Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Giải pháp phát triển thanh toán tín dụng chứng từ tại Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (Vibank)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.35 KB, 57 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Khoa Tài chính Ngân hàng
CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
• Vibank: Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam
• L/C: Thư tín dụng
• TDCT: Tín dụng chứng từ
• TMCP: Thương mại cổ phần
• NHNN: Ngân hàng Nhà Nước
• Vietcombank: Ngân hàng Ngoại Thương
• UCP: Quy tắc thống nhất và thực hành về tín dụng chứng từ
• SWIFT: Tổ chức viễn thông tài chính quốc tế toàn cầu
Nguyễn Thị Quỳnh Hương
1
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Khoa Tài chính Ngân hàng
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay trong xu thế quốc tế hoá toàn cầu của nhân loại, hoạt động giao
lưu kinh tế quốc tế ngày càng gia tăng mạnh mẽ và trở thành một nhân tố quan
trọng đối với mỗi quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới. Là một
nước nằm trong khu vực Đông Nam á - một khu vực có nền kinh tế sôi động thu
hút được nhiều sự quan tâm và đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã không ngừng
đổi mới mình để có thể tham gia vào tiến trình hợp tác quốc tế. Trong thời gian
qua, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam đã được Nhà Nước khuyến
khích hoạt động bằng cách đưa ra các chính sách đúng đắn, ưu đãi để hỗ trợ cho
hoạt động của họ. Và thực tế trong thời gian qua, các doanh nghiệp này đã và
đang hoạt động một cách tích cực, có hiệu quả. Điều này đã đóng góp rất lớn và
việc thúc đẩy, phát triển lĩnh vực thương mại quốc tế của Việt Nam. Trước tình
hình đó, các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng đang cố gắng hoàn thiện và
nâng cao các nghiệp vụ thanh toán quốc tế để hỗ trợ và đáp ứng nhu cầu xuất
nhập khẩu của khách hàng. Vibank tuy mới được thành lập từ 18/09/1996 nhưng
đã có khá nhiều kinh nghiệm trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Phương thức


thanh toán quốc tế được sử dụng chủ yếu ở nước ta là phương thức thanh toán
tín dụng chứng từ. Đây là một phương thức thanh toán bảo vệ quyền lợi bình
đẳng của các bên tham gia bởi tính ưu việt của nó. Do vậy, Việt Nam với hoạt
động ngoại thương còn non trẻ thì sử dụng phương thức này sẽ giúp bảo vệ được
lợi ích và tránh bị lừa gạt trong thương mại quốc tế. Nhận thức được tính phù
hợp và tầm quan trọng của thanh toán tín dụng chứng từ đối với hoạt động xuất
nhập khẩu của nước ta trong giai đoạn hiện nay, nên em chọn đề tài: “Giải pháp
phát triển thanh toán tín dụng chứng từ tại Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt
Nam (Vibank)” để phục vụ cho chuyên đề tốt nghiệp với mong muốn đóng góp
Nguyễn Thị Quỳnh Hương
2
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Khoa Tài chính Ngân hàng
một phần nhỏ bé vào việc nâng cao hiệu quả của thanh toán tín dụng chứng từ
tại Ngân hàng.
Kết cấu của chuyên đề: Ngoài lời mở đầu và kết luận, chuyên đề tốt
nghiệp gồm có 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về thanh toán quốc tế theo phương thức tín
dụng chứng từ của NHTM.
Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ tại Vibank.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển thanh toán tín dụng
chứng từ tại Vibank.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Hữu Tài và
sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ tại Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam
(Vibank) trong quá trình hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
Nguyễn Thị Quỳnh Hương
3
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Khoa Tài chính Ngân hàng
CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO
PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ CỦA NHTM
1.1 Khái quát chung về thanh toán quốc tế
1.1.1 Khái niệm thanh toán quốc tế
Trước xu thế hội nhập kinh tế thế giới, các quốc gia đều ra sức đẩy mạnh
hoạt động thương mại quốc tế của nước mình, dẫn đến nhu cầu thanh toán quốc
tế ngày càng gia tăng và phát triển.
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ tiền tệ, phát sinh trên cơ
sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức hay cá nhân nước này
với tổ chức hay cá nhân nước khác, hoặc giữa một quốc gia với một tổ chức
quốc tế, thường được thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nước liên
quan.
Do đó, phát triển thanh toán quốc tế sẽ tạo điều kiện mở rộng hoạt động
đối ngoại giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Khoảng cách xa về địa
lý giữa các quốc gia khiến cho phương thức “tay trao tay” khó có thể thực hiện
được giữa các bên xuất nhập khẩu trong quan hệ ngoại thương mà cần phải có
một trung gian đứng ra thay mặt cho mỗi bên thực hiện việc thanh toán và sẽ
được hưởng phí. Trung gian đó chính là các ngân hàng thương mại. Ngoài việc
đảm nhận nghiệp vụ thanh toán quốc tế, các ngân hàng còn là người tư vấn,
hướng dẫn và giải quyết các vướng mắc trong thanh toán cho khách hàng, đồng
thời đảm bảo cho việc thanh toán diễn ra nhanh gọn, tốn ít thời gian và đảm bảo
lợi ích cho cả hai bên xuất khẩu, nhập khẩu.
Nguyễn Thị Quỳnh Hương
4
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Khoa Tài chính Ngân hàng
1.1.2 Các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu
Trong thương mại quốc tế, phương thức thanh toán có một vị trí quan
trọng. Bởi nó là cơ sở để duy trì và phát triển quan hệ buôn bán quốc tế giữa các
nước. Và đặc biệt việc sử dụng phương thức thanh toán quốc tế nào sẽ quyết

