiên của người Việt đã biết trồng cây,


Nguyễn Thị Thanh, cũng như Cung Đình Thanh, trở lại các bài viết của
Wilhelm Solheim, và dẫn một đoạn trích dài từ một bài báo năm 1967 trên
tạp chí Science, nơi Solheim cũng đã nêu những gì các học giả “có thể” đi
đến kết luận vào một ngày trong tương lai. Solheim đã viết:
Tơi nghĩ rằng rất có thể khi khôi phục thêm dữ liệu từ Đông Nam Á
lục địa, chúng ta sẽ thấy rằng việc thuần canh thực vật đầu tiên trên thế giới
đã được thực hiện bởi các dân tộc Hoabinhian vào khoảng 10.000 năm
trước CN … rằng miền bắc và trung Đơng Nam Á Lục địa có nền văn hóa
tiến bộ trong đó việc mài và đánh bóng đá đầu tiên ở châu Á, nếu khơng
phải là thế giới, đã phát triển và đồ gốm đã được phát minh; rằng việc thuần
canh thực vật đầu tiên này, như gợi ý của Sauer, không chỉ cung cấp ý tưởng
về nơng nghiệp cho phương Tây (và sau đó là một số loại cây cho Ấn Độ và
Châu Phi) mà Đông Nam Á Lục địa tiếp tục là khu vực phát triển ở Viễn
Đông cho đến khi Trung Quốc tiếp quản đà này trong nửa đầu thiên niên kỷ
thứ hai trước Cơng ngun (Solheim 1967: 889).
Ngồi nghiên cứu của Sauer, Solheim cịn đề cập đến cơng việc của
các học giả khác trong bài báo này trên tạp chí Science mà ông khẳng định
tầm quan trọng của Đông Nam Á như một nguồn tiềm năng của nông nghiệp
thế giới. Tuy nhiên, khi làm như vậy Solheim nêu bật những điểm phù hợp
với lập luận của mình và khơng đề cập đến những thơng tin khơng phù hợp.
Ví dụ, ơng nói rằng nhà thực vật học Liên Xô Nikolai Ivanovich Vavilov
“dường như là nguồn chính trình bày tính ưu việt của Đơng Nam Á về nguồn
gốc của nhiều loại cây trồng” (Solheim 1967: 898). Mặc dù sự thực là
Vavilov lập luận rằng một số loài thực vật đã được thuần canh ở Đơng
Nam Á và liệt kê một số ví dụ từ Đông Nam Á hải đảo chứ không phải
từ lục địa, ông cho rằng Trung Quốc là “trung tâm độc lập sớm nhất và lớn
nhất của nền nông nghiệp thế giới và là cội nguồn của cây trồng” (Vavilov

1951: 21, 28–30). Ông cũng lưu ý rằng Trung Quốc đứng sau Ấn Độ về số
lượng các lồi thuần hóa được du nhập vào đó, nhưng Ấn Độ đặc biệt quan
trọng vì “Ấn Độ chắc chắn là nơi sản sinh ra cây lúa” (Vavilov 1951: 29).
Solheim cũng đề cập trong bài báo này cơng trình của Trương Quang
Trực (Zhang Guangzhi – 張光直), một nhà khảo cổ học, lập luận rằng bằng
chứng về việc đốt rừng ở Đài Loan khoảng 11.000 năm trước đây có lẽ là vì
mục đích đốt nương làm rẫy, và con người thời đó có thể đã trồng trọt lấy
củ và quả. Trương cũng xác định một loại đồ gốm trong khoảng thời gian
đó mà ơng gọi là “Đồ gốm có sọc” (Corded Ware), vì nó được đánh dấu
bằng các sọc (Chang 1972: 63). Solheim liên hệ đồ gốm này với một loại
đồ gốm có sọc được tìm thấy ở một số địa điểm của Hoabinhian và nói rằng,
“Đi liền với đồ gốm này và các công cụ bằng đá – công cụ một mặt điển


