Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

LUẬN VĂN: Vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (691.75 KB, 87 trang )













LUẬN VĂN:

Vai trò và các nhân tố ảnh
hưởng đến hoạt động xuất khẩu
của doanh nghiệp



Chương I: Xuất khẩu – Vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất
khẩu của doanh nghiệp.




I. Xuất khẩu và vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với doanh nghiệp.

1. Nguồn gốc - khái niệm của hoạt động xuất khẩu.

Xuất khẩu là sự trao đổi dịch vụ, hàng hoá giữa các nước thông qua mua bán.


Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc
lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng lẻ ở các quốc gia
khác nhau. Xuất khẩu ngày càng mang tính chất sống còn vì một lý do cơ bản: Xuất
khẩu mở rộng khả năng sản xuất và tiêu thụ tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều
hơn mức có thể tiêu dùng với đường sản xuất cận biên của mỗi quốc gia.

Tiền đề của sự trao đổi là quá trình phân công lao động xã hội. Quá trình này
đã dẫn đến việc chuyên môn hoá sản xuất được hình thành. Với sự phát triển của
khoa học kĩ thuật, phạm vi chuyên môn hoá ngày càng cao. Do đó số sản phẩm
cùng dịch vụ thoả mãn nhu cầu của con người ngày càng tăng lên. Đến một thời
điểm nào đó, để thoả mãn đồng bộ các nhu cầu của mình, người ta đã tiến hành hoạt
động trao đổi, đầu tiên hoạt động trao đổi diễn ra trong vùng, lãnh thổ, quốc gia.
Nhưng người ta đã nhận thấy rằng, việc mở rộng phạm vi trao đổi ra khỏi lãnh thổ,
quốc gia ngày càng mang lại nhiều lợi nhuận hơn và hoạt động xuất khẩu được thực
hiện.

Hoạt động xuất khẩu đã phát triển trong một thời gian dài, và mỗi thời kì đều
có những quan điểm khác nhau về hoạt động này. Trong quan điểm của chủ nghĩa
trọng thương thì muốn có nhiều của cải, các nước phải tiến hành hoạt động buôn
bán với nước ngoài. Lý thuyết trọng thương chỉ ra rằng lợi nhuận buôn bán là kết

quả của sự trao đổi không ngang giá và lừa đảo giữa các quốc gia. Hay quốc gia nào
xuất khẩu nhiều hơn sẽ có lợi, quốc gia nào nhập khẩu nhiều thì thiệt hại.

Theo lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam - Smith thì hoạt động xuất khẩu
giữa các nước phải dựa trên lợi thế tuyệt đối của các nướclàm cơ sở. Với mỗi nước
khác nhau, có những lợi thế khác nhau nên sản xuất ra những sản phẩm khác nhau
và đem trao đổi cho nhau thì các bên cùng có lợi.

Bên cạnh đó, xuất khẩu còn bắt nguồn từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên

khác nhau của mỗi quốc gia, nên một việc có lợi là mỗi nước chuyên môn hoá sản
xuất và xuất khẩu hàng hoá mà mình có lợi thế để nhập khẩu những hàng hoá khác
từ nước ngoài.

Đến năm 1817, nhà kinh tế học người Anh David Ricardo đã chứng minh rằng
chuyên môn hoá có lợi cho một nước và gọi đó là quy luật lợi thế tương đối hay lý
thuyết lợi thế so sánh. Quy luật này nhấn mạnh vào sự khác nhau của chi phí sản
xuất, và coi đó là chìa khoá của phương thức thương mại. Lý thuyết này khẳng định
nếu một nước tập trung chuyên môn hoá vào sản xuất những sản phẩm mà nước đó
có lợi thế tương đối ( hay có hiệu quả sản xuất so sánh cao nhất ) thì thương mại sẽ
có lợi cho cả hai bên. Thậm chí những quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các
quốc gia khác trong hầu hết các loại sản phẩm, thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia
vào hoạt động xuất khẩu để tạo lợi ích cho mình.

Nguồn gốc của hoạt động xuất khẩu còn do sự chênh lệch giữa các nước về chi
phí cơ hội của hàng hoá tạo ra. Chi phí cơ hội của một mặt hàng là số lượng mặt
hàng mà người ta phải loại bỏ để sản xuất ra thêm một đơn vị mặt hàng nào đó.
Chính chi phí cơ hội cho ta biết chi phí tương đối để làm ra các mặt hàng khác
nhau. Sự khác nhau giữa các nước về chi phí tương đối trong sản xuất quyết định
hình thức của hoạt động xuất khẩu.


Một trong các lý do khiến hoạt động xuất khẩu trở nên rất quan trọng trong thế
giới hiện đại đó là xuất khẩu rất cần thiết cho việc thực hiện chuyên môn hoá sâu để
có hiệu quả kinh tế cao trong nhiều ngành công nghiệp hiện đại. Chuyên môn hoá
quy mô lớn sẽ làm giảm chi phí sản xuất và hiệu quả kinh tế theo quy mô được thực
hiện.

Heckscher – Ohlin nhà kinh tế học Thuỵ Điển đã phát hiện quy luật lợi thế trên
dựa vào sự phát triển của khoa học kĩ thuật, đó là việc tính toán các yếu tố đầu vào

để xác định sản phẩm đầu ra có giá thành thấp nhất có thể. Những nước có ưu thế
về nguồn lực như: tài nguyên, lao động, đất đai thì giá thành sản phẩm rẻ nếu
quốc gia đó chọn những sản phẩm chuyên môn hoá sử dụng nhiều nguồn lực về tài
nguyên, lao động, đất đai và từ đó họ kinh doanh có hiệu quả.

Sự khác nhau về sở thích cũng như nhu cầu cũng là một nguyên nhân dẫn đến
hoạt động xuất khẩu.

2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong hoạt động kinh doanh.

