Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong luật hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh đắk lắk)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NÔNG THỊ QUỲNH HOA

TéI HIếP DÂM NGƯờI DƯớI 16 TUổI
TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)

LUN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2022


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NÔNG THỊ QUỲNH HOA

TéI HIếP DÂM NGƯờI DƯớI 16 TUổI
TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)
Chuyờn ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN DUY HỮU

HÀ NỘI - 2022



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nông Thị Quỳnh Hoa


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI
DƯỚI 16 TUỔI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ................. 8
1.1.

Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội hiếp dâm người
dưới 16 tuổi ....................................................................................... 8

1.1.1. Khái niệm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi ........................................ 8
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi ............. 10

1.2.

Khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về tội hiếp dâm người
dưới 16 tuổi ..................................................................................... 11

1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi BLHS năm 1985 có hiệu
lực pháp luật .................................................................................... 11
1.2.2. Giai đoạn BLHS năm 1985 có hiệu lực pháp luật ............................. 14
1.2.3. Giai đoạn BLHS năm 1999 có hiệu lực pháp luật ............................. 18
1.3.

Những quy định chung của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi ..................... 19

1.3.1. Những quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi ........................................ 20
1.3.2. So sánh tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi với một số tội phạm
xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi khác .................................... 45
Kết luận chương 1 ...................................................................................... 51


Chương 2: THỰC TIỄN XÉT XỬ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÒNG
CHỐNG TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI.................... 52
2.1.

Thực tiễn xét xử tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk giai đoạn từ năm 2016 - 2020.................................. 52

2.1.1. Tình hình xét xử tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trên địa bàn

tỉnh Đắk Lắk giai đoạn từ năm 2016 – 2020 ..................................... 53
2.1.2. Một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn xét xử tội hiếp dâm người dưới
16 tuổi trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn từ năm 2016 – 2020 ............ 58
2.1.3. Nguyên nhân của một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn điều tra,
truy tố và xét xử tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn từ năm 2016 – 2020 .............................. 78
2.2.

Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao
hiệu quả đấu tranh, phòng, chống tội hiếp dâm người dưới
16 tuổi ............................................................................................. 84

2.2.1. Kiến nghị hồn thiện pháp luật hình sự ............................................ 84
2.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng, chống tội hiếp
dâm người dưới 16 tuổi .................................................................... 89
Kết luận chương 2 ...................................................................................... 97
KẾT LUẬN ................................................................................................. 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 100
PHỤ LỤC.................................................................................................. 104


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Nghĩa đầy đủ
BLHS

Bộ luật hình sự

CTTP


Cấu thành tội phạm

NXB

Nhà xuất bản

TAND

Tịa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em là mầm non tương lai của đất nước, là những chủ nhân của Tổ
quốc sau này, chính vì lẽ đó việc chăm lo và bảo vệ trẻ em được coi là một
trong những ưu tiên hàng đầu của Việt Nam, đòi hỏi sự kết hợp đồng bộ, hiệu
quả của toàn hệ thống chính trị với sự nỗ lực của gia đình, nhà trường và toàn
xã hội, cũng như các nguồn lực trong nước và quốc tế.

Cùng với việc phát triển kinh tế, trong những năm qua, Nhà nước ta đã
ban hành nhiều chính sách, văn bản pháp luật trực tiếp hoặc gián tiếp liên
quan đến bảo vệ các quyền trẻ em. Từ các bản Hiến pháp, các bộ luật, luật
đến các văn bản dưới luật đã tạo thành một hệ thống pháp luật bảo vệ trẻ em
phù hợp với các công ước quốc tế và truyền thống văn hoá của dân tộc. Cụ
thể: Quyền trẻ em đã được hiến định từ Hiến pháp năm 1946 (trực tiếp là các
Điều 14, 15 và được hàm chứa trong một số điều khác), và trong tất cả các
Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 (gồm cả lần sửa đổi, bổ sung vào
năm 2001), năm 2013. Tại Hiến pháp năm 2013, quyền trẻ em được quy định
như sau: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ,
ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi
phạm quyền trẻ em” [16, Điều 37]. Quyền trẻ em cũng được thể chế hóa trong
nhiều bộ luật và luật, mà tập trung là Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và
Luật Trẻ em năm 2016 ...
Việt Nam cũng là nước đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên thế
giới phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em (CRC) vào
ngày 20/02/1990. Và phê chuẩn 2 Nghị định thư bổ sung của Công ước quyền
trẻ em là Nghị định thư không bắt buộc về trẻ em trong xung đột vũ trang và