hình của người Hoabinhian được dùng như một chiếc cuốc cầm tay tốt – là
rất nhiều vỏ sò tươi hoặc vỏ hến. . . và xương động vật.” Sau đó, ông đi đến
kết luận: “Như vậy, chúng ta có một nền văn hóa săn bắn-hái lượm với
những cơng cụ tốt để làm đất, một tình huống đầy hứa hẹn cho việc thuần
canh các loại cây có củ” (Solheim 1967: 898).
Mặc dù tình hình tại các địa điểm Hoabinhian thực sự có thể hứa hẹn
cho việc thuần canh các loại cây lấy củ, cả Solheim lẫn bất cứ học giả nào
khác đều không thực sự cung cấp bằng chứng về nông nghiệp
Hoabinhian. Tuy nhiên, Nguyễn Thị Thanh nói rằng Sauer, Solheim,
Chang và Vavilov đều công nhận rằng “Đông Nam Á, với Việt Nam dẫn
đầu, có một nền văn hóa tiền sử phát triển rất sớm, và đó là nền văn hóa tiên
tiến, nhanh chóng, sáng tạo và sơi động chưa từng được chứng kiến ở bất
kỳ nơi nào khác trên thế giới ”(Nguyễn 2001). Sau đó, bà nói cụ thể hơn về
Hịa Bình:
Dựa trên khảo cổ học, mọi bí mật của thời tiền sử đã được tiết lộ. Và
thế giới đã cơng nhận Việt Nam, tượng trưng là nền văn hóa Hịa Bình, một

cái tên đã được quốc tế hóa (Encyclopédie d’Archéologie) và được thế giới
khẳng định là nơi có nền nông nghiệp lúa nước và công nghiệp đá sớm nhất
thế giới (Nguyễn 2001).
Nói cách khác, đối với Nguyễn Thị Thanh, các học giả quốc tế là trọng
tài cuối cùng của sự thật, và về cơ bản bà tìm cách khiến người Việt Nam
xấu hổ khi không nhận ra điều mà các học giả quốc tế đã công nhận từ lâu.
Dĩ nhiên, vấn đề ở đây là vào thời điểm Nguyễn Thị Thanh viết bài báo
của mình, các học giả quốc tế đã xác định từ lâu rằng những suy đoán
của Solheim và những người khác trong những năm 1950 và 1960 là
khơng đúng. Do vậy, có sự mâu thuẫn trong việc đồng thời chỉ dựa vào
chuyên môn của các học giả quốc tế và bỏ qua kiến thức chuyên môn (cập
nhật) của các học giả quốc tế. Tuy nhiên, mâu thuẫn đó rõ ràng có thể chấp
nhận được đối với Nguyễn Thị Thanh và những người khác vì họ muốn khắc
họa một quá khứ huy hoàng cho người Việt Nam.
DI TRUYỀN HỌC
Trong ấn phẩm Tư tưởng tháng 4 năm 2000, Cung Đình Thanh và
đồng nghiệp, Tiến sĩ Nguyễn Đức Hiệp, đã giới thiệu với độc giả một chủ
đề mới thú vị – những hiểu biết mà khoa học di truyền đã cung cấp trong
nghiên cứu về sự tiến hóa và di cư của con người. Lúc đó, Nguyễn Đức Hiệp
đang là nhà khoa học khí quyển ở New South Wales, Australia. Sinh tại Việt
Nam, Nguyễn Đức Hiệp sang Úc vào năm 1974 để học tập và nhận bằng
tiến sĩ kỹ thuật tại Đại học Tây Úc năm 1978 và một bằng tiến sĩ khác về kỹ


thuật điện tại Đại học Sydney năm 1985 (Nguyễn 2016; “Nguyễn Đức Hiệp”
nd). Trong ấn phẩm Tư tưởng tháng 4 năm 2000, Nguyễn Đức Hiệp lưu ý
rằng có một số khám phá nhất định có thể thay đổi đáng kể sự hiểu biết của
chúng ta về quá khứ, chẳng hạn như vào thế kỷ 19, nhà Đông phương học
James Princep đã giải mã các sắc lệnh vốn được viết vào thế kỷ thứ ba trước
CN của hoàng đế Ashoka, từ đó đưa ra ánh sáng một chương lịch sử Ấn Độ