Cùng với hoạt động buôn bán trong nước, hoạt động xuất khẩu cũng đóng vai
trò không nhỏ trong việc tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Xuất khẩu là hoạt
động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là những hành vi buôn
bán riêng lẻ mà là một hệ thống những quan hệ mua bán từ trong ra ngoài nhằm
mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, chuyển dịch cơ cấu cũng như thành phần
kinh tế. Do đó, xuất khẩu là hoạt động kinh tế đối ngoại dễ mang lại những hiệu quả
đột biến cao.

Trong nền kinh tế thị trường, xuất khẩu ngày càng có vai trò quan trọng không
chỉ đối với một doanh nghiệp mà còn có vai trò quan trong đối với cả nền kinh tế
của một quốc gia.

2.1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc gia


+ Phát huy nội lực của nền kinh tế, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
thông qua việc đầu tư kỹ thuât, đầu tư cho nhân lực Mở rộng năng lực sản xuất
của quốc gia thông qua việc thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, khai thông được các
nguồn thông tin và tận dụng được mọi mối quan hệ do xuất khẩu mang lại hiệu quả
kinh tế cao.


+ Chất lượng hàng hoá được nâng cao, áp dung kĩ thuật mới được tiến hành
một cách thường xuyên và có ý thức hơn do có sự cạnh tranh giữa các chủ thể tham
gia vào hoạt động xuất khẩu. Việc xuất khẩu trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần thì sự cạnh tranh giữa các chủ thể xuất khẩu là tất yếu diễn ra.

+ Hoạt động xuất khẩu còn đưa tới việc xoá bỏ nhanh chóng các chủ thể kinh
doanh các sản phẩm lạc hậu không thể chấp nhận được. Hoạt động xuất khẩu còn
góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu cuả nhà nước và của mỗi địa phương
theo hướng có lợi nhất thông qua những đòi hỏi hợp lý của các chủ thể tham gia vào
hoạt động này.

+ Xuất khẩu trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dẫn tới
việc hình thành các liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước
một cách tự nguyện nhằm tạo sức mạnh thiết thực cho các chủ thể.

2.2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với doanh nghiệp.

+ Thông qua hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp thực hiện được mục tiêu cơ
bản của mình đó là lợi nhuận, một mục tiêu mà mọi doanh nghiệp đều phải hướng
tới. Lợi nhuận là mục tiêu đầu tiên cũng như mục tiêu quan trọng nhất của doanh
nghiệp, nó quyết định và chi phối các hoạt động khác như: nghiên cứu, tìm kiếm thị
trường mới; thu mua và tạo nguồn hàng; tiến hành các hoạt động dự trữ, dịch vụ


+ Xuất khẩu là hoạt động quan hệ mật thiết với khách hàng quốc tế, ảnh hưởng
đến niềm tin cũng như khả năng tái tạo nhu cầu của họ. Do vậy, đó cũng là một vũ
khí cạnh tranh sắc bén của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế.

+ Xuất khẩu tạo thêm việc làm cho người lao động của doanh nghiệp, nó làm

tăng thêm thu nhập của họ đồng thời cũng phát huy được sự sáng tạo của người lao
động

Xuất khẩu dẫn tới sự hợp tác giữa các nhà khoa học và các doanh nghiệp một
cách thiết thực từ phía nhà sản xuất, nó khơi thông nguồn chất xám trong và ngoài
nước.


II. Nội dung của hoạt động xuất khẩu hàng hoá ở doanh nghiệp.

Xuất khẩu là hoạt động mua bán hàng hoá với nước ngoài song cũng có nhiều
nét riêng, phức tạp hơn so với buôn bán trong nước. Hoạt động này có liên quan đến
các vấn đề như: thông lệ quốc tế, ngôn ngữ, bản sắc văn hoá, sự vận động của thị
trường quốc tế, đồng tiền, phương thức và điều kiện thanh toán

Hoạt động xuất khẩu được thực hiện qua nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu từ điều
tra nghiên cứu thị trường, lựa chọn hàng hoá và nghiên cứu giá cả cho xuất khẩu,
lập phương án kinh doanh, đàm phán kí kết hợp đồng, đến điều kiện thanh toán.
Mỗi khâu, mỗi bước phải được nghiên cứu thực hiện đầy đủ theo đúng nghiệp vụ,
đúng thủ tục, phải tranh thủ nắm bắt được các lợi thế đảm bảo cho hoạt động xuất
khẩu đạt giá trị cao nhất.

Đối với nhà xuất khẩu, trước khi bước vào nghiên cứu, thực hiện các khâu
nghiệp vụ thì phải nắm bắt được các thông tin về nhu cầu hàng hoá, thị hiếu của
khách hàng nước ngoài, những ảnh hưởng của đối thủ cạnh tranh, những yếu tố văn

hoá, pháp luật và quan trọng hơn cả là giá của hàng hoá và xu hướng vận động
của nó. Hoạt động xuất khẩu thường được thực hiện qua một số bước sau:

1. Nghiên cứu tiếp cận thị trường.


Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền với sản xuất và lưu thông
hàng hoá, ở đâu có lưu thông hàng hoá, ở đó có thị trường. Nắm vững được thị
trường là nắm bắt được các yếu tố của thị trường và xu hướng vận động của các yếu
tố đó. Để nắm vững được các yếu tố của thị trường, hiểu biết được quy luật cuả
chúng nhằm xử lí kịp thời, người xuất khẩu phải tiến hành các hoạt động nghiên
cứu thị trường.

Mục đích của hoạt động nghiên cứu thị trường là tìm hiểu các thông tin cho
quá trình ra quyết định của doanh nghiệp. Thông tin chính xác đầy đủ về thị trường
trong lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp chính là tiền đề của sự phát triển, cho
khả năng chi phối thị trường và thành công của doanh nghiệp. Quá trình nghiên cứu
thị trường bao gồm các bước sau:

+ Tổ chức thu thập thông tin:

Thông tin cần thu thập bao gồm thông tin sơ cấp và thông tin thứ cấp. Trong
đó thông tin thứ cấp là thông tin đã được thông báo từ những tài liệu đã được
công bố như báo chí, tài liệu, báo cáo của công ty. Thông tin sơ cấp là thông
tin mà doanh nghiệp tự thu thập được thông qua các chương trình đã định sẵn.