định đến hiệu quả cũng như rủi ro mà các bên phải chịu. Trên thực tế có nhiều
phương thức thanh toán quốc tế khác nhau như phương thức ghi sổ, chuyển tiền,
nhờ thu, tín dụng chứng từ... Việc lựa chọn phương thức thanh toán nào là phụ
thuộc vào mức độ quan hệ giữa người mua và người bán, đặc điểm hàng hoá
cũng như sự biến động giá cả hàng hoá trên thị trường.
1.1.2.1Phương thức thanh toán chuyển tiền (Remittance)
Chuyển tiền là phương thức thanh toán trong đó khách hàng (ngưòi có
yêu cầu chuyển tiền) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình, chuyển một số tiền
nhất định cho một người khác (người thụ hưởng) ở một địa điểm nhất định
thông qua một phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu hoặc bằng
điện (T/T) hoặc bằng (M/T).
Chuyển tiền là một phương thức thanh toán quốc tế đơn giản nhất về thủ
tục và thực hiện nhanh chóng. Nó được áp dụng rất phổ biến ở các nước phát
triển bởi các ưu điểm: đơn giản, thuận lợi,, chi phí giao dịch thấp. Nhưng
phương thức này chỉ được sử dụng khi các bên trong quan hệ mua bán có sự
tin cậy lẫn nhau.
1.1.2.2Phương thức thanh toán nhờ thu (Collection of payment)
Nhờ thu là phương thức thanh toán trong đó người xuất khẩu sau khi hoàn
thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ cho khách hàng (người nhập
khẩu), uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền ở người nhập khẩu
trên cơ sở tờ hối phiếu do người xuất khẩu ký phát. Có hai loại nhờ thu: nhờ thu
trơn (clean collection) và nhờ thu kèm chứng từ (documentary collection)
Phương thức thanh toán Nhờ thu (collection payment) hoàn toàn dựa vào
sự tín nhiệm của các bên xuất, nhập khẩu. Thông thường người xuất khẩu không
có lợi nhiều, bởi vì việc thanh toán phụ thuộc vào người nhập khẩu. Ngân hàng
Nguyễn Thị Quỳnh Hương
5
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Khoa Tài chính Ngân hàng
chỉ thực hiện theo đúng chỉ thị trong nhờ thu của người xuất khẩu, không chịu

trách nhiệm về thanh toán tiền hàng.
1.1.2.3Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (Documentary credit)
Nếu như hai phương thức chuyển tiền và nhờ thu chỉ có thể được đảm bảo
thực hiện khi và chỉ khi các bên tham gia tín nhiệm nhau, thì phương thức thanh
toán tín dụng chứng từ vẫn có thể đảm bảo quyền lợi cho các bên ngay cả trong
trường hợp các bên mới giao dịch lần đầu và chưa tin tưởng lẫn nhau. Chính vì
vậy mà theo đánh giá của các nhà chuyên môn thì đây là phương thức thanh toán
thông dụng nhất, an toàn nhất trong thanh toán quốc tế. Sở dĩ như vậy là vì
thanh toán theo phương thức này có hiệu quả cao hơn do những quy định chặt
chẽ trong quy trình thanh toán làm cho quyền lợi và trách nhiệm của các bên
tham gia hợp đồng mua bán được thể hiện một cách bình đẳng, đồng thời sự
tham gia của các ngân hàng giúp cho hai bên xuất nhập khẩu được bảo vệ khỏi
những rủi ro có thể xảy ra. Hiện nay ở Việt Nam và các nước đang phát triển, tỷ
trọng thanh toán bằng L/C chiếm khoảng 80% trong tổng số kim ngạch hàng
hoá xuất nhập khẩu.
1.2 Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
1.2.1 Định nghĩa tín dụng chứng từ
Theo điều 2 của “Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ”
(The Uniform Custom and Practice for Documentary Credits – UCP No 500),
tín dụng chứng từ được định nghĩa như sau: “Theo điều khoản này, những thuật
ngữ “tín dụng chứng từ” và “thư tín dụng dự phòng” (dưới đây gọi là tín dụng),
có nghĩa là bất cứ một sự thoả thuận nào, cho dù được gọi tên hay được miêu tả
thế nào, theo đó một ngân hàng (ngân hàng phát hành) hành động theo yêu cầu
và theo chỉ thị của một khách hàng (người yêu cầu phát hành tín dụng) hoặc
nhân danh chính mình:
1. Phải thực hiện việc trả tiền theo lệnh của một người thứ ba (người thụ
hưởng), hoặc phải chấp nhận và trả tiền hối phiếu do người thụ hưởng ký
phát,
Nguyễn Thị Quỳnh Hương
6

Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Khoa Tài chính Ngân hàng
hoặc
2. Uỷ quyền cho ngân hàng khác thực hiện việc trả tiền như vậy, hoặc chấp
nhận và trả tiền hối phiếu đó
Hoặc
3. Uỷ quyền cho ngân hàng khác chiết khấu, dựa vào những chứng từ đã
được quy định đảm bảo rằng các điều khoản và điều kiện của tín dụng đã
được phù hợp.
Theo điều khoản này, các chi nhánh của một ngân hàng ở các nước khác
nhau được coi là ngân hàng khác.
Từ định nghĩa tín dụng chứng từ của UCP nêu trên, chúng ta có thể diễn
đạt theo một cách khác như sau:
Tín dụng chứng từ là một văn bản cam kết dùng trong thanh toán, trong
đó một ngân hàng (ngân hàng phát hành) theo yêu cầu của một khách hàng
(người yêu cầu mở thư tín dụng) sẽ trả tiền cho người thứ ba, hoặc trả cho bất cứ
người nào theo lệnh của người thứ ba (người thụ hưởng). Có thể chính ngân
hàng phát hành đứng ra trả tiền, chấp nhận, chiết khấu do người hưởng phát
hành; hoặc có thể ngân hàng phát hành uỷ quyền cho một ngân hàng khác trả
tiền, chấp nhận, chiết khấu hối phiếu đó khi người thụ hưởng (nhà xuất khẩu)
xuất trình được bộ chứng từ thanh toán phù hợp với quy định đã đề ra trong thư
tín dụng.
1.2.2 Các thành viên tham gia thanh toán tín dụng chứng từ
Trong quá trình thực hiện thanh toán tín dụng chứng từ, thông thường có
các bên tham gia như sau:
Người yêu cầu phát hành thư tín dụng (Applicant): là người mua hay người
nhập khẩu
− Ngân hàng phát hành(Issuing bank): là ngân hàng phục vụ người nhập
khẩu, sẽ phát hành thư tín dụng theo yêu cầu của người nhập khẩu.
− Người thụ hưởng(Beneficiary): là người xuất khẩu(người bán hàng) hay

bất cứ người nào khác mà người hưởng lợi chỉ định.
Nguyễn Thị Quỳnh Hương
7
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Khoa Tài chính Ngân hàng
− Ngân hàng thông báo (Advising Bank): là ngân hàng phục vụ nhà xuất
khẩu, là trung tâm giao dịch giữa ngân hàng mở và người hưởng lợi. Ngân
hàng này kiểm tra tính trung thự của thư tín dụng và thông báo nó cho
người hưởng lợi. Ngân hàng thông báo có thể là ngân hàng đại lý hoặc là
chi nhánh của ngân hàng phát hành ở nước người xuất khẩu.
Trên thực tế, ngoài các thành phần tham gia nêu trên thì tuỳ theo từng loại
thư tín dụng có thể xuất hiện thêm ột số ngân hàng khác trog quá trình thanh
toán như:
+ Ngân hàng xác nhận (Confirming Bank): là ngân hàng xác nhận trách
nhiệm của mình sẽ cùng ngân hàng đảm bảo việc trả tiền cho người
xuất khẩu, trong trường hợp ngân hàng phát hành không có khả năng
thanh toán.
+ Ngân hàng được chỉ định (Nominated Bank): là ngân hàng được chỉ
định trong thư tín dụng, cho phép ngân hàng đó thực hiện việc thanh
toán,chiết khấu hoặc chấp nhận bộ chứng từ của người thụ hưởng phù
hợp với quy định của tín dụng chứng từ.Tuỳ theo từng nhiệm vụ cụ thể
mà tên gọi của ngân hàng này có thể là:
+ Ngân hàng chỉ định thanh toán (Nominated Paying Bank).
+ Ngân hàng chỉ định chiết khấu (Nominated Negotiating Bank).
+ Ngân hàng chỉ định chấp nhận (Nominated Accepting Bank).
Trên thực tế, thông thường để giúp nhà xuất khẩu thuận tiện trong việc
nhận tiền hàng tại nước họ thì ngân hàng thông báo ngoài nghiệp vụ thông báo
ra còn làm ba nghiệp vụ trên: thanh toán, chấp nhận, chiết khấu.
− Ngân hàng bồi hoàn(Reimbursement Bank): là ngân hàng được ngân hàng
phát hành uỷ nhiệm thực hiện thanh toán giá trị tín dụng thư cho ngân