chưa từng được biết đến trước đây. Nguyễn Đức Hiệp lập luận, đây chính là
những gì khoa học di truyền hiện đang làm cho lịch sử di cư cổ xưa của con
người (Nguyễn 2000).
Trong bài viết của mình, Nguyễn Đức Hiệp đã giới thiệu với độc giả
một cách ngắn gọn về cơng trình của L. Luca Cavalli-Sforza, một nhà khoa
học di truyền tại Đại học Stanford, người đã xuất bản một cuốn sách và
nhiều bài báo khác nhau vào những năm 1990, tiết lộ những gì khoa học di
truyền có thể cho chúng ta biết về sự tiến hóa của con người và định cư trên
trái đất (Cavalli-Sforza 1997, 1998; Cavalli-Sforza et al. 1994). Vào những
năm 1990, có hai lý thuyết chính liên quan đến sự tiến hóa của con người.
Một cho rằng Homo Erectus (người đứng thẳng) đã di cư ra khỏi châu Phi
khoảng một triệu năm trước và sau đó tiến hóa độc lập thành Homo
Sapiens ở các địa điểm khác nhau. Sự hỗ trợ chính cho lý thuyết này đến từ
lĩnh vực khảo cổ học. Tuy nhiên, trong suốt những năm 1990, lý thuyết
này đã mất tính thuyết phục khi các học giả như Cavalli-Sforza chứng
minh rằng khoa học di truyền đã cung cấp bằng chứng là những người
bên ngoài lục địa châu Phi ngày nay đều là hậu duệ của một nhóm nhỏ
người Homo Sapiens đã di cư ra khỏi châu Phi vào khoảng 70.000 năm
trước. Bằng chứng di truyền này đã ủng hộ lý thuyết chính khác về sự di cư
của con người, lập luận rằng người Homo sapiens tiến hóa ở châu Phi trước
tiên và sau đó di cư đến phần cịn lại của thế giới, nơi cuối cùng chúng thay
thế hậu duệ của những người Homo erectus di cư trước đó.
Mặc dù thơng tin di truyền này thuyết phục nhiều người, vẫn có những
học giả ở Trung Quốc tiếp tục tranh luận rằng con người hiện đại đã tiến
hóa độc lập ở Trung Quốc. Đáp lại tuyên bố đó, một nhóm các nhà di truyền
học do J. Y. Chu dẫn đầu đã kiểm tra giả thuyết này bằng cách kiểm tra bằng
chứng DNA từ một số dân cư, chủ yếu là người thiểu số, ở Trung Quốc. Chu
và các đồng nghiệp của ông đặc biệt quan tâm xem liệu có sự phân biệt giữa
những người ở miền bắc và miền nam Trung Quốc, và nếu có, thơng tin này
có thể làm sáng tỏ các mơ hình di cư cổ đại hay khơng. Kết quả nghiên cứu

của họ được công bố vào năm 1998 (Chu và cộng sự) và Nguyễn Đức Hiệp
đã dành phần lớn bài báo của mình để thảo luận về nghiên cứu này.


Chu và các đồng nghiệp của ông kết luận rằng “các cư dân ở Đơng Á
phải chịu sự đóng góp di truyền từ nhiều nguồn: Đông Nam Á, Altaic từ
Đông Bắc Á, và giữa Châu Á hoặc Châu Âu”. Song, họ khơng thể xác
định “đóng góp tương đối từ mỗi nguồn” vì bộ dữ liệu phần lớn đến từ các
nhóm dân tộc thiểu số và do đó khơng đại diện đầy đủ cho toàn bộ dân cư
Trung Quốc. Tuy nhiên, họ đã nhận ra sự khác biệt giữa các nhóm dân cư
miền bắc và miền nam Trung Quốc, và lập luận rằng “các nhóm dân cư miền
nam Đơng Á có thể có nguồn gốc từ các nhóm dân cư Đơng Nam Á ban đầu
di cư từ châu Phi, có thể qua Trung Á và các nhóm dân cư miền bắc bị ảnh
hưởng di truyền mạnh mẽ từ các nhóm dân cư Altaic từ phía bắc.” Dù Chu
và các đồng nghiệp của ơng khơng thể xác định liệu các nhóm dân cư Altaic
đã di cư vào hay có nguồn gốc trong khu vực hay không, qua kiểm tra bằng
chứng di truyền của họ cùng với thông tin từ các nghiên cứu khác nhau về
các đặc điểm răng và sọ của các nhóm dân cư trong khu vực, họ kết luận
rằng “dường như có khả năng tổ tiên của các nhóm dân cư nói tiếng Altaic
có nguồn gốc từ một nhóm dân cư Đơng Á ban đầu có nguồn gốc từ Đơng
Nam Á, mặc dù khơng thể phủ nhận các nhóm dân cư nói tiếng Altaic hiện
tại đã kết hợp với những người đến sau từ Trung Á và châu Âu.” (Chu et al.
1998: 11767).
LỊCH SỬ KHOA HỌC MỚI
Khi trình bày thơng tin này, Nguyễn Đức Hiệp đã đưa ra nhận định
rằng Hịa Bình thực sự là một trong những địa điểm khảo cổ học lâu đời
nhất ở Đông Nam Á, rằng “Vì vậy, có bằng chứng xác thực và là một cơ sở
[hỗ trợ cho ý kiến cho rằng] người Hòa Bình đã di cư về phía bắc và là tổ
tiên của người Đông Á” (2000). Sau khi nêu quan điểm này, Nguyễn Đức
Hiệp đã trích dẫn một số bài báo của Cung Đình Thanh đã đăng trên các số