+ Xử lí thông tin:

Xử lí thông tin là quá trình tiến hành phân loại, tổng hợp, phân tích kiểm tra
trên cơ sở những thông tin đã thu được để xác định chính xác của các thông tin
riêng lẻ cục bộ, loại trừ các thông tin sai lệch, thông tin nhiễu, giả tạo nhằm
xác định thị trường mục tiêu, nhằm xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp.


+ Ra quyết định:


Quá trình xử lí thông tin cũng là việc lựa chọn để ra quyết định. Sự đúng đắn,
chính xác của các quyết định do thực tế kết quả của việc thực hiện các quyết
định đó trả lời.

Nghiên cứu thị trường không chỉ là việc tìm ra các thông tin mà còn là quá
trình nghiên cứu đánh giá sự ảnh hưởng của các thông tin đó đến các hoạt động của
doanh nghiệp. Việc nghiên cứu thị trường không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu lĩnh
vực lưu thông mà còn cả lĩnh vực sản xuất và phân phối hàng hoá. Quá trình nghiên
cứu thị trường phải trả lời được nhưng câu hỏi: Xuất khẩu cái gì? Dung lượng thị
trường của hàng hoá đó ra sao? đối tác giao dịch là ai? Phương thức giao dịch và
thanh toán như thế nào? Từ đó đưa ra các chiến lược cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình.

1.1. Lựa chọn thị trường xuất khẩu.

Việc lựa chọn thị trường xuất khẩu phức tạp hơn nhiều so với việc tìm kiếm và lựa chọn
thị trường trong nước. Khi tìm kiếm thị trường nước ngoài doanh nghiệp phải vượt qua một
số khó khăn nhất định như bất đồng ngôn ngữ, hệ thống luật áp dụng, thị hiếu của người tiêu
dùng bên cạnh đó, doanh nghiệp phải xác định được khi xuất khẩu sang thị trường này
doanh nghiệp cần có nhưng biện pháp marketing nào cho phù hợp, những dịch vụ gì đi kèm
để có thể thu được hiệu quả cao nhất chính vì thế mà các doanh nghiệp phải thận trọng
trong việc lựa chọn thị trường. Trong quá trình nghiên cứu thị trường cần chú ý tới những vấn
đề sau: Quy mô, cơ cấu, sự vận động của thị trường, dung lượng thị trường và các nhân tố
tác động tới sự thay đổi của dung lượng thị trường.

* Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trong một phạm vi thị
trường nhất định trong một thời kì nhất định ( thường là một năm ) . Nghiên cứu về dung
lượng thị trường cần xác định nhu cầu và nguồn một cách thực tế, kể cả lượng dự trữ xu


hướng biến động trong từng thời điểm, trong từng vùng, và khu vực, từng lĩnh vực sản xuất,
tiêu dùng. Bên cạnh việc nghiên cứu, nắm bắt nhu cầu là việc nắm bắt khả năng cung cấp của
thị trường bao gồm: khả năng sản xuất của hàng hoá thay thế, xu hướng lựa chọn tiêu dùng,
tính chất thời vụ của sản xuất và tiêu dùng hàng hoá trên thị trường thế giới.

* Dung lượng thị trường là không cố định, nó thay đổi tuỳ theo sự tác động của một số
các nhân tố trong một khoảng thời gian nhất định. Người ta chia các nhân tố làm thay đổi
dung lượng thị trường thành 3 nhóm sau:

Loại 1: Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến động có tính chất chu
kỳ. Đó là sự khủng hoảng mang tính chu kỳ của các nước TBCN và tính chất
thời vụ trong sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hoá. Phải chú ý phân tích
sự biến động về kinh tế của các nước TBCN giữ vai trò chủ yếu trên thị trường
vì khi các nước này rơi vào khủng hoảng thì dung lượng thị trường bị co hẹp
và ngược lại thì dung lượng thị trường tăng lên. Bên cạnh đó, do đặc điểm sản
xuất và lưu thông các loại hàng hoá khác nhau nên sự tác động của nhân tố
thời vụ này rất đa dạng và với các ức độ khác nhau.

Loại 2: Các nhân tố làm ảnh hưởng lâu dài đến sự biến đổi dung lượng thị
trường. Các nhân tố này bao gồm: tiến bộ khoa học kỹ thuật, các biện pháp
chính sách của nhà nước và các tập đoàn tư bản lũng loạn, thị hiếu, tập quán
của người tiêu dùng, khả năng của hàng hoá thay thế.

Loại 3: Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đối với dung lượng thị trường như
hiện tượng đầu cơ, các yếu tố tự nhiên như bão lụt, động đất , các yếu tố
chính trị – xã hội như đình công

Nắm vững dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng trong từng thời kì
có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, nó giúp cho
nhà xuất khẩu cân nhắc để đề ra các quyết định kịp thời, chính xác, nhanh chóng

chớp được thời cơ giao dịch nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Bên cạnh việc nắm

được dung lượng thị trường, nhà xuất khẩu phải nắm bắt được tình hình kinh doanh
mặt hàng đó trên thị trường, các điều kiện về chính trị, thương mại, luật pháp, tập
quán buôn bán để hoà nhập nhanh chóng, có hiệu quả tránh được những sai sót
khi giao dịch.

1.2. Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu.

