Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

TIỂU LUẬN: Chuyên đề báo cáo thực tập khảo sát tổng hợp tại công ty vải sợi nghĩa hưng tp .việt trì - phú thọ pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.75 KB, 34 trang )







TIỂU LUẬN:

Chuyên đề báo cáothực tập khảo sát
tổng hợp tại công ty vải sợi nghĩa
hưng tp .việt trì - phú thọ





Phần I : Tổng quan về Công ty vải sợi Nghĩa Hưng.

I. Vài nét về quá trình hình thành và phát triển của công ty vải sợi Nghĩa
hưng.

1. Quá trình hình thành.
Công ty vải sợi Nghĩa Hưng là một công ty mang tính chất và đặc điểm của
công ty trách nhiệm hữu hạn - Giám đốc công ty là người làm thương nghiệp, buôn
bán các loại bông, vải, sợi của ngành dệt. Sau thấy phế liệu của các công ty dệt bỏ
đi lãng phí, ông đã có ý tưởng thành lập một cơ sở sản xuất để chế biến, tận dụng các
nguyên liệu đó
Ông đi thăm dò, xem xét, tìm hiểu thị trường nhiều nơi, được sợ giúp đỡ của
bạn bè và kinh nghiệm của bản thân. Ngày 03 / 12 / 1996 theo quyết định số: 2595
GP/ TLDN của UBND tỉnh Vĩnh Phú, Công ty vải sợi Nghĩa Hưng TNHH được
thành lập


Công ty có trụ sở chính tại xã Minh Phương, TP. Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Với
hoạt động chính là sản xuất sợi, dệt, ống giấy, vải và kinh doanh bông, vải, sợi


2. Quá trình phát triển.
Công ty vải sợi Nghĩa Hưng là một doanh nghiệp trẻ, với trang thiết bị hiện
đại. Sau sáu năm thành lập và phát triển, công ty đã trải qua biết bao thăng trầm, gian
nan nhưng bên cạnh đó cũng đạt được một số thành tựu đáng kể.
Trong những năm đầu thành lập vừa xây dựng nhà xưởng, vừa sản xuất thử.
Thiếu vốn, thiếu công nghệ, công ty gặp rất nhiều khó khăn. Nhờ sự quyết tâm và
đồng lòng của ông chủ và các cán bộ, công nhân trong toàn công ty, doanh nghiệp đã
đi vào ổn định. Công ty đã có sự tăng trưởng hiệu quả, sản phẩm có chỗ đứng trên thị


trường. Đồng thời nó có tính bền vững do động lực nội sinh, do nhân tố con người có
ý thức tự lực vươn lên.
Quá trình phát triển sản xuất kinh doanh của công ty vải sợi Nghĩa Hưng được
đánh giá qua một số chỉ tiêu sau (Dưới đây là kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
qua 3 năm).
Biểu 1: Chỉ tiêu đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh
.
ĐVT: triệu đồng
Stt

Ch
ỉ tiêu

Năm 2000

Năm 2001


Năm 2002

1

T
ổng doanh thu

54.275

66.586

144.040

2 Doanh thu bán sản phẩm 15.276

20.702

27.396

3 Sản lượng (tấn/năm) 1.180

1.800

2.160

4 Nộp ngân sách 4.126

7.270


15.420


3. cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty vải sợi Nghĩa Hưng
Cơ cấu tổ chức bộ máy bộ máy của công ty là tổng hợp các bộ phận lao động
quản lý khác nhau, có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau. Được chuyên môn hoá và có
nhiều quyền hạn, trách nhiệm nhất định, được bố trí thành nhiều cấp, nhiều khâu
khác nhau, nhằm đảm bảo chức năng quản lý và phục vụ mục đích chung của công
ty.




Sơ đồ 1: Bộ máy tổ chức quản lý sản xuất và kinh doanh



Tổng giám đốc








II
























p.tổng g.đốc
đ/h kinh doanh
p.tổng g.đốc
đ/h sản xuất




Phòng
Tổ

chức
hành
chính






Phòng
tổ
Chức
điều
hành
sản
xuất





Phòng
kinh
doanh



Phòng
quản
lý kho



Phòng
bảo
vệ


Phòng
kế
toán


Phòng
Công
Nghệ
Thiết
Kế





Phòng
kcs


Phân xưởng
sản xuất vải
Phòng kế toán
trưởng



Phân xưởng
sản xuất sợi


Phân xưởng
s.x găng tay


Phân xưởng
s.x ống giấy




Mỗi một phòng ban có chức năng nhiệm vụ riêng và có mối quan hệ hữu cơ
với nhau.
- Ban giám đốc: gồm 1 Tổng giám đốc và 2 Phó tổng giám đốc.
Tổng giám đốc - ông Dương Mạnh Tiềm: Là người đại diện trước pháp luật
về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, chịu trách nhiệm và trực tiếp chỉ
huy bộ máy quản lý và điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Phó TGĐ kinh doanh: Là người chịu trách nhiệm trước TGĐ về công tác kinh
doanh thương mại, tạo điều kiện tốt để sản phẩm có uy tín trên thị trường.
Phó TGĐ sản xuất: Là người phụ trách về kỹ thuật, chỉ đạo sản xuất.
- Kế toán trưởng: Chịu trách nhiệm về số liệu kế toán và trực tiếp điều hành
hoạt động của phòng kế toán.
- Phòng tổ chức, hành chính: Quản lý đội ngũ cán bộ công nhân viên toàn
công ty. Quản lý và sử dụng có hiệu quả tiền lương, tiền thưởng trên cơ sở các quy
định của nhà nước. Chăm lo sức khoẻ và đời sống cho cán bộ công nhân viên.

- Phòng kinh doanh: Tổ chức công việc giao dịch, tiêu thụ sản phẩm, thực
hiện Marketing, lập báo cáo tiêu thụ sản phẩm.
- Phòng quản lý kho: Quản lý việc luân chuyển, bảo quản nguyên liệu, vật
tư, thành phẩm trong kho, báo cáo tình hình dự trữ hàng hoá, vật tư trong kho đến
các phòng chức năng.
- Phòng bảo vệ: Thực hiện chức năng bảo vệ nội bộ về trật tự an ninh trong
và ngoài khu vực sản xuất. Phụ trách việc phòng cháy chữa cháy và dân quân tự vệ.
- Phòng kế toán: Tổ chức hạch toán kế toán theo chế độ Nhà nước quy định
và tổng hợp số liệu, cung cấp thông tin cho nhu cầu quản lý Hàng năm xây dựng
kế hoạch tài chính, tính toán, phân tích hiệu quả về kế toán quản trị.
- Phòng công nghệ, thiết kế: Chuẩn bị kỹ thuật và thiết kế sản phẩm mới,
giúp sản xuất sản phẩm theo kế hoạch.