1


Nghị định thư không bắt buộc về chống sử dụng trẻ em trong mại dâm, tranh
ảnh khiêu dâm.
Theo quy định tại Luật trẻ em năm 2016 thì: “Trẻ em là người dưới 16
tuổi” [20, Điều 1]. Trẻ em là nhóm người yếu thế và dễ bị tổn thương trong xã
hội, vì vậy được coi như những cơng dân đặc biệt của xã hội, được Nhà nước
và nhân dân chăm sóc và được dành cho những ưu tiên, cũng như tạo mơi
trường lành mạnh để phát triển tồn diện về thể chất, trí tuệ và đạo đức. Tuy

nhiên, trong những năm gần đây, các hành vi xâm hại và xâm hại tình dục
người dưới 16 tuổi nói chung và tội phạm hiếp dâm người dưới 16 tuổi nói
riêng liên tiếp xảy ra với diễn biến phức tạp, nhiều vụ việc chưa được xử lý
hoặc xử lý không kịp thời, nghiêm minh gây hoang mang trong quần chúng
nhân dân, gây bất bình trong dư luận xã hội và cảnh báo “đỏ” về sự an toàn
của những người dưới 16 tuổi và sự xuống cấp về đạo đức, ý thức pháp luật
của những người trưởng thành. Đây là loại tội phạm nguy hiểm, xâm phạm
quyền được bảo vệ thân thể, nhân phẩm, danh dự của người dưới 16 tuổi, làm
ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến thuần phong
mỹ tục, gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển bình thường về tâm, sinh lý của
người dưới 16 tuổi. Đây không chỉ là vấn nạn riêng ở tỉnh Đắk Lắk mà còn là
vấn nạn ở hầu hết các tỉnh, thành trên cả nước.
Để đấu tranh phòng chống loại tội phạm này, Nhà nước cần tiến hành
đồng bộ nhiều biện pháp khác nhau, trong đó, biện pháp hình sự đóng vai trị
vơ cùng quan trọng. BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực
pháp luật kể từ ngày 01/01/2018 đã có nhiều điểm mới, tiến bộ hơn so với
BLHS năm 1999, trong đó có quy định về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi,
làm hành lang pháp lý cũng như cơ sở pháp lý vững chắc cho các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng xử lý đối với các hành vi phạm tội hiếp
dâm người dưới 16 tuổi.

2


Tuy nhiên, sau hơn 03 năm áp dụng trên thực tiễn cũng nảy sinh một số
vấn đề tồn tại, hạn chế nhất định (như xác định sai tội danh; xác định sai
khung hình phạt; bỏ lọt tội phạm; có những vụ án có sự áp dụng pháp luật
khơng thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng …). Những tồn tại, hạn
chế này cũng ảnh hưởng đến việc áp dụng BLHS trên thực tế. Để đấu tranh,
phòng, chống hiệu quả các hành vi xâm phạm tình dục nói chung và tội hiếp

dâm người dưới 16 tuổi nói riêng địi hỏi các quy định của BLHS về loại tội
phạm này phải hoàn thiện và phù hợp với thực tiễn hơn. Vì vậy, cần nghiên
cứu một cách tồn diện quy định của BLHS hiện hành về tội hiếp dâm người
dưới 16 tuổi, từ đó chỉ rõ những tồn tại, hạn chế và ngun nhân để từ đó có
những kiến nghị hồn thiện pháp luật và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu
quả đấu tranh, phòng chống loại tội phạm này.
Với lí do trên, tác giả đã chọn và nghiên cứu đề tài: “Tội hiếp dâm
người dưới 16 tuổi trong Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn
tỉnh Đắk Lắk)” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Các tội phạm xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi nói chung và tội hiếp
dâm người dưới 16 tuổi nói riêng là đối tượng nghiên cứu của nhiều cơng
trình khoa học và được nhiều nhà khoa học pháp lý quan tâm, nghiên cứu qua
các thời kỳ với nhiều góc độ khác nhau. Chẳng hạn như:
Về các cơng trình là giáo trình gồm: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam
phần các tội phạm do PGS. TSKH Lê Cảm chủ biên, NXB Đại học quốc gia
Hà Nội; Giáo trình Luật hình sự của Trường Đại học Luật Hà Nội do GS.TS
Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, NXB Cơng an nhân dân năm 2009; Giáo trình
Luật hình sự Việt Nam của Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội năm 2014 …
Về các cơng trình là Sách chun khảo có: Bình luận Bộ luật hình sự
năm 1999 (phần các tội phạm) do TSKH Lê Cảm chủ biên, Đại học Quốc gia

3


Hà Nội xuất bản năm 2001; Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ luật hình sự
năm 1999 (tập 1), các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh
dự của con người của tác giả Đinh Văn Quế, NXB Tư pháp năm 2006; Bình
luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội phạm của Viện nghiên cứu khoa
học pháp lý – Bộ tư pháp, NXB Chính trị Quốc gia năm 1999; 500 bài tập