Mục đích của việc lựa chọn mặt hàng này là để xác định xem những mặt hàng
kinh doanh nào phù hợp với khả năng của doanh nghiệp, đồng thời đáp ứng được
nhu cầu của thị trường. Để lựa chọn thị trường xuất khẩu trước tiên cần dựa vào nhu
cầu sản xuất, quy cách, chất lượng, chủng loại, thị hiếu của từng vùng, từng lĩnh
vực sản xuất. Về khía cạnh thương phẩm phải hiểu rõ giá trị, công dụng đặc tính,
phẩm chất, mẫu mã nắm bắt đầy đủ giá cả hàng hoá ứng với từng điều kiện giao
hàng và phẩm chất hàng hoá, khả năng sản xuất và nguồn cung cấp chủ yếu của các
đối thủ cạnh tranh. Các doanh nghiệp khi tiến hành nghiên cứu thị trường phải chú ý
nghiên cứu đối thủ cạnh tranh về số lượng và mức độ tham gia của họ với thị
trường, khả năng cung ứng, tiềm lực doanh nghiệp, các kế hoạch sản xuất kinh
doanh , thậm chí cả khả năng thu mua của họ.

Mặt hàng được lựa chọn ngoài việc phù hợp với nhu cầu của thị trường phải
phù hợp với tiềm lực của doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi phải có sự phân tích, đánh
giá kĩ tiềm lực bên trong của doanh nghiệp cũng như dự đoán được nhưng thuận lợi
và khó khăn doanh nghiệp gặp phải khi tiến hành việc cung ứng hàng hoá này ra thị
trường nước ngoài.

Yếu tố thứ hai phải chú ý trong việc lựa chọn hàng xuất khẩu đó là tỷ suất
ngoại tệ của các mặt hàng. Trong trường hợp xuất khẩu, tỷ xuất hàng xuất khẩu là
số lượng bản tệ phải bỏ ra để thu về một đồng ngoại tệ. Nếu tỷ suất này thấp hơn tỷ

giá hối đoái thì xuất khẩu được, ngược lại thì không nên xuất khẩu. Yêú tố nữa phải
tính đến đó là kinh nghiệm của người nghiên cứu thị trường để dự đoán được những
xu thế biến động của hàng hoá, của giá cả hàng hoá đó trên thị trường trong nước

cũng như thị trường nước ngoài, khả năng thương lượng để đạt được các điều kiện
mua bán ưu thế hơn.

1.3 Lựa chọn đối tác.

Trong hoạt động xuất khẩu thì khách hàng là những người, tổ chức có quan hệ
giao dịch với ta nhằm thực hiện các quan hệ mua bán hàng hoá, dịch vụ các hoạt
động hợp tác kinh tế. Việc lựa chọn khách hàng có căn cứ khoa học là điều kiện
quan trọng để thực hiện tốt các điều khoản của hợp đồng mà các bên đã ký kết.
Người ta thường lựa chọn đối tác dựa vào một số các yếu tố sau:

* Tình hình sản xuất kinh doanh của hãng, lĩnh vực và phạm vi hoạt động
kinh doanh để thấy được khả năng hợp tác lâu dài, thường xuyên, khả năng đặt
hàng và liên kết kinh doanh.

* Khả năng về vốn, cơ sở vật chất cho thấy những ưu thế trong thoả thuận giá
cả và điều kiện thanh toán.

* Thái độ và quan điểm kinh doanh của đối tác.

Bên cạnh đó, việc tìm hiểu uy tín và quan hệ trong kinh doanh của đối tác cũng
là một trong những điều kiện quan trọng cho phép đưa ra những quyết định trong
hoạt động xuất khẩu có hiệu quả hơn.

Nghiên cứu thị trường hàng hoá trước khi tổ chức hoạt động xuất khẩu là cần
thiết và rất quan trọng, đó là bước tiền đề để hoạt động xuất khẩu được tiến hành

một cách thắng lợi.

2. Nghiên cứu giá cả hàng hoá xuất khẩu.


Giá cả là sự biểu hiên bằng tiền của giá trị hàng hoá, đồng thời nó cũng biểu
hiện một cách tổng hợp các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ trong nền kinh tế
quốc dân. Giá cả luôn gắn liền với thị trường và là một yếu tố cấu thành nên thị
trường. Giá cả có thể bao gồm các yếu tố: Giá trị hàng hoá đơn thuần, bao bì, chi
phí vận chuyển, chi phí bảo hiểm và các chi phí khác tuỳ theo quá trình giao dịch và
sự thoả thuận của các bên tham gia.

Đối với hoạt động xuất khẩu, giá cả thị trường càng trở nên phức tạp do việc
mua bán giữa các khu vực diễn ra trong thời gian dài, hàng hoá được vận chuyển
qua qua nhiều nước với các chính sách thuế khác nhau. Do vậy để đạt được hiệu
quả cao trên thương trường các doanh nghiệp phải luôn theo dõi nghiên cưú những
biến động của giá cả thị trường.nghiên cứu giá cả bao ggồm việc nghiên cứu nghiên
cứu mức giá từng mặt hàng tại từng thời điểm, các loại giá trên thị trường, xu hướng
biến động và các nhân tố ảnh hưởng đến nó.

Giá quốc tế có tính chất đại diện nhất định đối với từng loại hàng hoá nhất
định trên thị trường thế giới. Giá đó phải là giá của những giao dịch thông thường,
không kèm theo một điều kiện đặc biệt nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do
chuyển đổi. Xu hướng biến động của giá cả các loại hàng hoá trên thị trường thế
giới rất phức tạp. Trong cùng một thời gian, giá cả có thể biến động theo những
chiều hướng trái ngược nhau với những mức độ nhiều ít khác nhau do sự tác động
của các nhân tố khác nhau:

* Nhân tố chu kỳ: Đó là sự vận động có tính quy luật của nền kinh tế, là nhân
tố cơ bản ảnh hưởng đến sự biến động giá cả của tất cả các loại hàng.


* Nhân tố lũng loạn của các công ty đa quốc gia: Đây là nhân tố quan trọng
ảnh hưởng tới sự hình thành và biến động của giá cả hiện nay. Lũng loạn làm
xuất hiện nhiều mức giá đối với cùng một loại hàng hoá thậm chí trên cùng
một thị trường.