- Phòng KCS là phòng kiểm tra chất lượng sản phẩm: Xây dựng các tiêu
chuẩn về kỹ thuật cho sản phẩm, kiểm tra chất lượng nguyên liệu, vật tư đầu vào và
giám sát kiểm tra việc thực hiện công nghệ trên các dây chuyền sản xuất cho đến
khâu cuối cùng của sản phẩm nhập kho.
- Phòng tổ chức điều hành sản xuất: Xây dựng và điều hành kế hoạch sản
xuất, quản lý an toàn sản xuất và thiết bị máy móc cho toàn công ty.
- Các phân xưởng: Do quản đốc và các trưởng ca trực tiếp chỉ đạo công nhân
sản xuất các loại sản phẩm.

II. Chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm cơ cấu tổ chức
sản xuất kinh doanh
1. Chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm sản xuất.
- Hình thức doanh nghiệp: Công ty Trách nhiệm hữu hạn.
- Hình thức hoạt động: Sản xuất công nghiệp, sản xuất vải, sợi, ống giấy và
găng tay.
- Lĩnh vực kinh doanh: Kinh doanh bông, vải, sợi, hàng may mặc

- Công ty có chức năng pháp nhân đầy đủ, hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về
tài chính, có tài khoản tại ngân hàng, có con dấu riêng theo quy định của Nhà nước.
- Chức năng, nhiệm vụ chính của công ty là sản xuất, kinh doanh vải, sợi,
chủ động trong việc ký kết hợp đồng, mở rộng các loại dịch vụ cho việc tiêu thụ sản
phẩm với các đối tác kinh tế trong và ngoài nước. Sản phẩm của công ty có mặt chủ
yếu trên thị trường trong nước và có cả xuất khẩu ra thị trường nước ngoài nhưng với
số lượng chưa nhiều như xuất khẩu vải, hàng may mặc sang Lào, Cămpuchia…

2. Đặc điểm công nghệ sản xuất


Hiện nay công ty tập trung vào sản xuất 4 mặt hàng chủ yếu: vải, sợi, găng
tay, và ống giấy. Quá trình sản xuất khá phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn, công ty tổ
chức ba phân xưởng gồm: - Phân xưởng dệt vải.
- Phân xưởng sản xuất sợi.
- Phân xưởng sản xuất găng tay.
- Phân xưởng sản xuất ống giấy.
Nguyên vật liệu đưa vào liên tục từ giai đoạn đầu đến giai đoạn cuối cùng
theo một trình tự nhất định. Quá trình diễn ra liên tục, khép kín, có sản phẩm dở
dang, và sản phẩm cuối cùng mới có thể nhập kho, xuất bán.
Mỗi một sản phẩm là một loại mô hình công nghệ khác nhau. Cho nên việc tổ
chức sản xuất hợp lý, khoa học phù hợp với công nghệ sản xuất ở mỗi phân xưởng là
rất quan trọng.
Quy trình công nghệ sản xuất sợi được thể hiện tóm tắt qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 2: Quy trình sản xuất sợi.

Máy bông Máy chải

Máy


ghép

Máy kéo sợi


3. Đặc điểm của thông tin
Nguồn thông tin mà công ty thu được đều đạt tiêu chuẩn về mặt chất lượng là
độ tin cậy, tính đầy đủ, tính thích hợp và dễ hiểu, tính được bảo vệ và tính kịp thời.
Bông,
Xơ PE
Bông,
Xơ PE
Cúi
chải
Cúi
ghép
Sợi
thành
ph
ẩm



Độ tin cậy thể hiện các mặt về độ xác thực và độ chính xác của các thông tin
mà công ty thu thập được từ môi trường kinh doanh hay trong nội bộ công ty.
Tính đầy đủ, thích hợp và đễ hiểu của thông tin thể hiện sự bao quát các vấn
đề đáp ứng yêu cầu của nhà quản lý và phải dùng những từ ngữ thông thường, sáng
sủa, có nghĩa đảm bảo cho người sử dụng thông tin hiểu được thông tin cần nói gì để
ra quyết định kinh doanh sao cho hợp lý.
Hệ thống thông tin còn phải đáp ứng tính kịp thời, đúng lúc, đúng thời điểm.

Đặc điểm này của thông tin đối với công ty là rất quan trọng bởi vì may mặc cần phải
sản xuất theo mùa. Và mọi thông tin của Công ty vải sợi Nghĩa Hưng đều được bảo
đảm an toàn vì đây nó cũng như một nguồn tài sản quý giá chỉ những người có quyền
mới được phép tiếp cận với thông tin.
4. Đặc điểm về sản phẩm
Sản phẩm mà Công ty vải sợi Nghĩa Hưng sản xuất ra gồm có: sợi, găng tay,
ống giấy, vải. Với mỗi loại sản phẩm trên thì lại mang những đặc điểm riêng:
Sản phẩm vải gồm hai loại là hàng dệt thoi và hàng dệt kim. Hàng dệt thoi bao
gồm các loại vải 100% cotton, Polyester/Cotton với đặc điểm: mỏng, mát, nhanh khô
nhưng lại hay nhàu lát, dễ bén lửa…Hàng dệt kim như: nỉ, dạ và đặc điểm của loại
này dày, ấm, dùng để sản xuất quần áo thu đông nhưng lại rất lâu khô và quá trình
sản xuất phải trải qua giai đoạn tạo sợi. Đây là sản phẩm chính chiếm 40% doanh
thu.
Sản phẩm ống giấy với đặc điểm sản xuất nhanh theo khuân mẫu và nguyên
vật liệu có sẵn ở trong nước. Đây là sản phẩm đạt 20% doanh thu.
Sản phẩm găng tay với đặc điểm bền, đẹp, ấm, đây là mặt hàng có sản lượng
chiếm tỷ trọng không cao nhưng đem lại lợi nhuận cao bởi vì hầu hết nguyên vật liệu
đầu vào chủ yếu là những phế liệu thông qua việc sản xuất sợi và vải. Sản phẩm này
chiếm tỷ trọng là 16% doanh thu.
Sản phẩm sợi phải sản xuất thông qua nhiều công đoạn và sợi sản xuất ra phải
săn, mịn, bền, có tính dẻo dai cao. Sản phẩm này chiếm 24% doanh thu.
5 .Đặc điểm về lao động