báo Tư tưởng trước đó đã tranh luận về quan điểm này. Trong khi đó, cũng
trong số Tư tưởng này, Cung Đình Thanh đã đưa thông tin di truyền mới
này vào lược đồ tiền sử của riêng mình trong một bài báo có tựa đề “Dựa
trên những tiến bộ trong di truyền (DNA), có lẽ đã đến lúc chúng ta có thể
khẳng định nguồn gốc của người Việt?” (Cung 2000).
Trong bài viết này, Cung Đình Thanh chỉ ra rằng các nghiên cứu trước
đây về nguồn gốc của người Việt đã dựa vào hoặc là dấu tích văn bản hoặc
các bộ xương. Trong thời kỳ thuộc địa, có những học giả người Pháp đã
phiên dịch các văn bản cổ của Trung Quốc để lập luận rằng người Việt đã
di cư về phía nam trong lịch sử đồng bằng sông Hồng từ các khu vực ở
Trung Quốc, và có những học giả Việt Nam cũng đã theo cách giải thích
này. Trong thời kỳ thuộc địa, cũng có những nhà khảo cổ học người Pháp


ban đầu đã tìm cách xác định chủng tộc của những cư dân đầu tiên trong
khu vực dựa trên việc khám nghiệm những chiếc sọ được khai quật tại các
địa điểm khảo cổ. Đây là một thực tế mà các học giả Việt Nam tiếp tục thực
hiện trong những năm 1980, và dù các học giả khác nhau đưa ra các giả
thuyết khác nhau, nhìn chung tất cả họ đều có quan niệm rằng người Việt
Nam là sản phẩm của một sự pha trộn có mức độ giữa các chủng tộc đã diễn
ra trong khu vực vào thời cổ đại, chẳng hạn như giữa “Indonesiens” từ hải
đảo và ” Mongoloids” từ phía bắc.
Cung Đình Thanh thừa nhận rằng từ lâu ông đã cố gắng tìm hiểu quá
khứ qua những cách tiếp cận này nhưng di truyền học hiện nay đã chứng
minh rằng cả hai cách đó đều khơng đúng, vì cả hai đều cho rằng có một số
dân cư phương Bắc ảnh hưởng đến người Việt, trong khi đó các bằng chứng
di truyền cho thấy ngược lại rằng những người từ Đơng Nam Á di cư lên
phía bắc. Ngồi ra, Cung Đình Thanh nói rằng những người di cư lên phía
bắc là thành viên của văn hóa Hịa Bình và họ có thể đã di cư lên phía bắc
chủ yếu từ chính khu vực Hịa Bình ở miền Bắc Việt Nam, và họ chắc chắn

đã góp phần vào việc tạo nên đất nước Trung Hoa (Cung 2000).
Vào lúc Cung Đình Thanh viết bài báo này, các nhà khoa học di truyền
vẫn chưa xác định được chính xác thời gian diễn ra cuộc di cư về phía bắc
của con người vào Đông Á. Trong một bài báo vào cuối năm 1999, một
nhóm các nhà khoa học di truyền, trong đó có cả J.Y. Chu, đã lập luận đơn
giản rằng “sự xâm nhập đầu tiên của con người hiện đại vào phần phía nam
của Đơng Á là khoảng ~ 60.000 năm trước, tiếp theo là một cuộc di cư lên
phía bắc trùng với các sơng băng rút vào khu vực đó” (Bing và cộng sự
1999: 1723). Tuy nhiên, các nghiên cứu sau đó đã đề cập đến vấn đề niên
đại của cuộc di cư phía bắc đó. Ví dụ, vào năm 2005, một nhóm các học giả
di truyền đã xác định sự di cư về phía bắc của những người đầu tiên vào
Đông Á vào khoảng ∼25.000 – 30.000 năm trước, tức là trước thời kỳ
Hoabinhian, và rất lâu trước khi thuần canh thực vật (Hong et al. . 2008).
Trong khi đó, vào năm 2008, một nghiên cứu khác đã xác định một cuộc di
cư sớm hơn về phía bắc của những người đầu tiên vào Đông Á bắt đầu vào
khoảng 60.000 năm trước (Hong et al. 2008). Phát hiện này có vẻ phù hợp
với kết quả của một nghiên cứu từ năm 2011, kết luận rằng Đơng Nam Á có
hai sự phân tán chính, sự phân tán thứ hai dẫn đến sự định cư của Đông
Á (Reich và cộng sự 2011).
Bức tranh hiện đang nổi lên là những người đầu tiên đến Đông Nam
Á trong hai luồng phân tán và hai cuộc di cư về phía bắc vào Đơng Á. Những
sự kiện này xảy ra trước khi có bằng chứng về nền văn hóa Hoabinhian, và
rất lâu trước khi có bất kỳ bằng chứng nào về việc thuần canh thực vật hoặc


nông nghiệp ở Đông Nam Á. Cuối cùng, hai cuộc di cư rất sớm về phía bắc
này cuối cùng được theo sau bởi một cuộc di chuyển về phía nam muộn hơn
nhiều của những người mà ngày nay chúng ta gọi là “người Hán” trong hơn
hai thiên niên kỷ qua từ các khu vực mà ngày nay là miền bắc Trung Quốc
đến các khu vực ở phía nam của Sơng Dương Tử (Wen et al. 2004).