* Nhân tố cạnh tranh có thể làm cho giá biến động theo xu hướng khác nhau
tuỳ thuộc đối tượng tham gia vào cuộc cạnh tranh là người mua hay người bán.

* Nhân tố cung cầu: nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới sự biến động giá cả hàng
hoá. Nếu cung vượt quá cầu thì thúc đẩy xu hướng giảm giá và ngược lại

Ngoài những nhân tố tác động thường xuyên trên còn có nhều nhân tố khác tác
động đến giá cả thị trường như chính sách của nhà nước, xung đột xã hội, thiên tai
Đây là những nhân tố tác động đến giá trong thời gian ngắn.

3. Xây dựng kế hoạch và chiến lược xuất khẩu.

3.1. Xây dựng kế hoạch xuất khẩu.

Dựa vào kết quả nghiên cứu của các khâu trên, doanh nghiệp tiến hành xây
dựng chiến lược, kế hoạch xuất khẩu cụ thể. Đây là bước chuẩn bị trên giấy tờ để dự
đoán về diễn biến về quá trình xuất khẩu và các mục tiêu sẽ đạt được khi thực hiện
quá trình này. Chiến lược xuất khẩu là định hướng hoạt động có mục tiêu của doanh
nghiệp trong một thời kỳ nhất định và hệ thống các chính sách, biện pháp, điều kiện
để thực hiện các mục tiêu đó. Chiến lược xuất khẩu là một bước phát triển tất yếu
trong quá trình tổ chức và quản lý doanh nghiệp, nó giúp cho doanh nghiệp biết
được hướng đi và mục đích hoạt động kinh doanh đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp. Mục tiêu của chiến lược thường là: Chiến lược mặt hàng

xuất khẩu, tăng kim ngạch, tối đa hoá lợi nhuận, mở rộng thị trường, nâng cao uy
tín của doanh nghiệp.

Chiến lược xuất khẩu phản ánh những đánh giá của doanh nghiệp về điều kiện
cơ hội thị trường và khả năng lợi dụng những cơ hội ấy của doanh nghiệp. Căn cứ
vào kết quả đó, doanh nghiệp sẽ quyết định sẽ mở rộng hơn, thu hẹp lại, duy trì như
trước hay chuyên môn hoá ở một bộ phận chiến lược nào đó.


3.2. Kế hoạch xuất khẩu.

Kế hoạch xuất khẩu là phương tiện để phối hợp thống nhất các nỗ lực của các
thành viên trong doanh nghiệp. Đây là sự cụ thể hoá những công việc cần được thực
hiện trong chién lược xuất khẩu. Nội dung của công việc xây dựng kế hoạch xuất
khẩu bao gồm:

3.2.1. Xác định mục tiêu và lập kế hoạch xuất khẩu.

Doanh nghiệp phải xác định được rõ các mục tiêu cụ thể khi tiến hành hoạt
động xuất khẩu, các mục tiêu của hoạt động xuất khẩu được hình thành ở các cấp
quản trị, ở các phòng nghiệp vụ, các bộ phận khác nhau của doanh nghiệp: mục tiêu
xuất khẩu chung của doanh nghiệp; mục tiêu xuất khẩu của các chi nhánh, các
phòng nghiệp vụ, các cá nhân trong hệ thống xuất khẩu; mục tiêu kim ngạch xuất
khẩu; mục tiêu tài chính: chi phí/ lợi nhuận

Các mục tiêu có thể được thể hiện dưới dạng định tính hay định lượng. Các
mục tiêu định lượng là sự cụ thể hoá các mục tiêu định tính vào các kế hoạch xuất
khẩu. Các chỉ tiêu này được gọi là chỉ tiêu xuất khẩu. Doanh nghiệp cần xác định
các chỉ tiêu trong kế hoạch xuất khẩu về khối lượng hàng xuất khẩu ( các chỉ tiêu
tương đối, tuyệt đối ), kim ngạch xuất khẩu, chi phí, lợi nhuận, dự trữ.


3.2.2. Lựa chọn hình thức xuất khẩu thích hợp.

Xuất khẩu không phải là một hành vi mua bán độc lập mà là cả một hệ thống
các quan hệ mua bán, đầu tư từ trong nước ra bên ngoài nhằm mục đích đẩy mạnh
sản xuất hàng hoá, chuyển đổi kinh tế cho phù hợp và từng bước nâng cao đời sống
của người dân.

Dựa vào điều kiện của từng quốc gia mà người ta lựa chọn các hình thức xuất
khẩu thích hợp:


* Xuất khẩu trực tiếp: Với hình thức này, hai bên xuất khẩu và nhập khẩu trực
tiếp giao dịch và ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá mà luật pháp cho phép. Trong
hình thức này không có sự xuất hiện của hình thức trung gian nào.

* Xuất khẩu uỷ thác: Hình thức này diễn ra khi một doanh nghiệp có hàng hoá
nhưng không được phép trực tiếp xuất khẩu hay không có điều kiện để tham gia.
Khi đó họ sẽ tiến hành uỷ thác cho một doanh nghiệp khác được phép trực tiếp xuất
khẩu mặt hàng đó làm nhiệm vụ xuất khẩu hàng hoá cho mình. Theo hình thức này,
quan hệ giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu thông qua một người thứ ba được
gọi là người trung gian.

* Xuất khẩu hàng hoá đối lưu: Đây là hình thức xuất khẩu đặc biệt mà người
bán cũng trở thành người mua. Lượng hàng hoá trao đổi có giá trị tương đương.
Hình thức xuất khẩu này không nhằm thu về một lượng ngoại tệ mà thu về một
lượng hàng hoá có giá trị bằng nhau.

Buôn bán đối lưu bao gồm các loại nghiệp vụ hàng đổi hàng, nghiệp vụ bù trừ,
nghiệp vụ mua đối lưu, nghiệp vụ chuyển giao nghĩa vụ, giao dịch bồi hoàn, nghiệp

vụ mua lại.