định tội danh của GS.TSKH Lê Cảm và TS. GVC Trịnh Quốc Toản, Đại học
Quốc gia Hà Nội, NXB Đại học Quốc Gia năm 2012; Tội phạm và trách
nhiệm hình sự của TS. Trịnh Tiến Việt, Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB Đại
học Quốc gia năm 2013; Sách: Các tội tham nhũng, ma túy và các tội phạm
về tình dục đối với người chưa thành niên do PTS Uông Chu Lưu, Bộ trưởng
Bộ tư pháp chủ biên, xuất bản năm 1997; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Phần các tội phạm) do GS. TS
Nguyễn Ngọc Hồ chủ biên, NXB Tư pháp; Bình luận Bộ luật hình sự năm
2015 phần thứ hai các tội phạm chương XIV các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người của tác giả Đinh Văn Quế, NXB
Thơng tin truyền thơng, năm 2018.
Các cơng trình là Luận án, Luận văn có: “Các tội xâm hại tình dục trẻ
em – quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và nghiên cứu so sánh với một
số nước” của Hồ Thị Nhung, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015;
“Các tội xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam” của Nguyễn
Thị Minh Hương, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014; “Bảo vệ
quyền trẻ em bằng pháp luật hình sự Việt Nam” của Tạ Thị Thu Thảo, trường
Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2013; “Các tội phạm tình dục trong luật hình sự
Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)” của Trịnh Văn
Toàn, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015; “Các tội hiếp dâm theo
quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam” của Cao Hữu Sáng, Khoa Luật – Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2015 …

4


Ngồi ra, cịn có một số bài báo, bài viết đăng trên Tạp chí Tịa án nhân
dân, Tạp chí Kiểm sát của VKSNDTC, cũng như một số bài tham luận trong
các diễn đàn khoa học trình bày về nhóm tội phạm xâm hại tình dục trẻ em,
các bài viết đăng trên Tạp chí Luật học của trường Đại học Luật Hà Nội, Tạp

chí Nghề Luật của Học viện Tư pháp …
Các nghiên cứu trên đã chỉ ra cơ sở lý luận về CTTP của tội hiếp dâm
người dưới 16 tuổi (theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 là Tội hiếp
dâm trẻ em); nêu rõ các vấn đề pháp lý liên quan như khái niệm “Trẻ em”
trong cấu thành cơ bản của điều luật; làm rõ khái niệm “người chưa thành
niên”; làm rõ khách thể bị xâm hại; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự; cũng có những cơng trình tổng kết lý luận và thực tiễn. Tuy
nhiên, các cơng trình nghiên cứu nêu trên nghiên cứu về tội hiếp dâm trẻ em
theo quy định của BLHS năm 1999 mà chưa có, hoặc có rất ít cơng trình
nghiên cứu chun sâu về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo quy định của
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và chưa có cơng trình nghiên
cứu nào về loại tội phạm này gắn với thực tiễn tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ một số
vấn đề lý luận, các dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi từ
đó đưa ra cái nhìn tổng quát của quy định của pháp luật về tội hiếp dâm
người dưới 16 tuổi, cũng như việc áp dụng các quy định pháp luật trong thực
tiễn. Trong khuôn khổ luận văn này đi sâu và nghiên cứu các khái niệm và
đặc điểm pháp lý của tội phạm này, đánh giá thực tiễn về loại tội phạm này
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, làm sáng tỏ những ưu điểm, tồn tại khi áp dụng
trong thực tiễn. Từ đó, đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của
điều luật cụ thể, đồng thời nâng cao hiệu quả đấu tranh, phịng, chống tội
phạm nói chung và tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi nói riêng. Thơng qua

5


việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội hiếp dâm người
dưới 16 tuổi nhằm làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến định tội danh,
quyết định hình phạt khi xét xử tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, đảm bảo

xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên tác giả cần hồn
thành các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về tội hiếp dâm người dưới
16 tuổi trong luật hình sự Việt Nam.
Thứ hai, tổng hợp thực tiễn xét xử và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện
pháp luật, giải pháp nâng cao hiệu quả phòng chống tội hiếp dâm người
dưới 16 tuổi.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn này nghiên cứu các vấn đề lý luận về tội hiếp dâm người dưới
16 tuổi trong pháp luật hình sự Việt Nam mà trọng tâm là theo quy định của
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và thực tiễn trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng, tác giả làm rõ
những vấn đề tồn tại, hạn chế để từ đó kiến nghị các giải pháp hoàn thiện
pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống loại tội
này. Việc nghiên cứu chuyên sâu vấn đề này đã được nhiều học giả cũng như
những người làm nghề luật thực hiện nhưng mỗi học giả, mỗi cơng trình
nghiên cứu dựa trên cơ sở các giai đoạn lịch sử khác nhau, dưới những góc
nhìn riêng và thực tiễn áp dụng tại các địa phương khác nhau. Vì vậy, việc
nghiên cứu đề tài “Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong Luật hình sự Việt
Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)” là nội dung mới và không
bị trùng lắp với các cơng trình khác.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: “Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong Luật
hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)”.