hàng được chỉ định thanh toán hoặc chiết khấu. Ngân hàng bồi hoàn
thường tham gia trong trường hợp giữa ngân hàng phát hành và ngân hàng
được chỉ định không có quan hệ tài khoản trực tiếp với nhau.
Nguyễn Thị Quỳnh Hương
8
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Khoa Tài chính Ngân hàng
1.2.3 Quy trình tóm tắt về ngiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ.
Trong thanh toán quốc tế, tuỳ từng trường hợp cụ thể, tuỳ vào yêu cầu của
người xin mở thư tín dụng và tuỳ vào sự uỷ nhiệm của ngân hàng mở thư tín
dụng mà trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ sẽ có sự tham gia của
bao nhiêu ngân hàng. Thông thường, theo tập quán quốc tế chỉ có hai ngân hàng
tham gia là: ngân hàng mở thư tín dụng và ngân hàng thông báo.

Nguyễn Thị Quỳnh Hương
9
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Khoa Tài chính Ngân hàng
Sơ đồ: Quy trình thực hiện nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ.



Trước hết người xuất khẩu và người nhập khẩu phải kí hợp đồng thương
mại, trong đó lựa chọn điều khoản thanh toán là tín dụng chứng từ.
(1) Người nhập khẩu căn cứ vào hợp đồng thương mại, viết đơn đề nghị mở
tín dụng thư cho người xuất khẩu hưởng, gửi tới ngân hàng phục vụ mình.
(2) Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu căn cứ vào đơn xin mở thư tín dụng ,
nếu đáp ứng các yêu cầu, ngân hàng sẽ phát hành thư tín dụng và thông
qua ngân hàng phục vụ người xuất khẩu để thông báo tới người thụ hưởng.
(3) Ngân hàng thông báo khi nhận được thư tín dụng sẽ khẩn trương thông báo,

chuyển giao thư tín dụng này cho người xuất khẩu.
(4) Người xuất khẩu nếu chấp nhận nội dung thư tín dụng đã mở thì tiến hành
giao hàng theo điều kiện hợp đồng.
(5) Sau khi đã hoàn thành việc giao hàng, người xuất khẩu tiến hành lập bộ
chứng từ thanh toán theo thư tín dụng, gửi tới ngân hàng phục vụ mình đề
nghị thanh toán.
Nguyễn Thị Quỳnh Hương
10
Ngân hàng thông báo
(Advising Bank)
Ngân hàng phát hành
(Issuing Bank )
Người xuất khẩu
(Beneficiary)
Người nhập khẩu
(Applicant)
(3)
(5)
(6)
(1) (9) (10)
(8)
(7)
(2)
(4)
Hợp đồng
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Khoa Tài chính Ngân hàng
(6) Ngân hàng thông báo dược chỉ định là ngân hàng thanh toán, sẽ tiến hành
kiểm tra bộ chứng từ do người hưởng lập, nếu thấy phù hợp với các điêu
khoản trong thư tín dụng thì tiến hành thanh toán cho người xuất khẩu(trả

tiền ngay hoặc chiết khấu truy đòi/miễn truy đòi).
(7) Sau khi đã thanh toán, ngân hàng chuyển bộ chứng sang ngân hàng phát
hành và đòi tiền.
(8) Ngân hàng phát hành kiểm tra bộ chứng từ , nếu đáp ứng những điều kiện
của thư tín dụng thì hoàn lại tiền cho ngân hàng đã thanh toán.
(9) Ngân hàng phát hành báo cho người nhập khẩu biết bộ chứng từ đã đến và
đề nghị họ làm thủ tục thanh toán.
(10)Người nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ, nếu phù hợp thì tiến hành trả tiền
hoặc chấp nhận trả tiền, lúc đó ngân hàng phát hành sẽ trao chứng từ để nhà
nhập khẩu đi nhận hàng. Trong trường hợp người nhập khẩu không thanh
toán, thì ngân hàng cũng không trao chứng từ cho họ.
1.2.4. Thư tín dụng (L/C) – công cụ quan trọng của phương thức thanh toán
tín dụng chứng từ.
1.2.4.1 Định nghĩa.
Thư tín dụng (letter of credit – L/C) là một văn bản(thư hoặc điện tín)do
ngân hàng phát hành mở ra, trên cơ sở yêu cầu của người nhập khẩu; trong đó
ngân hàng này cam kết trả tiền cho người thụ hưởng với điều kiện họ xuất trình
đầy đủ bộ chứng từ thnah toán phù hợp với nội dung của thư tín dụng.
Thư tín dụng là một phương tiện quan trọng của phương thức thanh toán
TDCT vì nó ràng buộc các thành phần tham gia như: người xuất khẩu, người
nhập khẩu, ngân hàng thông báo, ngân hàng phát hành...
1.2.4.2 Tính chất thư tín dụng
Thư tín dụng được ngân hàng phát hành lập ra trên cơ sở hợp đồng
thương mại được kí kết giữa hai bên xuất, nhập khẩu. Tuy nhiên, khi thư tín
dụng được mở thì trong quá trình hoạt động nó lại hoàn toàn dộc lập so với hợp
đồng thương mại. Bởi vì, khi thanh toán ngân hàng không dựa vào hàng hoá mà
Nguyễn Thị Quỳnh Hương
11
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Khoa Tài chính Ngân hàng