* Gia công xuất khẩu : Gia công quốc tế là phương thức kinh doanh mà một
bên được gọi là bên nhận gia công nhập nguyên liệu hay bán thành phẩm của một
bên khác được gọi là bên thuê gia công để chế tạo thành phẩm, rồi giao lại cho bên
đặt gia công và nhận thù lao ( gọi là phí gia công ).

* Tái xuất khẩu: Đây là hình thức xuất khẩu lại một số hàng hoá đã nhập khẩu.
Hàng hoá có thể qua hay không qua nước nhập khẩu mà được chuyển thẳng từ nơi
mua đến nơi nhập khẩu.


* Xuất khẩu theo nghị định thư: Hình thức này thường diễn ra theo các nghị
định thư được kí kết giữa hai chính phủ, và thường được dùng trong hoạt động trả
nợ.

3.2.3. Mục tiêu và chính sách giá.

Mục tiêu và chính sách định giá luôn đóng vai trò quan trọng trong kế hoạch
cũng như chiến lược xuất khẩu. Do đó mục tiêu cũng như chính sách giá luôn phải
được lựa chọn và xác định rõ ràng trong kế hoạch xuất khẩu. Tuỳ vào mục tiêu của
hoạt động xuất khẩu mà doanh nghiệp có thể chọn các chính sách định giá cho phù
hợp.

- Định giá nhằm đảm bảo mức thu nhập định trước.
- Định giá nhằm mục tiêu doanh số.
- Định giá nhằm mục tiêu xâm chiếm thị trường.
- Địng giá nhằm tối đa hoá lợi nhuận.
- Định giá nhằm mục tiêu cạnh tranh không mang tính giá cả.
- Định giá nhằm mục tiêu phát triển các phân đoạn thị trường.


4. Tổ chức thực hiện kế hoạch xuất khẩu.

4.1. Thu mua tạo nguồn hàng.

Quá trình thu mua tạo nguồn hàng ngày càng trở nên quan trọng đối với doanh
nghiệp xuất khẩu. Chủ động và tạo được nguồn hàng ổn định ảnh hưởng trực triếp
đến chất lượng của hàng hoá xuất khẩu, ảnh hưởng đến tiến độ giao hàng, đến việc
thực hiện hợp đồng xuất khẩu, và quan trọng hơn cả là uy tín, hiệu quả kinh tế của
doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Tuỳ theo tình hình của mình mà mỗi
doanh nghiệp có hình thức thu mua tạo nguồn hàng khác nhau như: thu mua tạo
nguồn mua hàng theo đơn đặt hàng và kí kết hợp đồng, thu mua tạo nguồn mua

hàng theo hợp đồng hay không theo hợp đồng, thông qua liên doanh, liên kết với
các đơn vị sản xuất, thông qua hệ thống đại lý thu mua, thông qua hàng đổi hàng.

Công tác thu mua, tạo nguồn hàng xuất khẩu là hệ thống những công việc
thống nhất bao gồm:

4.1.1. Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu.

Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu là việc nghiên cứu khả năng cung cấp hàng
hoá cho hoạt động xuất khẩu của các nguồn thực tế cũng như các nguồn hàng tiềm
năng. Bên cạnh đó, nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu còn nhằm xác định chủng loại
mặt hàng, mẫu mã, chất lượng, giá cả, thời vụ cũng như các đặc tính cá biệt khác
của hàng hoá đó. Ngoài ra, doanh nghiệp phải xác định được mặt hàng kinh doanh
có phù hợp và đáp ứng được nhu cầu của thị trường nước ngoài về các chỉ tiêu kinh
tế, kỹ thuật hay không?

Tất cả các công việc trên nhằm mục tiêu đảm bảo cho doanh nghiệp hạn chế

được rủi ro của thị trường, tiến hành khai thác ổn định nguồn hàng trong khoảng
thời gian hợp lý, làm cơ sở vững chắc cho việc kí kết cũng như trong quá trình thực
hiện hợp đồng.

4.1.2. Tổ chức hệ thống thu mua hàng xuất khẩu.

Việc xây dựng được một hệ thống thu mua hàng thông qua mạng lưới đại lý
chân hàng và chi nhánh của mình sẽ giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí
trong kinh doanh, đồng thời nâng cao được hiệu quả và năng suất thu mua. Hệ
thống thu mua bao gồm mạng lưới đại lý và hệ thống kho hàng ở các địa phương.
Hệ thống thu mua đòi hỏi phải gắn với các phương án vận chuyển, gắn với điều
kiện giao thông của địa phương.

4.2. Đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu.


4.2.1. Đàm phán.

Đàm phán là quá trình thương lượng, giao dịch các điều khoản trong hợp
đồng nhằm đi đến ký kết hợp đồng giữa các bên tham gia hoạt động xuất khẩu. Để
thực hiện tốt khâu này, người tham gia đàm phán phải kết hợp được sự hiểu biết và
kinh nghiệm.

Các hình thức của đàm phán trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu:

* Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp: Đàm phán bằng cách này có hiệu quả
nhất. Hai bên trực tiếp gặp gỡ, cùng thống nhất những điều khoản còn nhiều vướng
mắc. Nhưng hình thức này không thuận tiện cho những chủ thể ở cách xa nhau.

* Đàm phán thông qua thư tín: Đây là hình thức được sử dụng rộng rãi và phổ

biến nhất trong đàm phán do chi phí thấp và hiệu quả mang lại tương đối cao.

* Đàm phán thông qua điện thoại: Dùng trong những trường hợp thật cần thiết
do chi phí cao.

Đàm phán có các hình thức khác nhau nhưng thường tuân theo các bước sau:
Hỏi giá, chào hàng, đặt giá, hoàn giá, chấp nhận, xác nhận.