Như vậy, có hai sai lầm rất cơ bản trong lập luận của Cung Đình
Thanh. Thứ nhất là dù Solheim đưa ra giả thuyết rằng “việc thuần canh thực
vật đầu tiên trên thế giới được thực hiện bởi những người thuộc nền văn hóa
Hoabinhian, ở một nơi nào đó ở Đơng Nam Á,” điều này không được chứng
minh là đúng, và đã rõ ràng vào thời điểm mà Cung Đình Thanh viết. Sai
lầm thứ hai là bằng chứng di truyền cho sự định cư của người Đông Á chứng
tỏ rằng con người đã di cư vào Đơng Á từ rất lâu trước khi có bằng chứng
về văn hóa Hoabinhian và rất lâu trước khi có bằng chứng về sự thuần canh
thực vật và nông nghiệp ở Đơng Nam Á, và do đó, những người di cư này
khơng thể đến từ thế giới văn hóa Hoabinhian, như Cung Đình Thanh tưởng
tượng. Điểm thứ hai này có thể khơng được rõ ràng vào thời điểm mà Cung
Đình Thanh viết, nhưng hiện tại là như vậy, và như chúng ta sẽ thấy bên
dưới, những ý kiến của Cung Đình Thanh hiện đang được một tác giả ở Việt
Nam quảng bá. Điều đó nói lên rằng, Cung Đình Thanh hình dung rõ ràng
rằng ơng đang trong q trình tạo ra một lịch sử mới và khoa học hơn về
người Việt, và ông tuyên bố rằng “Chúng tôi nhận thấy rằng đã đến lúc
chúng ta phải đánh giá lại những lý thuyết trước đây về nguồn gốc của người
Việt để đưa chúng đến với những tiến bộ khoa học hiện nay” (Cung 2000).
VƯỜN ĐỊA ĐÀNG Ở PHƯƠNG ĐƠNG
Khơng lâu trước khi Cung Đình Thanh bắt đầu cơng bố các bài viết
của mình về tiền sử, Stephen Oppenheimer, một bác sĩ nhi khoa người Anh
với nhiều năm kinh nghiệm làm việc tại Đông Nam Á, đã xuất bản cuốn
sách mang tên Eden in the East: The Drowned Continent of Southeast
Asia (1998), với những gì Cung Đình Thanh sẽ viết. Trong cơng trình này,
Oppenheimer cho rằng Đơng Nam Á, chứ khơng phải Trung Đông hay
Trung Quốc, là “cái nôi của nền văn minh” sớm nhất. Ông lập luận rằng
cuộc Cách mạng Đồ đá mới (Neolithic Revolution) lần đầu tiên diễn ra ở
đó, và chính từ đó mà kiến thức về nơng nghiệp được lan truyền đến những
nơi khác trên thế giới. Cuối cùng, Oppenheimer cho rằng bằng chứng cho
cái nôi văn minh Đông Nam Á này phần lớn đã biến mất khi lãnh thổ nơi

nền văn minh này được cho là xuất hiện, thềm lục địa Sunda, bị nhấn chìm
vào thời kỳ cuối kỷ băng hà. Tuy nhiên, Oppenheimer chỉ ra nhiều dấu vết