6


- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn sử dụng số liệu về tội hiếp dâm người

dưới 16 tuổi trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2016 – 2020.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp
cụ thể và đặc thù của khoa học Luật hình sự như phương pháp phân tích và
tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương
pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri
thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng trong luận văn.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm có 02 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn xét xử và kiến nghị hoàn thiện pháp luật, giải
pháp nâng cao hiệu quả phòng, chống tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16
TUỔI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội hiếp dâm người
dưới 16 tuổi
1.1.1. Khái niệm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là một trong các tội phạm xâm phạm
đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của con người (mà cụ thể là người dưới 16
tuổi) được quy định tại Chương XIV của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) – Sau đây viết gọn lại là BLHS năm 2015. Đây không phải là tội
danh mới mà là sửa đổi về tên tội danh của “Tội hiếp dâm trẻ em” trong
BLHS năm 1999, việc sửa đổi này nhằm phù hợp và đáp ứng nhu cầu đấu

tranh phòng chống tội phạm trong thời kỳ mới.
Để làm rõ được khái niệm về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, trước hết
cần nắm được các khái niệm tội phạm, tội hiếp dâm và người dưới 16 tuổi.
Trước tiên, cần phải hiểu tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi cũng là một
tội phạm được quy định trong BLHS và là một trường hợp đặc biệt của tội
hiếp dâm được quy định trong BLHS, vì vậy muốn hiểu rõ được nội hàm của
tội này cần nắm được nội hàm của khái niệm tội phạm.
Theo TSKH.GS Lê Văn Cảm:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong
pháp luật hình sự (hay cịn gọi là trái pháp luật hình sự hoặc bị pháp
luật hình sự cấm), do cá nhân (người) có năng lực trách nhiệm hình
sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi (cố
ý hoặc vơ ý) [2, tr. 298].
Tại BLHS năm 2015 tội phạm được định nghĩa như sau:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong

8


BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập,
chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế
độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật
tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, xâm phạm
những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo
quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự [19, Điều 8].
Thứ hai, tại BLHS năm 2015 định nghĩa về tội hiếp dâm như sau:
Hiếp dâm là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng
tình trạng khơng thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác

giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý
muốn của nạn nhân [19, Điều 141]. Hay nói cách khác hiếp dâm là
hành vi xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục của
người khác [12, tr. 231].
Thứ ba, về khái niệm người dưới 16 tuổi thì tại Điều 1 Luật trẻ em năm
2016 ghi nhận: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi” [20]. Như vậy, người dưới 16
tuổi là trẻ em, là đối tượng đặc biệt được Nhà nước và pháp luật bảo vệ, được
hưởng các quyền, bổn phận của trẻ em.
Theo tác giả Đinh Văn Quế định nghĩa: “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi
là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng khơng thể
tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi
quan hệ tình dục khác với người chưa đủ 16 tuổi” [13, tr. 252].
BLHS năm 2015 không nêu rõ khái niệm về tội hiếp dâm người dưới
16 tuổi, nhưng trên cơ sở tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là một trường hợp
đặc biệt của Tội hiếp dâm, trong đó căn cứ để phân biệt là đối tượng tác động
- nạn nhân là người dưới 16 tuổi và các khái niệm nêu trên, kết hợp với quy

9


định tại Điều 142 BLHS năm 2015, có thể khái quát khái niệm về Tội hiếp
dâm người dưới 16 tuổi như sau: Hiếp dâm người dưới 16 tuổi là hành vi
nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện
với lỗi cố ý bằng hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình
trạng khơng thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc
thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của người từ đủ 13
tuổi đến dưới 16 tuổi; hoặc trường hợp thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực
hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi khơng phụ thuộc
vào ý chí của nạn nhân đều phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi

Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 142 BLHS
năm 2015, thuộc Chương XIV – Các tội phạm xam phạm tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Việc quy định tội hiếp dâm người
dưới 16 tuổi là dựa trên cơ sở lý luận chặt chẽ, có ý nghĩa vơ cùng quan trọng:
Trước hết về mặt lý luận, đối tượng tác động của tội hiếp dâm người
dưới 16 tuổi là người dưới 16 tuổi, việc quy định tội này thể hiện chính sách
pháp luật hình sự của Nhà nước ta là chú trọng, quan tâm đến đối tượng người
dưới 16 tuổi - nhóm người yếu thế và dễ bị tổn thương trong xã hội, quy định
này cũng phù hợp với xu thế chung của nhiều quốc gia trên thế giới và pháp
luật quốc tế, giúp hạn chế tình trạng lợi dụng sự non nớt, yếu ớt về cả thể chất
lẫn nhận thức, chưa có khả năng biểu lộ ý chí đúng đắn, dễ bị người khác lơi
kéo, rủ rê, mua chuộc, khó có thể tự vệ được của người dưới 16 tuổi. Do đó,
bằng quy định này trong BLHS đã thể hiện ý chí của Nhà nước, nghiêm khắc
xử lý đối với các hành vi phạm tội, nhằm bảo vệ một cách đặc biệt cho người
dưới 16 tuổi, đảm bảo sự phát triển bình thường, lành mạnh của họ.
Về mặt thực tiễn, việc quy định tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi tạo cơ
sở pháp lý vững chắc trong việc áp dụng thống nhất pháp luật của các cơ quan

10


tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Đồng thời, tạo cơ sở pháp lý trong
công tác đấu tranh, phòng, chống tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về tội hiếp dâm người
dưới 16 tuổi
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi BLHS năm 1985 có hiệu
lực pháp luật
Trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954: Tháng Tám năm 1945
nhân dân Việt Nam đã đứng lên làm cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại xóa
bỏ chế độ thực dân - phong kiến, lập nên chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng

hịa. Nhà nước Cộng hồ dân chủ nhân dân non trẻ vừa ra đời đã phải tổ chức
cho nhân dân vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Nhiệm vụ của cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn này là: Bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và
kiến thiết quốc gia. Với tình hình kinh tế, chính trị như trên việc pháp điển
hóa luật hình sự vào thời điểm này là chưa thể thực hiện được nên ngày
10/10/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời đã ban hành Sắc lệnh số 47/SL theo
đó xác định nguyên tắc: “Cho đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất
cho toàn cõi nước Việt Nam, các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung và Nam bộ
vẫn tạm thời giữ nguyên như cũ, nếu những luật lệ ấy không trái với những
điều thay đổi ấn định trong sắc lệnh này” [4]. Nhìn chung về pháp luật của
nước ta trong giai đoạn này chưa có văn bản nào thể hiện định nghĩa về tội
phạm, mà chỉ quy định một số tội phạm cụ thể, các biện pháp pháp lý hình sự
đối với từng tội phục vụ nhu cầu kháng chiến của dân tộc.
Đến giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975: Đây là giai đoạn đất nước ta
bị chia cắt làm hai miền, với hai chế độ chính trị khác nhau. Sau khi Chiến
dịch Điện Biên Phủ năm 1954 giành chiến thắng, ngày 10/10/1954, bộ đội
Việt Nam tiến vào tiếp quản Thủ đô, miền Bắc hoàn toàn độc lập. Đất nước ta
bị chia cắt thành hai miền, đồng thời tiến hành hai chiến lược cách mạng ở hai

11


miền gồm: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hịa bình thống nhất Tổ quốc. Do đó,
việc áp dụng các luật lệ cũ khơng cịn phù hợp với tình hình nước ta nữa, vì
vậy, ở miền Bắc vào ngày 30/6/1955 Bộ tư pháp đã ban hành Thơng tư số
19/VHH-HS u cầu Tịa án khơng nên áp dụng luật lệ cũ của đế quốc, phong
kiến; ngày 10/7/1959, TANDTC ban hành Chỉ thị số 772/TATC ngày
10/7/1959 “Về đình chỉ áp dụng pháp luật cũ của đế quốc và phong kiến” để
yêu cầu các Tòa án các cấp trên toàn lãnh thổ Việt Nam chấm dứt hoàn toàn