* Hỏi giá: Việc người mua yêu cầu người bán thông báo cho mình biết giá cả
và các điều kiện mua bán. Trong nội dung của hỏi giá, người mua đề nghị
người bán cung cấp cho mình: tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, thời
hạn giao hàng. Người mua thường nêu rõ những điều kiện mình mong muốn
để làm cơ sở cho việc định giá như: loại tiền, hình thức thanh toán, điều kiện
cơ sở giao hàng


*Chào hàng: Chào hàng là việc người bán thể hiện thiện chí bán hàng của
mình thông qua việc thông báo cho khách hàng: tên hàng, quy cách, phẩm
chất, giá cả, số lượng và các điều kiện khác. Chào hàng là hình thức phát
giá. Chào hàng có hai loại là chào hàng chủ động và chào hàng tự do.

* Hoàn giá: Khi người nhận được chào hàng không chấp nhận hoàn toàn chào
hàng, mà đưa ra một đề nghị mới thì thì đề nghị mới này là hoàn giá. Khi có
hoàn giá thì chào hàng trước đó coi như huỷ bỏ.

* Chấp nhận: Sự đồng ý hoàn toàn mọi điều khoản của chào hàng mà bên kia
đưa ra. Lúc này, hợp đồng được thành lập.

* Xác nhận: Văn kiện do bên mua hoặc bên bán đưa cho bên kia thể hiện sự
thống nhất với nhau về những điều khoản đã được thoả thuận. Xác nhận được

lập thành hai bản có chữ ký hai bên, mỗi bên giữ một bản.

4.2.2. Ký kết hợp đồng.

Sau khi nghiên cứu thị trường, tìm hiểu đối tác, đàm phán mọi điều kiện có
liên quan, doanh nghiệp xuất khẩu sẽ thự hiện bước tiếp theo là ký kết hợp đồng.
Hợp đồng ngoại thương được coi như là một thoả thuận bằng văn bản của các
đương sự có quốc tịch khác nhau, trong đó một bên ( bên xuất khẩu ) có nghĩa vụ
phải chuyển quyền sở hữu cho bên mua ( bên nhập khẩu ) một tài sản hàng hoá và
bên mua có trách nhiệm nhận hàng, trả tiền. Hợp đồng thể hiện dưới hình thức văn
bản là hình thức bắt buộc đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu, đây là hình thức
pháp lý tốt nhất được công nhận trong việc đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia
vào quá trình giao dịch. Bên cạnh đó, hợp đồng còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc
thống kê, quản lý, kiểm tra việc thực hiện hợp đồng theo quy định chung của nhà
nước.


Một hợp đồng xuất khẩu hàng hoá thông thường bao gồm những nội dung
chính sau:

+ Số hợp đồng.

+ ngày, tháng, năm và nơi ký kết hợp đồng.

+ Các điều khoản chính của hợp đồng:

* Điều 1: Tên hàng.

*Điều 2: Quy cách, phẩm chất.


* Điều 3: Số lượng.

* Điều 4: Giá cả ( đơn giá ), tổng giá trị.

* Điều 5: Điều kiện giao hàng, thời gian, địa điểm và phương tiện giao hàng.

* Điều 6: Điều kiện thanh toán.

* Điều 7: Bao bì, ký mã hiệu.

* Điều 8: Kiểm tra, giám định hàng hoá xuất khẩu.

* Điều 9: Trách nhiệm hai bên trong hợp đồng.

* Điều 10: Thủ tục giải quyết tranh chấp.

*Điều 11: Hiệu lực hợp đồng.


4.3. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu.

Sau khi hợp đồng đã được ký kết, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên được
thành lập, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu với tư cách là một bên ký kết tổ
chức thực hiện hợp đồng, tiến hành sắp xếp phần việc phải làm của mình. Các bước
thực hiện hợp đồng xuất khẩu:

* Kiểm tra L/C: Việc người xuất khẩu kiểm tra xem các điều khoản trong L/C
được mở bởi người nhập khẩu có đúng với nội dung của hợp đồng đã ký kết hay
không. Nếu có yêu cầu sửa đổi thì phải thông báo ngay cho bên người mua để sửa
lại.


* Xin giấy phép xuất khẩu: Đơn xin giấy phép bao gồm: Phiếu hạn ngạch ( nếu
là hàng có hạn ngạch ), bản sao hợp đồng, L/C và một số giấy tờ có liên quan.

* Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu: Người xuất khẩu phải tiến hành chuẩn bị hàng
hoá để xuất khẩu, công việc này gồm ba công đoạn chủ yếu sau:

+ Thu gom hàng tập trung thành lô xuất khẩu: Doanh nghiệp xuất khẩu tổ
chức thu mua hàng hoá bằng nhiều biện pháp khác nhau như mua nguyên liệu
về gia công, sản xuất thành hàng xuất khẩu, mua đứt bán đoạn với đơn vị sản
xuất hàng hoá, tổ chức đại lý thu mua hoặc nhận xuất khẩu uỷ thác.

+ Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu: Căn cứ theo yêu cầu của hợp đồng đã
ký. Bao bì vừa phải đảm bảo giữ được phẩm chất của hàng hoá vừa phải thuận
tiện cho việc bốc xếp, vận tải, phù hợp với mặt hàng và yêu cầu của hàng hoá
xuất khẩu.

+ Kẻ ký mã hiệu hàng hoá xuất khẩu: Những ký hiệu được ghi ở mặt ngoài
của bao bì để thông báo những thông tin cần thiết cho giao nhận, vận chuyển
bảo quản hàng hoá.


* Uỷ thác thuê tầu: Việc doanh nghiệp bán hàng có đứng ra thuê tầu hay không
phụ thuộc vaò điều khoản giao hàng đã thoả thuận trong hợp đồn. Việc thuê tầu
phải có hợp đồng giữa bên vận chuyển và bên thuê tầu.

* Kiểm nghiệm hàng hoá: Mọi hàng hoá xuất khẩu đều phải có giấy tờ chứng
nhận đã qua kiểm tra chất lượng. Việc kiểm tra hàng hoá phải được tiến hành qua
hai cấp: cấp cơ sở và cửa khẩu.