của bằng chứng từ nhiều lĩnh vực khác nhau, từ khảo cổ học và ngôn ngữ
học đến địa chất và thần thoại mà ông biện luận ủng hộ nghiên cứu của
mình.
Viết về Đơng Nam Á, Oppenheimer chủ yếu tập trung vào thế giới hải
đảo, và nói rất ít về Việt Nam. Lý thuyết nổi bật về tiền sử Đông Nam Á hải
đảo là một nhóm cư dân nói ngơn ngữ Austronesian bắt đầu di cư vào khu
vực này từ Đài Loan từ khoảng 5.000 năm trước. Luận điểm “ra khỏi Đài
Loan” này cho rằng khi những dân tộc này di cư vào khu vực, họ đã mang
vào việc trồng lúa và sản xuất một số loại đồ gốm, cùng với các tập quán
khác (Bellwood 2004). Mặc dù đây là lý thuyết chính cho thời tiền sử của
khu vực, Solheim (1996) đã đưa ra một giải thích thay thế cho sự phát tán
của những người nói tiếng Austronesian, biện luận rằng họ xuất hiện trong
khu vực và lan ra ngoài khu vực mà ngày nay là Đông Indonesia vào thời
hậu kỳ của kỷ băng hà thông qua các mạng lưới buôn bán lâu đời.
Oppenheimer dựa trên lý thuyết của Solheim bằng cách lập luận
rằng nông nghiệp xuất hiện trước hết ở Đơng Nam Á và sau đó khi con
người buộc phải di cư do mực nước biển dâng cao vào hậu kỳ của kỷ băng
hà, họ không chỉ truyền bá bản thân và ngơn ngữ của họ mà cịn cả kiến
thức về nông nghiệp từ “cái nôi của nền văn minh” này. Tuy nhiên, bằng
chứng mà Oppenheimer xây dựng lập luận này là cực kỳ mỏng và có vấn
đề. Ví dụ, về sự tồn tại của nghề trồng lúa ở Đông Nam Á, Oppenheimer
trích dẫn (1998: 68–69) một báo cáo về cuộc khai quật khảo cổ học một địa
điểm hang động ở miền nam Thái Lan có đề cập đến “hạt lúa” được tìm thấy
ở mức độ có niên đại vào khoảng 7.000-9.000 năm trước. Báo cáo đó khơng
cho biết liệu những loại ngũ cốc đó là từ lúa thuần canh hay lúa dại, nhưng
Oppenheimer lưu ý rằng “nếu” niên đại đó đúng với lúa thuần canh, thì rõ

ràng là lúa đã được thuần canh độc lập ở Đông Nam Á (Oppenheimer 1998:
83).
Xây dựng một luận cứ dựa trên một giả thuyết là nguy hiểm và trong
trường hợp này, nó đã được chứng minh là tai họa, vì bằng chứng sớm nhất
về lúa thuần canh ở Thái Lan có niên đại từ 2.000–1.500 trước CN, và
đó là giống lúa mà các học giả cho rằng đã được thuần canh đầu tiên
trong khu vực thung lũng sông Dương Tử (Castillo 2011: 115–116). Tuy
nhiên, việc chỉ đề cập đến khả năng lúa có thể được thuần canh lần đầu tiên
ở Đông Nam Á cũng đủ khiến một số độc giả Việt kiều yêu thích cuốn sách
của Oppenheimer. Địa đàng ở Phương Đơng dường như đã được giới thiệu
với bạn đọc tiếng Việt lần đầu tiên vào năm 2000 trên một tạp chí ở
California có tên Thế kỷ 21 (Ngơ Thế Vinh), tuy nhiên tơi khơng thể tìm
thấy bài điểm sách này. Sau đó vào tháng 8 năm 2001, một bài nhận xét


được xuất bản trên Tư tưởng, và được in lại vào tháng 12 trên Thế kỷ 21.
Bài nhận xét này là của nhà dịch tễ học tên là Nguyễn Văn Tuấn. Sinh ra tại
tỉnh Kiên Giang, miền Tây Nam Bộ của Việt Nam, Nguyễn Văn Tuấn rời
đất nước vào năm 1981 với tư cách là một “thuyền nhân” và cuối cùng
chuyển đến Úc để lấy bằng y khoa. Vào thời điểm viết bài điểm sách Địa
đàng ở Phương Đông của Oppenheimer, Nguyễn Văn Tuấn là phó giáo sư
dịch tễ học tại Đại học Bang Wright, Hoa Kỳ (“Nguyễn Văn Tuấn” n.d.).
Trong bài điểm sách Địa đàng ở Phương Đông, Nguyễn Văn
Tuấn nhấn mạnh điều mà ông coi là ba điểm chính của cuốn sách. Những
điều này chứng tỏ rằng trong thời hậu kỳ kỷ băng hà, một khu vực rộng lớn
ở Đơng Nam Á hiện bị nhấn chìm đã từng nổi trên mặt nước biển, khoảng
9.000–10.000 năm trước, người dân ở khu vực này bắt đầu làm nông nghiệp
và khi nước biển bắt đầu dâng với sự kết thúc của hậu kỳ kỷ băng hà cách
đây khoảng 8.000 năm, người dân từ khu vực này đã phân tán về các hướng
(Nguyễn 2001: 12). Hai điểm cuối cùng này đặc biệt quan trọng đối với