chỉ căn cứ vào việc kiểm tra bộ cứng tù phù hợp với các điều khoản của thư tín
dụng.
1.2.4.3 Các loại thư tín dụng
a. Thư tín dụng có thể huỷ ngang (Revocable L/C)
Thư tín dụng có thể huỷ ngang là loại thư tín dụng mặc dù đã được ngân
hàng phát hành ra và trong khi nhà xuất khẩu chuẩn bị giao hàng nhưng nó vẫn
có thể bị nhà nhập khẩu sửa đổi một số điều khoản của L/C hoặc huỷ bỏ toàn bộ
L/C mà không cần báo trước cho người thụ hưởng biết. Tuy nhiên, việc sửa đổi
hay huỷ bỏ L/C chỉ được thực hiện trước khi hàng hoá được rao hoặc vận đơn
chưa được chuyển nhượng. Loại thư tín dụng này không đảm bảo quyền lợi cho
người xuất khẩu. Vì vây, ngày nay hầu như nó không được sử dụng trong
thương mại quốc tế mà chỉ tồn tại trên lý thuyết.
b. Thư tín dụng không thể huỷ ngang (Irrevocable L/C)
Đây là loại thư tín dụng sau khi được phát hành, ngân hàng phaircam kết
thực hiện theo đúng những điều khoản của nó, không được tự ý sửa đổi, huỷ bỏ.
Tuy nhiên, thư tín dụng này vẫn có thể được bổ sung, sửa đổi khi có sự thoả
thuận nhất trí của các bên liên quan. Loại L/C này được sử dụng phổ biến nhất
trong thanh toán tín dụng chứng từ. Theo UCP No500 nếu không có ghi chú đặc
biệt về loại thư tín dụng muốn mở thì ngân hàng được quyền hiểu đó là thư tín
dụng không thể huỷ ngang.
c. Thư tín dụng không thể huỷ ngang có xác nhận (Confirmed Irrevocable L/C)
Đây là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang, được ột ngân hàng khác có
uy tín đảm bảo trả tiền cho người thụ hưởng, theo yêu cầu của ngân hàng phát
hành L/C đó. Trường hợp ngân hàng phát hành vì một lí do nào đó mà không
thanh toán được tiền thì ngân hàng xác nhận phải có trách nhiệm thanh toán
ngay. Do đó, ngân hàng xác nhận có quyền yêu cầu ngân hàng phát hành kí quỹ
theo tỉ lệ giá trị của thư tín dụng. Như vậy, có hai ngân hàng cùng cam kết trả
Nguyễn Thị Quỳnh Hương
12
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân

Khoa Tài chính Ngân hàng
tiền cho người xuất khẩu nên loại thư tín dụng này rất đảm bảo quyền lợi cho
người xuất khẩu.
d. Thư tín dụng không thể huỷ ngang miễn truy đòi (Irrevocable without
recourse L/C).
Là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang mà sau khi người thụ hưởng đã
được trả tiền, thì ngân hàng mở không có quyền đòi lại tiền trong bất cứ tình
huống nào.Khi sử dụng loại L/c này,người xuất khẩu phải ghi trên hối phiếu:
“Miễn truy đòi người kí phát”(Without recourse to drawers), đồng thời trong thư
tín dụng cũng phải ghi như vậy.
e. Thư tín dụng chuyển nhượng(Transferable L/C).
Là loại L/C không thể huỷ ngang trong đó cho phép người hưởng lợi đấu
tiên có thể yêu cầu ngân hàng trả tiền(ngân hàng phục vụ mình ) chuyển
nhượng toàn bộ hay một phần số tiền của L/C cho một hay nhiều người thụ
hưởng khác.L/C chuyên r nhượng chỉ được chuyển nhượng một lần, chi phí
chuyển nhượng do người hưởng lợi đàu tiên chịu.L/C này thường được áp dụng
trong thương mại quốc tế qua trung gian.
f. Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C).
L/C tuần hoàn là loại L/C không thể huỷ ngang có tinh chất tuần hoàn tức
là: sau khi sử dụng xong hoặc hết thời hạn hiệu lực thì nó lại tự động có giá trị
như cũ vá cứ nư vậy nó tuần hoàn đén khi nào tổng giá trị hợp đòng được thực
hiện. L/C tuần hoàn thường được dùng khi các bên tin cậy lẫn nhau, khi mua
hàng thường xuyên, định kì, khối lượng lớn và trong thời gian dài.
g. Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C).
Là loại L/C được mở trên cơ sở một L/C khác. Sau khi nhận được L/C(L/
C gốc) của ngân hàng nước ngoài phát hành ,người xuất khẩu sử dụng L/C này
để thế chấp mở một L/C khác cho người thụ hưởng khác với nội dung tương tự
như L/C ban đầu, L/C mở sau gọi là L/c giáp lưng. Đây là hai L/C có quan hệ
độc lập với nhau về số tiền, ngày giao hàng, loại tiền tệ và một số nội dung khác.
Nguyễn Thị Quỳnh Hương

13
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Khoa Tài chính Ngân hàng
h. Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C).
Là loại L/C chỉ bắt đầu có hiệu lực khi L/C kia đối ứng với nó đã mở
ra.Trong L/C ban đầu thường phải ghi L/C này chỉ có giá trị khi người hưởng lợi
đã mở một L/C đối ứng với nó để cho người mở hưởng và trong L/C đối ứng
phải ghi câu:”L/C này đối ứng với L/C số...mở ngày...qua ngân hàng”.
L/C đối ứng được sử dụng trong phương thức hàng đổi hàng, ngoài ra
không loại trừ khả năng dunngf trong phương thức gia công thương mại quốc tế.
i. Thư tín dụng dự phòng (Stand by L/C).
Là loại L/C được phát hành với mục tiêu nhằm trực tiếp bảo vệ quyền lợi
cho người nhập khẩu. Ngân hàng mở L/C dự phòng sẽ cam kết với người nhập
khẩu thanh toán lại cho họ trong trường hợp người xuất khẩu không hoan thành
nghĩa vụ giao hàng theo L/C đã đề ra. Thư tín dụng dự phòng không mang tính
chất là phương thức thanh toán hàng hoá xuất nhập khẩu, mà chỉ có tính chất là
phương thức đảm bảo cho việc giao hàng, thực hiện đúng hợp đồng.
j. Thư tín dụng thanh toán dần( Defered payment L/C).
Là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ, trong đó ngân hàng mở L/C hay
ngân hàng xác nhận L/C cam kết với người hưởng lợi sẽ thanh toán dần dần số
tiền của L/C trong những thời hạn quy định trong L/C đó.
k. Thư tín dụng điều khoản đỏ (Red clause L/C).
Đây là loại thư tín dụng có một điều khoản đặc biệt được viết bằng mực
đỏ trong đó thể hiện nội dung như sau: người nhập khẩu uỷ nhiệm cho ngân
hàng thông báo hoặc ngân hàng xác nhận ứng tiền trước cho người hưởng lợi
trước khi họ xuất trình chứng từ hàng hoá - điều này có nghĩa là mặc dù người
xuất khẩu chưa thực hiện nghĩa vụ giao hàng nhưng đã nhận được một khoản
tiền hàng ứng trước từ nhà nhập khẩu. Thực chất đây là loại thư tín dụng ứng
trước, nó được sử dụng như một phương tiện cấp vốn cho bên bán trước khi
giao hàng.