Hiện nay Công ty vải sợi Nghĩa Hưng có khoảng trên 700 lao động, trong đó
số công nhân sản xuất có tới 600 người, còn lại là các nhân viên kỹ thuật, quản lý và
kinh doanh làm việc ở Công ty chính và các Chi nhánh, đại lý, văn phòng đại diện.
Đặc điểm của các công nhân sản xuất với trình độ tay nghề cao làm có tổ chức và kỷ
luật cao. Nguồn nhân lực này chủ yếu Công ty tuyển dụng ở tại địa phương đặt các
xưởng sản xuất…Còn những nguồn lao động khác như nhân viên kỹ thuật, nhân viên

quản lý và kinh doanh thì được Công ty tuyển dụng thông qua quá trình sát hạch
tương đối chặt chẽ và tiêu chuẩn đề ra là tất cả các nhân viên này đều có trình độ từ
cao đẳng trở lên, có năng lực làm việc tốt.
6 . Đặc điểm về nguyên vật liệu
- Đối với sản phẩm vải: Nguyên liệu chính là sợi do công ty sản xuất, ngoài ra
cũng phải nhập nguyên liệu từ nước ngoài do tính đặc trưng của sản phẩm mà khách
hàng yêu cầu. Nguyên liệu đối với sản phẩm này thì còn tuỳ thuộc là dùng vào sản
xuất mặt hàng vải có từng thành phần cụ thể.(100%cotton, P/C : 65/35,
100%Polyester…)
Đặc điểm: Sợi được chia thành nhiều loại, có các chỉ số khác nhau: ví dụ sợi
PE-20/80, PC-20/1…Sợi có chỉ số càng cao thì càng nhỏ, săn và được chải kỹ, đối
với loại sợi này dùng để sản xuất vải nhưng mặt hàng vải mà yêu cầu phải đạt chất
lượng cao, và ngược lại.
- Đối với sản phẩm sợi: Nguyên liệu chính là bông, xơ (PE) loại nguyên liệu
chủ yếu phải nhập khẩu.
Đặc điểm: Bông là một loại sản phẩm được làm bằng quá trình kéo tơ từ tằm,
qua qúa trình sơ chế nó được đưa vào sản xuất ra sợi. Loại sợi này dùng để sản xuất
các loại vải có thành phần 100%cotton và P/C. Còn xơ(PE) bào chế từ dầu
mỏ…nguyên liêu này dùng để sản xuất vải có thành phần 100%Polyester, P/C…
- Đối với sản phẩm ống giấy: Nguyên vật liệu chính để sản xuất sản phẩm là
gỗ, tre, lứa. Đây là nguồn nguyên liệu có ngay trong thị trường nội địa gần cơ sở sản
xuất thuận tiện cho quá trình vận chuyển…


Đặc điểm: Nguyên liệu này qua quá trình nghiền, xay nó được hình thành
dưới dạng bột để thuân lợi khi đưa vào sản xuất. Đây là loại nguyên liệu có quá trình
sơ chế đơn giản, do đó chi phí thấp.
- Đối với sản phẩm găng tay: Nguyên liệu chính của sản phẩm này cũng được
làm từ sợi, nhưng quá trình sản xuất sản phẩm này thì không quá phức tạp như sản
xuất vải bởi vì phần lớn nguyên liệu được tận dụng từ quá trình sản xuất vải. Đây là

sản phẩm đem lại lợi nhuận khá cao mặc dù nó không được coi là sản phẩm chính
của công ty.
7. Tình hình vốn và nguồn vốn của công ty vải sợi Nghĩa Hưng
Công ty vải sợi Nghĩa Hưng là công ty TNHH do vậy việc hoạt động sản xuất
kinh doanh của đơn vị dựa trên vốn tự có của doanh nghiệp và vốn góp của các sáng
lập viên. Do đó nguồn vốn rất hạn chế nên phải đi vay và huy động từ các nguồn
khác rất nhiều nên ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Qua
khảo sát thực tế tình hình tài chính của công ty ta có số liệu sau.
Bảng 2: Tình hình sử dụng vốn tại công ty.
ĐVT: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2001 Năm 2002 So sánh 2002/2001
Số tiền
TTr
ọn
g
Số tiền

TTrọng Số tiền

Tỷ lệ
TTr
ọn
g
I. TSLĐ và ĐTNH

41.043

64,86


60.727

73,04

19.684

47,96

8,18

1. Vốn bằng tiền 892 1,41 2.632 3,17 1.740 195,1 1,76
2. Đầu tư ngắn hạn 0 0 0 0 0
3.Phải thu 21.494 33,97 21.232 25,53 -262 -1,22 -8,43
4. Tồn kho 17.396 27,49 35.868 43,14 18.472 106,2 15,65
5. TSLĐ khác

1.261

1,99

995

1,2

-
266

-
21,1


-
0,79

II. TSCĐ và ĐTDH 22.237 35,14 22.418 26,96 181 0,81 -8,18
1.TSCĐ h
ữu hình

15.134

23,91

16.476

19,82

1.342

8,87

-
4,1

2.TSCĐ vô hình 0 0 0 0 0


3.TSCD thuê
T/chính
0 0 0 0 0
4.Các khoản ĐTDH 5.896 9,32 5.896 7,09 0 0 -2,23
5.TSCD khác 1.207 1,91 46 0,05 -1.161 -96,3 -1,85

Tổng cộng 63.280 100 83.145 100 19.865 31,39 0

Với số liệu bảng trên ta thấy tổng vốn sản xuất kinh doanh tăng 31,39% tương
ứng số tiền tăng 19.865 tr.đ. Tỷ lệ tăng của vốn cố định và đầu tư dài hạn tăng ít hơn
tỷ lệ tăng của vốn lưu động và đầu tư ngắn hạn. Nhưng xét về cơ cấu vốn của đơn vị
thì chưa thật hợp lý, vì trong doanh nghiệp sản xuất vốn cố định và đầu tư dài hạn
phải chiếm tỷ trọng cao, nhưng ở đây vốn lưu động lại chiếm tỷ trọng cao hơn vốn cố
định. Không những thế tỷ trọng vốn cố định năm 2002 so với năm 2001 còn giảm
8,18%.
Doanh nghiệp đã để tồn kho quá lớn, cần chú ý giảm tồn kho. Khách hàng
chiếm dụng vốn quá nhiều đơn vị nên sử dụng nhiều biện pháp để thu hồi bớt công
nợ.



Bảng 3: Tình hình sử dụng nguồn vốn tại đơn vị.
ĐVT: triệu đồng

Chỉ tiêu
N
ăm 2001

Năm 2002

So sánh 2002/2001

Số tiền TT Số tiền TT Số
tiền
TL TT
A. Nợ phả trả 54.358


85,9 73.118

87,94 18,760

34,51 2,04

I. Nợ ngắn hạn 54.358

85,9 73.118

87,94 18,760

34,51 2,04

1.Vay ngắn hạn 25.690

47,26 48.577

66,44 22.887

89,09 19,18
2. Chiếm dụng 26.699

42,19

23.256

27,97


-3.443

-12,9

-14,2

II. N
ợ dài hạn

0

0

0

0

0

0

0

III. Nợ khác 1.969

3,11

1.285

1,55


-684

-0,35

-1,56

B. Ngu
ồn vốn CSH

8.921

14,1

10.026

12,06

1.105

12,39

-
2,04

I. Nguồn vốn 10.521

16,63

10.521


12,65

0

0

-3,98

II. L
ợi

nhu
ận

-
1.647

-
2,6

-
544

-
0,65

1.104

3.461



III Nguồn vốn khác 134

0,2

134

0,16

0

0


IV. Các quỹ -87

-0,1

-87

-0,1

0

0


Tổng cộng 63.280


100 83.145

100 19.865

31,39 0


Với số liệu bảng trên ta thấy tình hình thiếu vốn phải huy động vốn của công
ty là rất lớn. Nợ phải trả tăng lên rất nhiều, cụ thể là tăng 34,51% tương ứng số tiền
18.760 tr.đ, mà chủ yếu là tiền vay ngắn hạn tăng 89,09% tương ứng số tiền tăng
22.887 tr.đ. Trong khi đó nguồn vốn chủ sở hữu có tăng nhưng rất ít, cụ thể tăng
12,39% tương ứng số tiền tăng 1.105 tr.đ. Nhưng tỷ trọng lại giảm 2,04%.










phần II : thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh tại công ty vải sợi nghĩa
hưng

I - Xây dựng, thực hiện chiến lược kinh doanh tại công ty
Vải Sợi NgHĩa hưng.

Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp là tập hợp những chủ trương,
phương châm về kinh doanh có tính lâu dài và quyết định tới sự thành đạt ở mọi

doanh nghiệp. Chính vì vậy chiến lược kinh doanh thực chất là một chương trình
hành động tổng quát hướng tới việc thực hiện những mục tiêu cụ thể của doanh
nghiệp.Trên cơ sở nhận định tầm quan trọng của chiến lược kinh doanh như vậy thì
Công ty vải sợi Nghĩa Hưng hoạch định cho mình một chiến lược kinh doanh tương
đối hợp lý dựa vào các căn cứ chủ yếu đó là tam giác chiến lược gồm: khách hàng,
khả năng của công ty và đối thủ cạnh tranh. Nội dung chiến lược kinh doanh của
công ty thể hiện ở hai mặt:
- Thể hiện bằng những mục tiêu cụ thể.
- Chỉ ra hướng đi cho quá trình hoạt động của công ty đạt hiệu quả.
* Chiến lược tổng quát của công ty có nhiệm vụ xác định hướng đi cùng với
những mục tiêu chủ yếu cần đạt tới. Nội dung chiến lược tổng quát của công ty tập
trung vào ba mục tiêu chủ yếu là khả năng sinh lợi, thế lực trên thị trường và an toàn
trong kinh doanh.
* Các mục tiêu chủ yếu trong chiến lược kinh doanh quy định nội dung của
các chiến lược bộ phận, vì chiến lược bộ phận chỉ là sự cụ thể hoá thêm một bước
của chiến lược tổng quát. Trên cơ sở nội dung chiến lược tổng quát thì công ty đã
xây dựng cho mình các chiến lược bộ phận, gồm: Chiến lược sản phẩm, chiến lược


giá cả, chiến lược phân phối, chiến lược quảng cáo tiếp thị, chiến lược thị trường,
chiến lược kinh doanh, chiến lược cạnh tranh…
* Những nguyên tắc thẩm định và đánh giá chiến lược kinh doanh mà công ty
đã sử dụng là dựa vào ba nguyên tắc chủ yếu sau: chiến lược kinh doanh đảm bảo
mục tiêu bao trùm của công ty, chiến lược kinh doanh có tính khả thi và đảm bảo
mối quan hệ biện chứng giữa công ty với thị trường về mặt lợi ích.
* Những tiêu chuẩn thẩm định và đánh giá chiến lược kinh doanh mà công ty
đang áp dụng gồm hai nhóm:
- Nhóm tiêu chuẩn định tính dựa trên các chỉ tiêu số lượng như số lượng bán,
thị phần, tổng doanh thu và tổng lợi nhuận…Vì đây là những tiêu chuẩn dễ xác định,
phản ánh khả năng bán hàng, khả năng sinh lợi, khả năng cung cấp nguồn lực.

- Nhóm tiêu chuẩn định tính làm căn cứ để lựa chọn , là thế lực trên thị
trường, độ an toàn trong kinh doanh và sự thích ứng của chiến lược với thị trường.
* Phương pháp lựa chọn và quyết định chiến lược kinh doanh của công ty là
phương pháp cho điểm theo tiêu chuẩn. Nội dung của phương pháp gồm các bước
sau:
- Bước một, chọn ra một số các tiêu chuẩn đặc trưng cho mục tiêu chủ yếu của
công ty.
- Bước hai, cho điểm cho mỗi tiêu chuẩn theo năm mức điểm và theo nguyên
tắc mức điểm càng thấp phản ánh mức đáp ứng càng thấp và ngược lại.
- Bước ba, tiến hành đánh giá và cho điểm từng tiêu chuẩn, từng chiến lược
kinh doanh dự kiến.
- Bước bốn, tiến hành so sánh và lựa chọn. Về nguyên tắc, chiến lược được
chọn là chiến lược có tổng số điểm cao nhất.
Mặc dù trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của thị trường nhưng Công ty vải
sợi Nghĩa Hưng vẫn đứng vững và ngày càng tăng thêm uy tín cho sản phẩm của
công ty, tăng khả năng cạnh tranh đối với các hãng cùng ngành trên thị trường trong
nước và nước ngoài. Bên cạnh đó thì công ty cũng gặp không ít những khó khăn như
vấn đề vốn, công ty đã phải huy động các nguồn vốn từ ngân hàng, kêu gọi nguồn


đầu tư từ các đối tác làm ăn. Thị trường vải sợi và hàng may mặc hiện nay là thị
trường sôi động cạnh tranh quyết liệt cả về giá cả lẫn chất lượng vì vậy công ty tìm
cho mình nguồn cung hợp lý để đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục và mở
rộng quy mô sản xuất. Và hiện nay công ty đã và đang tập trung vào việc nâng cao
chất lượng và giảm chi phí sản xuất kinh doanh để có cơ hội xâm nhập trường quốc
tế và khu vực.
II. Quản trị nguồn nhân lực
Nhân lực là một trong những yếu tố cơ bản và là nhân tố đóng vai trò sáng tạo
trong quá trình sản xuất, kinh doanh của công ty. Lao động luôn được coi là nhân tố
có ý nghĩa quyết định đối với mọi hoạt động của doanh nghiệp, đối vơi việc sáng tạo