Nguyễn Văn Tuấn vì ơng liên hệ chúng với thời tiền sử của người Việt. Một
lần nữa, mặc dù Oppenheimer không tập trung vào tiền sử của Việt Nam,
nhưng Nguyễn Văn Tuấn cho rằng những phát hiện trong vườn Địa đàng ở
phương Đơng có thể hỗ trợ một cách nhìn mới về quá khứ của người Việt.
Để trích dẫn, ơng nói rằng nhờ cuốn sách của Oppenheimer:
Chúng ta có bằng chứng để khẳng định rằng trước khi tiếp xúc với
người Hán đến từ phía bắc (Trung Quốc), tổ tiên chúng ta đã tạo ra một
nền văn minh khá tinh vi, nếu khơng muốn nói là tinh vi nhất Đông Nam Á.
. . Tổ tiên chúng ta đã phát triển và tận dụng kỹ thuật trồng lúa trước thời
Hán, hoặc là những người đã dạy người Hán trồng lúa (khơng phải ngược
lại). Và có thể tổ tiên chúng ta là tổ tiên của người Trung Quốc ngày nay.
Đã đến lúc phải trả lại sự thật và vinh quang cho tổ tiên chúng ta (Nguyễn
2001: 14).
Sách của Oppenheimer không ủng hộ những khẳng định mà Nguyễn
Văn Tuấn đưa ra ở đây, và có những người Việt đọc bài điểm sách của ơng
đã dễ dàng nhận ra điều đó. Một người đã làm điều này, tên là Nguyễn
Quang Trọng sống ở Rouen, Pháp (2002). Trong một phản hồi chi tiết cho
bài điểm sách của Nguyễn Văn Tuấn được đăng trên một tạp chí trực tuyến
có trụ sở tại California, Nguyễn Quang Trọng đã tranh luận với lập luận của
Nguyễn Văn Tuấn từng điểm một. Về vấn đề phát triển nông nghiệp ở Đông
Nam Á, Nguyễn Quang Trọng lưu ý rằng ngay cả chính Oppenheimer cũng
khơng thực sự khẳng định, vì ông biết rằng bằng chứng từ Thái Lan mà ông
trích dẫn chưa được xác nhận. Ngoài ra, Nguyễn Quang Trọng cũng lưu ý
rằng khơng có bằng chứng trực tiếp nào về nơng nghiệp từng được tìm thấy


ở các địa điểm Hoabinhian ở Việt Nam. Khẳng định của Nguyễn Văn
Tuấn rằng “tổ tiên chúng ta” đã phát triển nơng nghiệp và đã truyền dạy kỹ
thuật đó cho người Hán, vì vậy khơng phải là một sự thật mà là một ví dụ
về cảm giác tự tơn q mức, Nguyễn Quang Trọng lập luận.

Một điểm quan trọng khác mà Nguyễn Quang Trọng đưa ra là thật sai
lầm khi nghĩ con người trong thời kỳ sơ khai này là một phần của những
nhóm được xác định rõ ràng và khơng thay đổi. Thay vào đó, ơng tranh luận
rằng ngay cả trong thời kỳ sơ khai này có một sự pha trộn rất lớn các tộc
người. Đây chính là những gì các nghiên cứu di truyền và khảo cổ học gần
đây đã tiết lộ. Dù luận điểm về Đài Loan vẫn chưa bị lật ngược, nó đã trở
nên phức tạp hơn rất nhiều. Điều mà các học giả có thể thấy là khơng phải
những người nói tiếng Austronesian đã mang cả một “gói” thực hành Đồ đá
mới làm sẵn vào Đơng Nam Á và Thái Bình Dương. Thay vào đó, một số
kỹ thuật liên quan đến những người nói tiếng Austronesian có thể đã xuất
hiện trong “các lĩnh vực tương tác” ở khu vực ngày nay là đông Indonesia
và New Guinea (Anderson và O’Connor 2008: 3). Hơn nữa, không phải tất
cả các cuộc di cư hoặc tiếp xúc của người Austronesian đều liên quan đến
nơng nghiệp. Ví dụ, đồ gốm, đồ tạo tác đã được dùng để lần theo dấu các
cuộc di cư của người Austronesian, không nhất thiết phải luôn gắn liền với
nông nghiệp (Spriggs 2011: 523). Cuối cùng, khoa học di truyền đang chứng
minh rằng thay vì tưởng tượng một làn sóng người di cư tràn qua một khu
vực, những người nói tiếng Austronesian đã pha trộn với các nhóm dân cư
cịn tồn tại vững chắc và chiếm ưu thế về số lượng trong khu vực (Soares et
al. 2008). Nói cách khác, các học giả vẫn đồng ý rằng có những cuộc di cư
vào khu vực từ phía bắc mang theo kiến thức nông nghiệp, tuy nhiên những
cuộc di cư đó là một phần của q trình di cư và tương tác vô cùng phức tạp
và đa dạng của con người.
Như vậy, Địa đàng ở phương Đông đưa ra một số tuyên bố có vấn
đề, và những quan niệm mà cuốn sách đã truyền cảm hứng cho Nguyễn
Văn Tuấn khẳng định đơn giản là sai. Nhưng, Nguyễn Văn Tuấn không
đơn độc khi coi cuốn sách này như một sự ủng hộ vững chắc cho một cái
nhìn cụ thể về quá khứ mà ông muốn thúc đẩy. Năm 2005, bản dịch tiếng
Việt sách của Oppenheimer được xuất bản tại Việt Nam. Bản dịch tiếng Việt
này có phần giới thiệu của Nguyễn Văn Tuấn nhẹ nhàng hơn nhiều so với