1.2.5 UCP – Văn bản pháp lý của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ.
Nguyễn Thị Quỳnh Hương
14
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Khoa Tài chính Ngân hàng
Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (Uniform customs
and Practice for Documentary Credits – gọi tắt là UCP).
Văn bản UCP do phòng thương mại quốc tế (International Chamber of
Commerce - ICC) soạn thảo và công bố lần đầu tiên vào năm 1933.Sau đó,
UCP đã trải qua năm lần sửa đổi vào cấc năm: 1951,1962,1974,1983 và lần cuối
cùng gần đây là bản sửa đổi tháng 10/1993, có hiệu lực từ 1/1/1994 ấn phẩm có
tên UCP 500. Nhưng các văn bản UCP ra đời sau không huỷ bỏ các văn bản ra
đời trước đó, cho nên 6 văn bản UCP ban hành vào các năm khác nhau đều có
gía trị thực hành thanh tóan quốc tế. Việc áp dụng văn bản UCP nào là do ý
nguyện của các bên quyết định và nhất thiết phải dẫn chiếu vào nội dung của thư
tín dụng(áp dụng UCP số hiệu nào).
UCP là văn kiện tập hợp toàn bộ những quy tắc và định nghĩa thống nhất
quốc tế, được trên 165 quốc gia công nhận và tuyên bố áp dụng trong đó có Vệt
Nam. Hiện nay ở Việt Nam, tất cả các ngân hàng thươngmại được phép hoạt
đọng nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại, khi tiến hành các giao dịch thanh toán
theo phương thức tín dụng chứng từ, đều có cam kết tuân thủ thực hiện văn bản
UCP hiện hành.
1.2.6 Bộ chứng từ trong thanh toán tín dụng chứng từ.
Trong thanh toán tín dụng chứng từ, bộ chứng từ có ý nghĩa vô cùng quan
trọng đối với các bên tham gia hoạt động xuất nhập khẩu theo phương thức này.
Đối với nhà xuất khẩu, bộ chứng từ chính là bằng chứng đã hoàn
thànhnghĩa vụ giao hàng và là cơ sở để được thanh toán và chiết khấu. Còn đối
với người nhập khẩu, cơ sở để nhận hàng và bằng chứng hoàn thành nghĩa vụ
thanh toán của mình cho nhà xuất khẩu cũng chính là bộ chứng từ. Ngoài ra, bộ
chứng từ còn là cơ sở để các ngân hàng có liên quan thực hiện các nghiệp vụ

thanh toán hoặc chiết khấu.
Theo ICC, bộ chứng từ thông thường được chia làm hai loại: chứng từ tài
chính và chứng từ thương mại.
1.2.6.1 Chứng từ tài chính (Financial Documents).
Nguyễn Thị Quỳnh Hương
15
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Khoa Tài chính Ngân hàng
Chứng từ tài chính: là những chứng từ có giá, được sử dụng làm phương
tiện thanh toán hàng hoá, dịch vụ. Bao gồm: hối phiếu, lệnh phiếu, séc...Trong
thương mại quốc tế, hối phiếu và séc được sử dụng rộng rãi phổ biến; còn lệnh
phiếu rất ít được dùng.
1.2.6.2 Chứng từ thương mại (Commercial Documents).
Chứng từ thương mại là các bằng chứng về hàng hoá, về vận tải và bảo
hiểm. Thông thường gồm các chứng từ dưới đây:
• Hoá đơn thương mại (Commercial Invoice)
• Bảng kê đóng gói (Packing list)
• Vận đơn đường biển (Ocean Bill of Lading – B/L)
• Chứng từ bảo hiểm: thường bao gồm hợp đồng bảo hiểm (Insurance
Policy) và giấy chứng nhận bảo hiểm (Insurance Certificate).
• Giấy chứng nhận xuất xứ (Certificate of Origin)
• Giấy chứng nhận chất lượng (Certificate of Quality)
1.2.7 Ưu nhược điểm của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ.
1.2.7.1 Ưu điểm.
Nếu như các phương thức thanh toán khác không giải quyết được mâu
thuẫn về lợi ích trong quan hệ giao dịch thương mại giữa người xuất khẩu và
người nhập khẩu: đó là người bán muốn bán hàng ngay, thu hồi vốn nhanh đảm
bảo an toàn trong thanh toán, giao hàng rồi nhưng e ngại về việc chậm thanh
toán hoặc không thanh toán; còn người mua lại muốn nhận được hàng trước khi
thanh toán, trả tiền hàng càng chậm càng tốt nhằm tận dụng vốn trong kinh