việc áp dụng một số quy định pháp luật của chế độ cũ mà trong giai đoạn 14
năm trước đó (từ sau Cách mạng Tháng Tám/ 1945) còn tạm thời được giữ lại
để áp dụng trong một số trường hợp hãn hữu [36]. Tòa án bắt đầu xử theo án
lệ, theo chính sách của Đảng và Nhà nước. Thời điểm này cũng chưa có văn
nào nào quy đinh định về Tội hiếp dâm và tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
Tuy nhiên, trước tình hình gia tăng của các hình vi hiếp dâm trong xã hội thì
ngày 15/6/1960 TANDTC đã ban hành Chỉ thị số 1024 hướng dẫn về việc xử
lý Tội hiếp dâm (bao gồm cả tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi) nhằm khắc
phục khuynh hướng coi nhẹ tính chất nghiêm trọng của loại tội phạm này nhất
là coi nhẹ Tội hiếp dâm mà nạn nhân là trẻ em nhưng nội dung hướng dẫn vẫn
chưa được hoàn thiện [37]. Cũng cùng ngày 15/6/1960 TANDTC đã ban hành
Chỉ thị số 1025/TATC về đường lối xét xử tội phạm trong đó quy định xét xử
Tội giết người, Tội mê tín dị đoan và Tội hiếp dâm [38].
Trong báo cáo tổng kết từ năm 1961 đến năm 1969, TANDTC rút kinh
nghiệm về việc xử lý Tội hiếp dâm, đồng thời hướng dẫn xử lý một số hình
thức phạm tội mới mà pháp luật chưa điều chỉnh. Để giúp cho các quy định
pháp luật ngày càng hoàn thiện, đầy đủ và việc xử lý các hành vi phạm tội
được dễ dàng, ngày 11/5/1967, TANDTC đã thông qua Bản tổng kết số
329/HS2 hướng dẫn đường lối xét xử Tội hiếp dâm trẻ em và các tội phạm

12


xâm hại tình dục khác (gồm 04 hình thức phạm tôi gồm: Hiếp dâm (bao gồm
hiếp dâm trẻ em), cưỡng dâm, giao cấu với người dưới 16 tuổi và dâm ô). Tại
báo cáo này có viết:
Nếu hiếp dâm làm chết người hoặc làm nạn nhân tự sát thì xử phạt
từ 5 năm đến 20 năm. Trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì
có thể xử đến chung thân hoặc tử hình. Nếu kèm theo tội hiếp dâm
là cướp của, cần xét xử cả hai tội và tổng hợp hình phạt. Nếu tội

hiếp dâm kèm theo tội giết người (cũng như tội giết người kèm theo
tội hiếp dâm), không cần xử tổng hợp tội và có thể xử phạt đến tử
hình, giảm nhẹ đối với các trường hợp là phạm tội chưa hồn thành,
tác hại hạn chế hoặc bị cáo ít tuổi hoặc có các tình tiết nhân thân
của bị can như có cống hiến, thái độ hối cải … [39].
Bản tổng kết này cũng đã phân hóa, đánh giá mức độ nghiêm trọng của
hành vi hiếp dâm nói chung và hành vi hiếp dâm trẻ em nói riêng, đồng thời
chỉ ra đường lối xử lý đối với tội hiếp dâm trẻ em nặng hơn so với hành vi
hiếp dâm người đã thành niên. Trong bối cảnh đất nước chưa có BLHS để
quy định về việc xử lý các hành vi nguy hiểm cho xã hội thì việc ban hành các
văn bản tổng kết nêu trên của TANDTC nêu trên có ý nghĩa vô cùng quan
trọng làm căn cứ pháp lý cho việc giải quyết các vụ án hiếp dâm và hiếp dâm
trẻ em, để quản lý đất nước, giữ vững ổn định, trật tự trong xã hội.
Từ năm 1975 đến trước khi ban hành BLHS năm 1985: Ngày 30/4/1975,
chiến thắng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đánh dấu sự kết thúc công cuộc
kháng chiến chống Mỹ, đất nước ta hai miền được thống nhất nên việc thống
nhất pháp luật và xây dựng hệ thống pháp luật mới là một trong những nhiệm
vụ cấp bách. Vì vậy, tại kỳ họp thứ nhất của Quốc hộ khóa VI, Hội đồng
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết ngày 02/7/1976 đã thông qua chủ trương:
Những văn bản pháp luật hiện hành ở hai miền đều được áp dụng chung trong

13


cả nước vì đều xuất phát từ đường lối, chủ trương của Đảng. Đối với các tỉnh
phía Nam, những sắc luật mới được ban hành cũng như văn bản pháp luật
khác của Chính phủ cách mạng lâm thời vẫn tiếp tục được áp dụng. Nhưng
nếu có điều khoản nào đã được quy định q tổng qt, thì có thể và cần thiết
phải vận dụng luật lệ đã được thi hành ở miền Bắc. Đối với vấn đề nào mà ở
miền Nam chưa có luật lệ mà miền Bắc đã có, thì vận dụng luật lệ đang được