phần mở đầu trước đó của ơng. Có lẽ Nguyễn Văn Tuấn nhận ra rằng mình
đã thổi phồng tầm quan trọng của cuốn sách, nhưng nếu có, điều đó cũng
khơng thành vấn đề vì bản dịch này ra đời cùng thời điểm người Việt ở Việt
Nam bắt đầu viết về những vấn đề này. Những gì ban đầu là một cuộc thảo


luận giữa những người Việt ở nước ngoài, nay đã thu hút sự chú ý của độc
giả ở Việt Nam, cả trên mạng và qua in ấn.
HÀ VĂN THÙY

Trong khi có rất nhiều cá nhân ở Việt Nam bắt đầu thảo luận về vấn
đề tiền sử này, thì một nhà văn đã đóng vai trị chủ đạo, một cựu nhà báo
tên là Hà Văn Thùy. Sinh năm 1944 tại tỉnh Thái Bình, miền Bắc Việt Nam,
Hà Văn Thùy tốt nghiệp đại học ngành sinh học năm 1967 tại Hà Nội. Vào
những năm 1980, Hà Văn Thùy làm phóng viên ở tỉnh Kiên Giang, miền
Tây Nam Bộ của Việt Nam. Cuối những năm 1980, ông vướng vào một vụ
tranh chấp với chính quyền trong Hội Nhà báo, tổ chức mà tất cả các nhà
báo phải là thành viên mới được làm việc, và cuối cùng bị khai trừ vào năm
1989 (“Hà Văn Thùy” n.d.). Tuy nhiên, việc kết thúc sự nghiệp báo chí
chính thống của Hà Văn Thùy khơng dẫn đến việc ơng chấm dứt viết lách,
vì ơng tiếp tục cho ra đời các bài viết về các chủ đề khác nhau, và năm 2005,
ông chuyển sang chủ đề tiền sử.
Trong năm đó, Hà Văn Thùy đã đăng một bài báo trên một trang web
tên là Talawas do một tác giả người Việt bất đồng chính kiến ở Đức, Phạm
Thị Hồi, điều hành. Vào đầu những năm 2000, Talawas là diễn đàn đầu
tiên cho các cuộc thảo luận phản biện trong giới trí thức Việt Nam. Nhiều
người đóng góp và độc giả là người Việt Nam sống ở nước ngoài, tuy nhiên
họ đến từ một nhóm dân cư ngày càng đa dạng ở hải ngoại. Một số họ đã ra
đi vào cuối Chiến tranh Việt Nam, một số khác đã rời đi với tư cách thuyền
nhân vào cuối những năm 1970 và 1980, số khác đến Liên Xô và Đông Âu

trong Chiến tranh Lạnh và đã ở lại, và có người Việt Nam đang học tập ở
nước ngoài. Cuối cùng, ngày càng nhiều trí thức từ Việt Nam đọc và tham
gia Talawas khi việc sử dụng Internet được mở rộng trong nước và khi mọi
người phát hiện ra cách vượt tường lửa để vào một số trang web.
Hà Văn Thùy bắt đầu bài viết của mình bằng cách bày tỏ mối quan
tâm tương tự như của Cung Đình Thanh và Lương Kim Định, tức là nỗi sợ
hãi về sự tồn vong của văn hóa Việt Nam. Ơng lưu ý rằng trong thời đại
tồn cầu hóa hiện nay, người ta lo sợ rằng văn hóa Việt Nam sẽ bị chiếm
đoạt bởi các yếu tố từ các nền văn hóa ngoại lai và do đó chính phủ đã ban
hành nhiều chỉ thị về sự cần thiết phải bảo tồn tinh hoa văn hóa Việt Nam.
Nhưng, Hà Văn Thùy cho rằng càng nhiều người nói về chủ đề này thì các
ý kiến càng trở nên phức tạp, đến mức cần phải xác định rõ dân tộc Việt
Nam chính xác là ai và định nghĩa chính xác văn hóa Việt Nam là gì. Hà
Văn Thùy thừa nhận mình khơng phải là một nhà sử học, nhưng là “một


×