ra và sử dụng các yếu tố khác của quá trình sản xuất. Vì vậy nguồn nhân lực là nhân
tố có vai trò quyết định đối với việc nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, tăng khả
năng cạnh tranh và thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp.
Với đội ngũ công nhân viên đông đảo (hơn bảy trăm người) thì công ty đã tạo
cho mình một bộ máy quản lý tương đối tốt. Hoạt động quản trị nhân sự của công ty
với hai mục tiêu cơ bản là:
Thứ nhất, sử dụng hiệu quả năng lực làm việc của mọi thành viên trong công
ty, làm tăng năng suất lao động.
Thứ hai, bồi dưỡng kịp thời và thường xuyên năng lực làm việc của mọi thành
viên trên tất cả các mặt; trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đời sống vật chất tinh
thần…
Hiện nay Công ty đang có kế hoạnh mở rộng quy mô sản xuất và mở rộng Chi
nhánh tiêu thụ sản phẩm nên cần phải tuyển dụng thêm lao động. Công tác tuyển
dụng của công ty cũng dựa trên nguyên tắc nhất định theo yêu cầu của công việc đã
thiết kế. Như hiện nay công ty đang tuyển thêm nhân viên làm công tác kinh doanh
cho Chi nhánh ở Hà Nội, yêu cầu: phải tốt nghiệp đại học thuộc các ngành khối kinh
tế, có trình độ ngoại ngữ (Tiếng Anh) giao tiếp thành thạo, có chứng chỉ tin học văn
phòng. Do trình độ công nghệ ngày càng hiện đại nên công ty đã quyết định tổ chức
cho một số nhân viên kỹ thuật học hỏi bồi dưỡng ngay tại cơ sở dưới sự giảng dạy


của các chuyên gia được công ty mời về. Hiện nay trên thị trường ngành vải sợi và
dệt may đang cạnh tranh gay gắt, vì vậy công ty đã quyết định mở các lớp đào tạo
ngắn hạn cho đội ngũ lao động để tạo ra một đội ngũ lao động có tay nghề cao phục
vụ cho quá trình sản xuất.
Công tác phân công lao động: Công ty đã sử dụng phương pháp phân công lao
động theo tính chất hoạt động để tạo ra sự cân đối giữa lao động quản trị và lao động
sản xuất.
- Đối với lao động sản xuất được phân thành từng phân xưởng như: phân
xưởng dệt, phân xưởng sản xuất ống giấy, phân xưởng sản xuất găng tay, phân

xưởng sản xuất sợi.Trong mỗi phân xưởng lại phân thành từng nhóm, mỗi nhóm đảm
nhận một nhiệm vụ riêng. Đặc điểm của lao động sản xuất là người trực tiếp tạo ra
sản phẩm.
- Đối với nhân viên quản lý và kinh doanh, do công ty có nhiều chi nhánh nên
không có phòng marketing riêng mà phòng quản lý và kinh doanh sẽ kiêm luôn cả
vấn đề marketing. Đặc điểm của những lao động này là vừa làm công tác quản lý vừa
làm công tác tiêu thụ và vừa làm công tác tìm, cung cấp nguyên vật liệu đầu vào…
Thù lao lao động và công tác đánh giá đề bạt.
- Đối với lao động sản xuất thì công ty đã áp dụng hình thức trả lương theo
sản phẩm cá nhân trực tiếp. Theo phương pháp này: số tiền người công nhân được
lĩnh bằng đơn giá trên một đơn vị sản phẩm x số lượng sản phẩm thực tế mà công
nhân đó làm ra. Nếu công nhân nào hoàn thành vượt mức số sản phẩm quy định của
bộ phận quản lý sản xuất đề ra thì tuỳ theo từng mức mà được thưởng tương ứng và
những công nhân có những thành tích cao sẽ được các nhà quản trị chú ý, cân nhắc
và đề bạt. Công ty có biện pháp thưởng phạt công minh.
- Đối với nhân viên quản lý, kinh doanh và nhân viên kỹ thuật thì công ty đã
áp dụng hình thức trả lương theo thời gian và lương cấp bậc. Tiền thưởng cho những
người này tuỳ thuộc vào mức độ hoàn thành công việc của mỗi người và khả năng
làm việc của nhân viên. Ví dụ như với nhân viên ở bộ phận tiêu thụ nếu như họ ký
được nhiều hợp đồng bán hàng họ sẽ được hưởng hoa hồng, với phương pháp này


công ty sẽ thúc đẩy được quá trình tiêu thụ sản phẩm của mình một cách nhanh
chóng có hiệu quả cao.
Bên cạnh công tác quản trị lao động thì quản trị hành chính cũng là một khâu
quan trọng trong công tác quản trị doanh nghiệp vì vậy mà Công ty vải sợi Nghĩa
Hưng đã tạo cho mình một bộ máy hành chính hoạt động tương đối tốt. Với cơ cấu
bộ máy hành chính đã được nêu ở phần trước đã giúp Công ty quản lý tốt trong quá
trình sản xuất và kinh doanh đạt hiệu quả cao. Bởi vì Công ty vải sợi Nghĩa Hưng chỉ
là một Công ty trách nhiệm hữu hạn nên chưa có các tổ chức Đoàn, Đảng thiết thực

để giúp đỡ người lao động. Nhưng hàng năm công ty cũng đã tổ chức cho người lao
động đi du lịch, thăm qua, rồi tổ chức các cuộc hội thảo để giúp họ giúp họ thoải mái
tâm lý, yên tâm làm việc đạt hiệu quả cao trong công việc.
III. Hoạt động Marketing
Do công ty không có phòng kinh doanh riêng nên các nhân viên của phòng
kinh doanh phải kiêm luôn cả công tác marketing, công tác marketing nội bộ mà hiện
nay công ty đang thực hiện ở trụ sở chính và ở các chi nhánh chưa đạt hiệu quả cao
nhưng lại tiết kiệm một khoản chi phí tương đối lớn cho việc mở thêm phòng kinh
doanh.
1.Thu thập và sử lý thông tin thị trường
Nguồn thông tin được thu thập từ thị trường (khách hàng, hoạt động của đối
thủ cạnh tranh, bán hàng), nguồn thông tin về nhãn hiệu và sản phẩm (đánh giá từng
yếu tố và tổng thể nhãn hiệu bao bì), nguồn thông tin thương mại (thực hiện và phân
phối bán hàng; thái độ của người cung cấp; ảnh hưởng của khuyến mại, tiếp thị…).
Những thông tin này được các nhân viên quản lý kinh doanh phản hồi thông qua việc
chào hàng trực tiếp trên thị trường và nhà quản lý thu thập trên mạng internet Sau
khi có những thông tin trên thì công ty đã đưa ra các phương pháp nghiên cứu các
dạng thông tin như nghiên cứu nguồn thông tin có sẵn, nghiên cứu định lượng (thông
thường hỏi các câu hỏi thường gặp là: cái gì? ở đâu? bao nhiêu?…), nghiên cứu định
tính thường hỏi các câu hỏi“ tại sao?” nhiều hơn câu hỏi “cái gì?”. Với những
phương pháp nghiên cứu này được công ty nghiên cứu, phân tích một cách tổng hợp