* Làm thủ tục hải quan: Đây là hình thức bắt buộc đối với mọi loại hàng hoá
xuất khẩu. Công tác này được tiến hành qua ba bước:

+ Bước 1: Khai báo hải quan. Bước này do chủ hàng thực hiện.

+ Bước 2: Xuất trình hàng hoá và nộp thuế.

+ Bước 3: Thực hiện các quyết định của Hải quan.

* Giao hàng lên tầu: Sau khi hàng hoá được kiểm tra, hàng được giao lên tầu
theo trình tự sau:

+ Căn cứ vào chi tiết hàng xuất khẩu lập bảng đăng ký hàng chuyên chở.

+ Xuất trình bảng đăng ký cho người chuyên chở để lấy hồ sơ xếp hàng.

+ Bố trí hàng vào cảng và tổ chức xếp hàng lên tầu.

+ Lấy biên lai thuyền phó sau khi xếp hàng lên tầu - đây là chứng nhận của
tầu vận chuyển về số hàng đã bốc lên tầu. Sau đó dùng biên lai này đổi lấy vận
đơn.


* Mua bảo hiểm: Việc mua bảo hiểm nhằm giảm thiệt hại cho hàng hóa khi có
rủi ro sảy ra. Việc xác định bên mua bảo hiểm và số tiền mua bảo hiểm tuỳ thuộc
vào điều kiện cơ sở giao hàng và điều khoản thanh toán.

* Làm thủ tục thanh toán: Thanh toán là công việc khó khăn và phức tạp nhất
trong việc thực hiện hợp đồng kinh tế. Hiệu quả trong kinh doanh xuất khẩu một
phần nhờ vào hoạt động thanh toán. Thanh toán trong hoạt động xuất khẩu phải chú

ý đến tỷ giá hối đoái, loại tiền thanh toán, thời hạn, phương thức, hình thức thanh
toán.

* Giải quyết tranh chấp: trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có khiếu nại
sảy ra, hai bên tuân thủ theo các điều khoản đã ký trong hợp đồng mà giải quyết.

5. Đánh giá hiệu quả của hoạt động xuất khẩu.

Sau khi kết thúc một hợp đồng xuất khẩu, để đánh giá kết quả cụ thể của một
hợp đồng, các nhà quản lý xuất khẩu phải trải qua khâu đánh giá nghiệm thu kết quả
hợp đồng. Qua bước đánh giá này, người ta sẽ xác định được chính xác kết quả thu
được: lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội Ngoài việc hạch toán lỗ lãi của quá trình kinh
doanh xuất khẩu, các nhà quản lý còn phải đánh giá về bạn hàng, thị trường hàng
hoá thế giới và đặc biệt là mối quan hệ tiếp theo giữa doanh nghiệp và bạn hàng.
Việc đánh giá kết quả hợp đồng sẽ mang lại cho doanh nghiệp nhiều kinh nghiệm
trong viẹc ký kết và thực hiện các hợp đồng mới.

Người ta thường sử dụng một số chỉ tiêu sau để đánh giá hiệu quả của hợp
đồng:

5.1. Chỉ tiêu lợi nhuận.


Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế có tính tổng hợp, phản ánh kết quả của hoạt động
sản xuất kinh doanh. Nó là tiền đề để duy trì và tái sản xuất mở rộng của doanh
nghiệp.

Lợi nhuận là phần dôi ra của doanh số so với chi phí:

P = DT - CP


Trong đó: P: lợi nhuận.
DT: tổng doanh thu.
CP: tổng chi phí.

5.2. Điểm hoà vốn.

Là điểm mà tổng doang thu bằng tổng chi phí kinh doanh. Nếu gọi X là số
lượng sản phẩm bán ra để hoà vốn thì:

X = F / ( P – T)

Trong đó:
F: chi phí cố định.
V: chi phí biến đổi.
P: Giá bán sản phẩm.

5.3. Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế.

Hiệu quả kinh tế của việc xuất khẩu được xác định thông qua việc so sánh số
lượng ngoại tệ mà hoạt động xuất khẩu ( giá trị quốc tế của hàng hoá) mang lại với
chi phí bỏ ra cho hoạt động sản xuất hàng hoá xuất khẩu ( giá trị dân tộc của hàng
hóa ). Chỉ tiêu này cho ta biết số thu ngoại tệ đối với chi phí trong nước.


H = DT / CP

Trong đó: H: hiệu quả tương đối của hoạt động xuất khẩu mang lại.
DT: tổng doang thu bằng ngoại tệ thông qua xuất khẩu.
CP: tổng chi phí sản xuất hàng hoá.


5.4. Chỉ tiêu doanh lợi xuất khẩu.

Doanh lợi xuất khẩu phản ánh kết quả tài chínhcủa hoạt động xuất khẩu, nghĩa
là nó phản ánh kết quả bằng tiền thu được và những chi phí bỏ ra cho những kết quả
đó. Giá tính doanh lợi đó được tính trên cơ sở giá hiện hành do đó về mặt lượng nó
không trùng hợp với những các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế xuất khẩu đã xem xét trước
đó.

D = T / C

Trong đó: D: doanh lợi xuất khẩu.
C: tổng chi phí cho xuất khẩu.
T: tổng thu nhập về bán hàng xuất khẩu.

III. Nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.

1. Các nhân tố khách quan.

Mỗi doanh nghiệp, công ty đều hoạt động trong một môi trường kinh doanh
nhất định. Môi trường kinh doanh tạo những tiền đề thuận lợi cho hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp nhưng môi trường kinh doanh không thuận lợi sẽ mang lại
cho doanh nghiệp không ít khó khăn
Sau đây là một số công cụ mà các quốc gia thường sử dụng để quản lý, hỗ trợ
cho hoạt động xuất khẩu của quốc gia mình.

×