thi hành ở miền Bắc nhưng phải xem xét, vận dụng vào tình hình, đặc điểm
của miền Nam cho phù hợp. Đối với miền Bắc chưa có hoặc tuy đã có nhưng
chưa thích hợp mà miền Nam đã có và tiến bộ hơn thì áp dụng luật lệ ở miền
Nam. Một trong những văn bản nổi bật phải kể đến trong giai đoạn này là Sắc
luật số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy định các tội phạm và hình phạt, trong đó
có quy định về nhóm tội xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm của con người (bao gồm trong đó cả tội hiếp dâm).
Nhìn chung, pháp luật hình sự trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi
BLHS năm 1985 có hiệu lực pháp luật của nước ta mang đậm chất lịch sử,
trong bối cảnh mới giành được độc lập, thống nhất đất nước nên nhiệm vụ hàng
đầu được đặt ra là chống thù trong, giặc ngoài và xây dựng, củng cố Nhà nước
non trẻ, vì vậy việc pháp điển hóa luật hình sự chưa thể thực hiện, các quy định
về tội phạm và hình phạt nói chung và quy định về tội hiếp dâm, hiếp dâm
người dưới 16 tuổi trong giai đoạn này chưa được hồn thiện và cụ thể hóa.
1.2.2. Giai đoạn BLHS năm 1985 có hiệu lực pháp luật
BLHS năm 1985 là BLHS đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, là nguồn duy nhất quy định về tội phạm và hình phạt mà
khơng cịn quy định rời rạc, dàn trải trong nhiều văn bản như trước đây. Việc
pháp điển hóa Luật hình sự này đánh dấu bước tiến mới vượt bậc trong kỹ
thuật lập pháp hình sự của nước ta, phù hợp với thực tiễn của tình hình tội
phạm thời kỳ đó. Tội hiếp dâm (bao gồm cả hiếp dâm người dưới 16 tuổi)
cũng được quy định tại BLHS năm 1985 như sau:

14


1. Người nào dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác giao cấu với người
khác trái ý muốn của họ thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
2. Phạm tội hiếp dâm người chưa thành niên từ 13 tuổi trở lên hoặc
người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa

bệnh thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Hiếp dâm có tổ chức hoặc nhiều người hiếp một người;
b) Hiếp nhiều người hoặc gây tổn hại cho sức khỏa của nạn nhân;
c) Tái phạm nguy hiểm;
3. Phạm tội làm nạn nhân chết, tự sát hoặc trong trường hợp đặc
biệt nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi
năm, tù chung thân hoặc tử hình.
4. Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em dưới mười ba tuổi đều là
phạm tội hiếp dâm và người phạm tội bị phạt theo các khoản 2 và 3
Điều này [14, Điều 112].
Trong khoảng 15 năm tồn tại, BLHS năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung
4 lần vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997. Tội hiếp dâm cũng được sửa đổi,
bổ sung để phù hợp và hoàn thiện hơn. Cụ thể: Ngày 12/8/1991 tại lần sửa đổi,
bổ sung BLHS năm 1985 lần thứ 2, Quốc hội đã sửa đổi, tăng và cụ thể hơn về
khung hình phạt quy định tại khoản 4 Điều 112 nêu trên như sau:
Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em dưới mười ba tuổi đều là
phạm tội hiếp dâm và người phạm tội bị phạt tù từ 07 năm đến 15
năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại
khoản 2 và khoản 3 điều này bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm,
chung thân hoặc tử hình.
Để thể hiện thái độ xử lý nghiêm minh đối với nạn hiếp dâm trẻ em,
bảo đảm răn đe, ngăn chặn tệ nạn xã hội nghiêm trọng này, ngày 10/5/1997,
tại lần sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1985 lần thứ tư, Quốc hội thông qua và

15


sửa đổi, bổ sung Điều 112 nêu trên và tách đoạn 2 khoản 1 và khoản 4 thành
một tội riêng quy định tại Điều 112a “Tội hiếp dâm trẻ em” với mức hình
phạt rất nghiêm khắc mà mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt là tử

hình. Việc bổ sung tội này là cần thiết, cấp bách để trừng phạt các hành vi
xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục của trẻ em – đối tượng
cần được bảo vệ đặc biệt. Cụ thể Điều 112a (Tội hiếp dâm người trẻ em), quy
định như sau:
1. Người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì bị
phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ
15 năm đến 20 năm:
a) Có tính chất loạn ln;
b) Làm nạn nhân có thai;
c) Gây tổn hại nặng cho sức khỏe nạn nhân;
d) Đối với người mà người phạm tội tội có trách nhiệm chăm sóc,
giáo dục, chữa bệnh;
đ) Tái phạm nguy hiểm;
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù
chung thân hoặc tử hình:
a) Có tổ chức;
b) Nhiều người hiếp một người;
c) Phạm tội nhiều lần;
d) Gây tổn hại nặng cho sức khỏe nạn nhân;
đ) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát;
4. Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em dưới 13 tuổi đều là phạm
tội hiếp dâm và người phạm tội bị phạt tù 20 năm, chung thân
hoặc tử hình.