không tách riêng từng loại. Sau đó là việc nghiên cứu từng dự án cụ thể, chú trọng
vào nhu cầu và yêu cầu của từng đồ án- Ví dụ như đánh giá sản phẩm mới, đánh giá
của người tiêu dùng về sản phẩm của đối thủ cạnh tranh… Theo như Bà Giám đốc
Chi nhánh vải sợi Nghĩa Hưng tại Hà Nội thì nghiên cứu thị trường cá thể giúp đưa
ra phương pháp để lấy thông tin tốt nhất cho việc quyết định như xu hướng thị
trường, thái độ và mong đợi của người tiêu dùng, xác địng đối thủ cạnh tranh và là
một bước tiếp cận có hệ thống để thu thập thông tin. Là nhà quản lý, bạn phải không

ngừng ra quyết định về nhãn hiệu, sản phẩm, giá, phân phối và thông tin mà không
làm cho việc kinh doanh gặp phải rủi ro.
2. Các chính sách.
* Đối với sản phẩm công ty phân tích chu kỳ sống của sản phẩm thông qua
bốn giai đoạn: giới thiệu, phát triển, bão hoà và suy thoái. Ví dụ công ty đưa ra chu
kỳ sống của sản phẩm về mốt:
- Giai đoạn phân lập, một số người sử dụng một số thứ mới lạ làm cho mình
moden nhất trước mọi người.
- Giai đoạn ganh đua, những người khác tham gia cuộc ganh đua.
- Giai đoạn phổ biến, rất nhiều người sử dụng mốt.
- Giai đoạn thoái trào, người tiêu dùng chuyển sự quan tâm sang mốt khác.
Nếu sản phẩm cũ đã ở trong giai thoái trào hoặc tìm được thị trường mới thì
công ty lại đưa ra ngay sản phẩm mới kịp thời để giữ khách hàng cũ và thu hút
những khách hàng mới. Các sản phẩm mới mà công ty tung ra thị trường trong và
ngoài nước đã và đang được thị trường chấp nhận đó là một thành công lớn trong
chiến lược kinh doanh của Công ty vải sợi Nghĩa Hưng.
- Công ty tham gia lần đầu trên thị trường nước ngoài sản phẩm đã và đang
được thị trường chấp nhận, như công ty đã xuất khẩu vải sang Campuchia, Thái Lan,
Lào…
- Tạo sản phẩm mới có chất lượng cao với mẫu mã đẹp, hợp thị hiếu và tiêu
chuẩn của người tiêu dùng để thay thế sản phẩm hiện tại.


- Sản phẩm mới có chất lượng tương tự sản phẩm hiện tại nhưng giá thành
thấp hơn do chi phí thấp hoặc đó là một chiến lược kinh doanh để chiếm lĩnh thị
phần trên thị trường của công ty.
* Thương hiệu, bao bì và đóng gói sản phẩm:
Thương hiệu sản phẩm là vấn đề không thể thiếu được của một doanh nghiệp
vì vậy mà Công ty vải sợi Nghĩa Hưng cũng đã tạo cho mình một thương hiệu để
thuận tiện cho người bán xử lý đơn hàng và truy tìm vấn đề, cùng với bản quyền bảo

vệ các thuộc tính duy nhất của sản phẩm mà các đối thủ cạnh tranh có thể bắt chước,
giữ được khách hàng lớn, thuận tiện cho phân đoạn thị trường, tạo dựng ấn tượng và
hình ảnh đẹp của công ty trong tâm trí khách hàng.
* Định giá:
Giá bán là nhân tố quan trọng trong các nhân tố của chiến lược Marketing trực
tiếp tạo ra lợi nhuận. Căn cứ vào đó Công ty đã vạch ra chiến lược định giá phù hợp
cho sản phẩm của mình.
- Lựa chọn mục tiêu: Tồn tại, tối đa hoá doanh thu, lợi nhuận cao.
- Xác định nhu cầu và khả năng thanh toán của khách hàng để từ đó mà công
ty đề ra chiến lược sản xuất và phân phối sản phẩm của mình trên các đoạn thị trường
mục tiêu.
- Đưa ra mức giá bán tối thiểu có thể bán để đến khi cần thiết công ty sẽ bán
để giải quyết vấn đề ứ đọng vốn hoặc giải quyết vấn đề tồn kho chẳng hạn.
- Lựa chọn phương pháp định giá là cộng vào giá thành khoản lợi nhuận trên
từng đơn vị sản phẩm.
- Điều chỉnh giá bán phù hợp theo từng đoạn thị trường và từng thời điểm.
- Chủ động và điều chỉnh giá bán theo sự biến động giá cả thị trường để đảm
bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của công ty được hoạt động liên tục.
* Xây dựng hệ thống kênh phân phối, nguyên tắc lựa chọn địa điểm và đại lý
bán hàng phải đảm bảo tính sẵn sàng của sản phẩm, thuận tiện cho khách hàng, năng
suất và hiệu quả của đại lý. Hiện nay trụ sở chính của công ty đặt tại Thành phố Việt
Trì, tỉnh Phú Thọ và có hai Chi nhánh đặt ở TP Hà Nội và tỉnh Thái Bình, hai đại lý


đặt tại TP Hà Nội và một văn phòng đại diện ở thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy là
công ty lựa chọn kênh phân phối còn hạn chế để, chưa mở rộng và thêm được cơ sở
sản xuất, kinh doanh giảm bởi vì nguồn vốn còn hạn chế chưa tận dụng được các cơ
hội đầu tư từ bên ngoài. Sở dĩ như vậy muốn giảm chi phí đầu tư vào các đại để tập
trung đầu tư vào một số cơ sở, đại lý chủ chốt nhằm nâng cao khả năng chuyên môn
hoá lẫn hiệu quả của các đại lý.

* Chiến dịch quảng cáo và khuyếch trương sản phẩm:
Công ty đã đưa thông tin đến với khách hàng bằng phương pháp sau:
- Quảng cáo trực tiếp và gián tiếp như gọi điện thoại, thư gởi, hội chợ triển
lãm hoặc bằng các phương pháp truyền bá khác…

- Phương pháp tiếp cận trực tiếp là các nhân viên quản lý kinh doanh và
marketing của công ty tiếp xúc trực diện với khách hàng lớn và những khách hàng
tiềm năng để giới thiệu về sản phẩm, hàng hoá của mình một cách chi tiết tạo sức
thuyết phục cao đối với những khách hàng này
- Quan hệ công chúng như diễn thuyết, hội thảo, báo cáo hàng năm…trong
các hội nghị, các buổi triển lãm
- Khuyến mại, khuyến khích khách hàng trong một thời gian ngắn để tạo niềm
tin và ấn tượng về sản phẩm của công ty trong tâm trí khách hàng.
IV. Quản trị vật tư
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đều cần đến các tư liệu vật
chất khác nhau như vật liệu nhiên liệu, thiết bị máy móc Vật tư kỹ thuật là sản
phẩm của lao động dùng để sản xuất. Đó là nguyên, nhiên, vật liệu, điện lực, bán
thành phẩm, thiết bị máy móc,dụng cụ phụ tùng Toàn bộ vật tư kỹ thuật được chia
làm hai nhóm:
- Nhóm vật tư dùng làm đối tượng lao động bao gồm nguyên liệu, vật liệu,
nhiên liệu, điện lực, bán thành phẩm, chi tiết bộ phận máy Đặc điểm của nhóm này
là nó sẽ tiêu dùng hoàn toàn trong một lần sản xuất.
- Nhóm vật tư dùng làm tư liệu lao động gồm có thiết bị động lực, thiết bị
chuyền dẫn năng lượng, thiết bị sản xuất, thiết bị vận chuyển và chứa đựng đối tượng


lao động, hệ thống thiết bị máy móc điều khiển, công cụ khí cụ và dụng cụ dùng vào
sản xuất, các loại đồ dùng trong nhà xưởng, các loại phụ tùng máy móc thiết bị.
Phân tích tình hình quản trị vật tư ở công ty là khâu quan trọng trong công tác
hậu cần vật tư. Qua phân tích có thể đánh giá được mức độ hợp lý của việc tổ chức

quá trình đảm bảo vật tư ở công ty. Thấy được ảnh hưởng của hậu cần vật tư kỹ thuật
đến việc hoàn thành kế hoạch sản suất, có thể đánh giá được việc sử dụng hợp lý và
tiết kiệm vật tư, thấy dược khả năng tiềm tàng của công ty. Qua phân tích có thể phát
hiện được những ưu điểm, thiếu sót và trên cơ sở đó có những biện pháp cải tiến cụ
thể.
Phân tích tình hình nhập vật tư công ty về mặt chất lựơng, số lượng, mặt hàng,
tính đồng bộ, về mặt kịp thời, tính đều đặn và về nguồn cung ứng…
Đối với những vật tư dùng làm tư liệu sản xuất cần phải đảm bảo về mặt số
lượng ngay từ đầu, chất lượng tốt và phải đảm bảo an toàn để phục vụ cho quá trình
sản xuất hoạt động đạt hiệu quả cao. Nguồn nhập về máy móc thiết bị chủ yếu nhập
từ Malaysia, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc…
Đối với những vật tư dùng làm đối tượng lao động cần phải đảm bảo đầy đủ
về mặt số lượng, chất lượng,mang tính đồng bộ, kịp thời và đều đặn để phục vụ cho
quá trình sản xuất hoạt động một cách liên tục hoàn thành và hoàn thành vượt mức
kế hoạch mà công ty đã đề ra. Nguồn vật tư này công ty đã nhập từ nhiều nguồn khác
nhau có một số nhập ngoại như nguyên liệu là bông, xơ, các phụ liệu nhập nhập từ
Hàn Quốc và một số nước lân cận. Còn các vật tư khác có thể được lấy ngay tại cơ
sở như nhiên liệu, điện lực…
Phân tích tình hình sử dụng vật tư của công ty. Tình hình sử dụng vật tư ảnh
hưởng trực tiếp đến khả năng đảm bảo vật tư cho sản xuất. Phân tích tình hình sử
dụng vật tư có thể theo nhiều nội dung khác nhau như việc sử dụng vật tư có đúng
mục đích không? Có đúng mức không? Tình hình thu hồi và sử dụng phế liệu, phế
phẩm như thế nào? Hiện nay Công ty vải sợi Nghĩa Hưng đang sử dụng chỉ tiêu để
đánh giá tình hình sử dụng vật tư là chỉ tiêu hao phí vật tư thực tế cho một đơn vị sản
phẩm. Nếu ký hiệu:


C - là số vật tư thực tế chi ra cho sản xuất.
Q - là số sản phẩm sản xuất ra được từ số vật tư đó.


Q
C
H 
(H- Chỉ tiêu hao phí vật tư )

Nhưng bản thân chỉ tiêu hao phí vật tư thực tế cho một đơn vị sản phẩm cũng
chưa nói lên được mức độ hiệu quả của việc sử dụng vật tư ở một công ty sản xuất và
kinh doanh như công ty vải sợi Nghĩa Hưng. Để xác định được mức độ hiệu quả của
việc sử dụng loại vật tư cần phải so sánh chỉ tiêu hao phí thực tế cho một đơn vị sản
phẩm trong kỳ báo cáo với mức tiêu dùng cho một đơn vị sản phẩm đã được quy
định và với chỉ tiêu hao phí ở kỳ trước.
Ngoài ra công ty cần phải phân tích tình hình dự trữ vật tư là nhằm đảm bảo
cho quá trình sản xuất được tiến hành liên tục. Muốn có một lượng dự trữ vật tư hợp
lý phải xây dựng cho được mức dự trữ vật tư chính xác là so sánh mức dự trữ vật tư
với tồn kho thực tế, là phân tích dự trữ về khối lượng, về mức độ dự trữ và quá trình
biến đổi dự trữ qua các năm.
V. Quản trị sản xuất
Quản trị sản xuất là tổng hợp các hoạt động xây dựng hệ thống sản xuất và
quản trị các yếu tố đầu vào tạo thành sản phẩm đầu ra theo yêu cầu của khách hàng
nhằm thực hiện các mục tiêu: chất lượng, tốc độ, tính linh hoạt và hiệu quả.
Hệ thống sản xuất là cơ sở vật chất kỹ thuật, là cơ sở để tổ chức quá trình sản
xuất và tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp. Hiện nay hệ thống sản xuất của Công
ty vải sợi Nghĩa Hưng bao gồm bộ phận sản xuất và bộ phận phục vụ sản xuất. Để
thiết kế và xây dựng hệ thống sản xuất thì công ty đã dựa vàô các yêu cầu cơ bản
sau:
- Thứ nhất, đảm bảo tính chuyên môn hoá cao.
- Thứ hai, đảm bảo tính linh hoạt cần thiết của sản xuất.
- Thứ ba, đảm bảo tính cân đối, nhịp nhàng cần thiết ngay từ khi thiết kế.
- Thứ tư, tạo điều kiện gắn trực tiếp hoạt động quản trị với hoạt động sản xuất.
Dựa vào đặc điểm sản phẩm, đặc điểm nguyên vật liệu, nguồn cung cấp nguyên vật