16


Hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là hành vi dùng vũ lực
hoặc thủ đoạn khác giao cấu trái với ý muốn của trẻ em. Riêng đối với trẻ em

dưới 13 tuổi thì điều luật quy định mọi trường hợp giao cấu với đối tượng này
(có dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác hay khơng, trái ý muốn hay với sự đồng ý
của trẻ em) đều là phạm tội này [45, tr. 126].
Ngoài ra, để hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của BLHS năm 1985 thì ngày 02/01/1998 TAND tối cao, VKSND tối
cao và Bộ nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/1998/TANDTC VKSNDTC-BNV, trong đó tại khoản 3 mục III phần B của Thơng tư liên tịch
này có hướng dẫn áp dụng BLHS năm 1985 như sau:
Khi áp dụng khoản 4 Điều 112a thì cần xử phạt người phạm tội
mức án càng nghiêm khắc nếu độ tuổi của người bị hại càng nhỏ;
cụ thể là:
a) Xử phạt tù hai mươi năm, nếu người bị hại là trẻ em từ đủ sáu
tuổi đến chưa đủ mười ba tuổi.
b) Xử phạt tù chung thân hoặc tử hình, nếu người bị hại là trẻ em
chưa đủ sáu tuổi;
c) Trong trường hợp có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều
39 Bộ luật hình sự hoặc có tình tiết định khung quy định tại khoản
2, khoản 3 Điều 112a (Luật sửa đổi, bổ sung…), thì mặc dù người
bị hại là trẻ em từ đủ sáu tuổi trở lên, cũng phải xử phạt tù chung
thân hoặc tử hình [14, Điều 112a, Khoản 4].
Việc tách Tội hiếp dâm trẻ em thành một tội độc lập với khung hình
phạt cao hơn so với Tội hiếp dâm thể hiện thái độ quyết liệt của Nhà nước
trong việc xử lý hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi, một mặt thể hiện sự
hoàn thiện pháp luật theo các chuẩn mực của khoa học luật hình sự, mặt khác
cũng thể hiện sự vận động phù hợp với tình hình phát triển của xã hội cũng

17


như diễn biến thực tế của tình hình tội phạm. Sự thay đổi có tính phát triển
này tuy chưa có tính đồng bộ nhưng là hướng phát triển đúng và tiếp tục được

duy trì trong giai đoạn tiếp theo nhằm đấu tranh, phòng chống tội hiếp dâm trẻ
em đang ngày một gia tăng.
1.2.3. Giai đoạn BLHS năm 1999 có hiệu lực pháp luật
BLHS năm 1985 sau khoảng 15 năm thi hành đã bộc lộ nhiều bất cập,
thiếu sót cần sửa đổi, bổ sung để phù hợp với yêu cầu của cơng tác đấu tranh,
phịng chống tội phạm trong giai đoạn mới. Do đó, BLHS năm 1999 được xây
dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung một cách tương đối toàn diện BLHS năm
1985 nhưng có kế thừa những nội dung hợp lí, tích cực của BLHS năm 1985
qua bốn lần sửa đổi, bổ sung và đã được Quốc hội khóa 10 thông qua tại kỳ
họp thứ 6 ngày 21/12/1999. Theo đó, BLHS năm 1999 được quy định về tội
hiếp dâm trẻ em như sau:
1. Người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị
phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
từ mười hai năm đến hai mươi năm:
a) Có tính chất loạn ln;
b) Làm nạn nhân có thai;
c) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ
31% đến 60%;
d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo
dục, chữa bệnh;
đ) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Có tổ chức;

18


b) Nhiều người hiếp một người;

c) Phạm tội nhiều lần;
d) Đối với nhiều người;
đ) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ
61% trở lên;
e) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
g) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
4. Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội
hiếp dâm trẻ em và người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến
hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
5. Người phạm tội cịn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm
năm [15, Điều 112].
Nhìn chung quy định về Tội hiếp dâm trẻ em của BLHS năm 1999 so
với BLHS năm 1985 có sửa đổi, bổ sung nhưng khơng đáng kể. Tính đến thời
điểm BLHS năm 1999 có hiệu lực pháp luật thì quy định về tội Hiếp dâm trẻ
em về cơ bản đã có sự ổn định, phù hợp với điều kiện và tình hình tội phạm
của nước ta.
1.3. Những quy định chung của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
Ngày 27 tháng 11 năm 2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã
thơng qua BLHS số 100/2015/QH13 và ngày 21/6/2017 tại kỳ họp thứ 3,
Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung
một số điều của BLHS số 100/2015/QH13 đánh dấu một bước tiến quan
trọng, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm
có hiệu quả; góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích Nhà nước và tổ chức, bảo vệ

19



×