liệu, lao động và các yếu tố khác mà công ty đã lựa chọn địa điểm đặt cơ sở sản xuất
phù hợp, hiện nay Công ty có cơ sở sản xuất chính được đặt tại trụ sở chính ở TP
Việt Trì và 2 chi nhánh ở TP Hà Nội và tỉnh Thái Bình. Trải qua một thời gian sản
xuất thì quy mô sản xuất của Công ty ngày càng được mở rộng và đã khẳng định
được vị trí của mình trên thị trường trong nước và quốc tế. Đồng thời ở các cơ sở sản
xuất còn được phân thành ba cấp đó là cấp:
Phân xưởng ngành nơi làm việc
Bên cạnh việc sản xuất thì công tác bảo quản và vận chuyển cũng được công
ty chú trọng đầu tư và thực hiện rất tốt. Bởi vì Công ty vải sợi Nghĩa Hưng là công ty
vừa kinh doanh vừa sản xuất cho nên việc xây dựng kho chứa là hết sức cần thiết.
Hiện nay công ty đã có tới hơn một nghìn mét vuông kho chứa thành phẩm, hàng hoá
và nguyên vật liệu. Cùng với việc xây dựng kho tàng thì Công ty vải sợi Nghĩa Hưng
còn đầu tư cho công tác vận chuyển 05 xe tải với trọng lượng mỗi xe từ 3-5 tấn.
Cũng dựa vào những đặc điểm của sản phẩm mà Công ty đã tổ chức sản xuất
theo phương pháp dây chuyền, đây là phương pháp tương đối hợp lý cho quá trình
sản xuất của Công ty. Ví dụ như quy trình sản xuất sợi từ bông chẳng hạn thi bắt đầu
từ máy Bông chuyển sang máy Chải sau đó đến máy Ghép và cuối cùng là qua máy
Kéo sợi để tạo ra thành phẩm. Để điều hàmh quá trình sản xuất thì công ty đã sử
dụng một số công cụ trợ giúp công tác kế hoạch hoá sản xuất như kế hoạch hoá
chương trình sản xuất từng bước, kế hoạch hoá chương trình sản xuất đồng bộ, rồi
công cụ trợ giúp quá trình điều hành sản xuất như sử dụng sơ đ
ồ mạng.
Trong thời gian tới công ty đang có kế hoạch mở rộng sản xuất bằng cách thành lập
Chi nhánh mới hoặc liên doanh, liên kết với các nhà đầu tư nước ngoài. Hiện tại công
ty đang liên kết với các công ty thuộc lĩnh vực dệt và may mặc trong nước và quốc tế
như: Công ty may Thăng Long, may Việt Tiến, May10, Công ty Pang Rim
Yoochang Hàn Quốc…
VI. Quản trị chất lượng

Đối với nền kinh tế đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ nâng cao
khả năng cạnh tranh của đất nước. Khả năng cạnh tranh của đất nước phụ thuộc vào


khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nước đó. Vấn đề mang tính cấp bách đối
với các doanh nghiệp nước ta hiện nay là nâng cao chất lượng sản phẩm để theo kịp
trình độ về chất lượng sản phẩm của các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong
xu thế toàn cầu hoá về kinh tế, rào cản thuế quan giữa các nước, các khu vực ngày
càng giảm thì rào cản phi thuế quan được dựng lên để bảo vệ cho ngư
ời tiêu dùng.
Từ lâu trên thế giới đã hình thành hệ thống buôn bán tin cậy không có sự kiểm
tra của người thứ ba khi giao nhận hàng hoá nên đả giảm nhiều chi phí kinh doanh
tạo điều kiện thuận lợi giữa người mua và người bán. Cơ sở của hệ thống buôn bán
tin cậy là chứng thư chất lượng do một số tổ chức phi chính phủ được nhiều nước
công nhận cấp. Đó là chứng nhận về ISO 9000, ISO 14000, GMP, HACCP, ISM
Code. Đến nay trên thế giới đã có hơn 200.000 giấy chứng nhận phù hợp ISO 9000
được cấp cho hơn 100 nước (trong đó Việt Nam được cấp trên 30 giấy). Nhiều tổ
chức trên thế giới còn khuyến cáo trong vài năm tới bạn hàng thế giới sẽ chỉ mua
hàng của các doanh nghiệp Việt Nam được cấp chứng chỉ ISO 9000. Trong bối cảnh
này, thì việc hội nhập của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế còn là
cả một vấn đề to lớn. Đứng trước tình thế này thì Công ty vải sợi Nghĩa Hưng đã coi
trọng vấn đề chất lượng sản phẩm, hiện nay công ty đang áp dụng hệ thống chất
lựơng HACCP (hazard analysis-critical control point system). Mặc dù tuổi đời của
công ty còn ít nhưng với hệ thống chất lượng này thì tên tuổi của họ sẽ nhanh chóng
được các nhà kinh doanh và các các nhà sản xuất xem trọng và uy tín của công ty
ngày càng được lan rộng. Những gì mà Công ty đạt được ngày hôm nay là kết quả
của gần chục năm không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến
mẫu mã sản phẩm phù hợp thị hiếu của khách hàng. Hiện nay công tác hội nhập, liên
doanh và xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài của công ty đang đựơc mở rộng và có
chiều hướng tương đối tốt. Vì vậy mà ban Giám đốc và ban quản lý công ty rất chú

trọng đến vấn đề chất lượng sản phẩm, đặt nó nên hàng đầu trong chiến lược kinh
doanh. Công ty đã sử dụng một số công cụ để duy trì và nâng cao chất lượng sản
phẩm ngày một tốt hơn như: Đầu tư mua sắm công nghệ, thiết bị sản xuất hiện đại,
nâng cao tay nghề của công nhân sản xuất. Chất lượng sản phẩm của Công ty được


đánh giá theo từng loại như: 1, 2 và 3…mỗi loại được bán với mức giá riêng. Hệ
thống chỉ tiêu đánh giá chất lựơng sản phẩm của Công ty vải sợi Nghĩa Hưng như
sau:

KHKHKH
qqq
321
,,
- chỉ sản lượng sản phẩm loại 1,2 và 3 theo kế hoạch

TtTtTt
qqq
321
,,
- chỉ sản lượng sản phẩm loại 1,2 và 3 thực tế đạt được

KHKHKH
ppp
321
,,
- chỉ giá cả sản phẩm loaị 1 ,2 và 3 theo kế hoạch

TtTtTt
ppp

321
,,
- chỉ giá cả sản phẩm loaị 1 ,2 và 3 thực tế bán được
Tt
PL
KH
PL
HH ,
chỉ hệ số phân loại sản phẩm theo kế hoạch và thực tế
Thứ nhất, hệ số phân loại sản phẩm theo kế hoạch, xác định cho từng thời kỳ
kế hoạch như sau:




KHKH
i
KH
i
KH
i
KH
PL
pq
pq
H
1

Thứ hai ,hệ phân loại sản phẩm thực tế đạt được trong thời kỳ kế hoạch:





TtTt
i
Tt
i
Tt
i
Tt
PL
pq
pq
H
1


VII. Quản trị chi phí
Quản trị chi phí kinh doanh là quá trình tập hợp, phân tích, tính toán và quản
trị các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhằm cung cấp
thường xuyên các thông tin về chi phí kinh doanh với độ chính xác cần thiết làm cơ
sở cho các quyết định quản trị.
Công ty vải sợi Nghĩa Hưng đã dùng phương pháp tính và tập hợp chi phí
kinh doanh theo loại sản phẩm như sau:
- Tập hợp chi phí kinh doanh sử dụng lao động.
+ Tập hợp tiền lương tiền thưởng theo hợp đồng và luật định.

×