doanh, hoặc e ngại hàng hoá nhận được không đúng như yêu cầu của hợp đồng;
thì phương thức thanh toán chứng từ lại làm dung hoà được mâu thuẫn đó. Theo
phương thức này, biện pháp thoả hiệp giữa hai bên mua bán là việc thanh toán
sẽ được tiến hành sau khi giao hàng tượng trưng, tức là người xuất khẩu sẽ giao
các chứng từ di chuyển sở hữu hàng hoá cho người nhập khẩu. Bằng việc thanh
toán như vậy, mâu thuẫn giữa hai bên xuất nhập khẩu đã được giải quyết triệt
Nguyễn Thị Quỳnh Hương
16
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Khoa Tài chính Ngân hàng
để. Cũng vì thế mà phương thức thanh toán này đã đảm bảo được quyền lợi của
người mua và người bán.
Với người xuất khẩu, chính sự cam kết trả tiền trong L/C của ngân hàng
mở L/C với điều kiện người xuất khẩu xuất trình chứng từ phù hợp với quy định
của L/C là việc đảm bảo khả năng thu hồi tiền hàng của họ. Như vậy, rủi ro
trong thanh toán đối với người xuất khẩu là rất thấp, bởi lẽ họ sẽ được thanh
toán ngay cả khi người nhập khẩu mất khả năng thanh toán, trừ trường hợp là
ngân hàng phát hành L/C bị phá sản hoặc là gặp những rủi ro bất khả kháng như:
chiến tranh, động đất… (nhưng đây là trường hợp rất hiếm khi xảy ra ).
Còn với người nhập khẩu, họ chỉ phải trả tiền khi bên bán chứng minh
việc giao hàng bằng việc đã chuyển giao bộ chứng từ hàng hoá theo đúng quy
định trong L/C.Trong bộ chứng từ hàng hoá mà người xuất khẩu phải xuất trình,
ngoài các chứng từ như: hối phiếu, bảng kê, hoá đơn thương mại, là do người
xuất khẩu tự lập; còn các chứng từ khác như: chứng từ vận tải, bảo hiểm, giấy
chứng nhận xuất xứ, phẩm chất...là phải có sự xác nhận của các cơ quan khác.
Vì thế mà người xuất khẩu khó có thể làm giả các chứng từ được yêu cấu, cho
nên lợi ích của người nhập khẩu được đảm bảo. Hơn nữa, các chứng từ xuất
trình sẽ được kiểm tra bởi các chuyên gia ngân hàng cao cấp, có kinh nghiệm
lâu năm trong lĩnh vực thanh toán quốc tế. Chính nhờ sự giúp đỡ đó của các
ngân hàng mà ngưòi nhập khẩu có thể giảm bớt được rủi ro khi quan hệ thương

mại với đối tác nước ngoài.
Đối với các ngân hàng, khi tham gia phương thức thanh toán L/C, họ cũng
sẽ thu được những lợi ích của riêng mình đó là: thu được các khoản phí do các
bên trả và có thể huy động thêm các khoản tiền gửi(khi có kí quỹ) để thực hiện
các nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng khác, đồng thời thu hút được khách hàng
sử dụng các tiện ích ngân hàng khác, ngoài ra điều quan trọng là có thể nâng cao
được uy tín của ngân hàng trên thương trường quốc tế.
1.2.7.2 Nhược điểm.
Nguyễn Thị Quỳnh Hương
17
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Khoa Tài chính Ngân hàng
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm trên thì phương thức thanh toán L/C
còn có một số hạn chế nhất định như sau:
- Đối với người xuất khẩu: Thông thường, rủi ro xảy ra với người xuất
khẩu là khi người mua không thiện chí trong thanh toán do họ muốn từ chối
thanh toán tiền hàng, hoặc muốn kéo dài thời gian thanh toán vì tình hình tài
chính chưa sẵn sàng, hoặc do sự biến động trong thị hiếu tiêu dùng mặt hàng
đó...Người nhập khẩu gây khó khăn trong thanh toán bằng cách tìm ra những
điểm khác biệt rất nhỏ giữa các chứng từ do người xuất khẩu xuất trình so với
quy định của L/C. Bởi sự khác biệt dù là rất nhỏ giữa các chứng từ với nhau và
giữa chứng từ với L/C cũng là cớ hợp lệ để người nhập khẩu từ chối thanh toán
cho người xuất khẩu mặc dù hàng hoá đã được giao hoàn toàn đúng theo yêu
cầu của người mua.
- Đối với người nhập khẩu: Do việc thanh toán trong phương thức L/C
thường được thực hiện trước khi hàng hoá đến tay người nhập khẩu do vậy họ
thường bị rủi ro về hàng hoá như số lượng, phẩm chất, mẫu mã không đúng theo
yêu cầu của hợp đồng, hay nhập phải một loại hàng hoá khác không đúng như
thoả thuận, thậm chí có khi không có hàng hoá...Nguyên nhân của rủi ro này là
xuất từ việc ngân hàng chỉ có thể khống chế về mặt hình thức của các loại chứng

từ mà không thể kiểm soát được tính pháp lý hay tính xác thực của chúng, nên
ngân hàng không thể biết rõ trên thực tế hàng hoá giao có đúng theo quy định
hay không. Do đó, nếu người xuất khẩu không trung thực thì họ sẽ giao hàng
không đúng với đièu khoản ghi trong L/C nhưng sẽ tiến hành giả mạo chứng từ,
thay đổi chứng từ để có thể xuất trình được bộ chứng từ phù hợp về hình thức
theo đúng L/C đến ngân hàng. Và ngân hàng sẽ trả tiền cho người xuất khẩu dựa
vào việc kiểm tra bề mặt các chứng từ đó, trong khi không biết rằng hàng hoá
không được giao nhận theo đúng quy định. Do vậy rủi ro về hàng hoá đã xảy
đén với người nhập khẩu. Đây là điểm yếu rất lớn của phương thức thanh toán
tín dụng chứng từ. Vì thế để tránh rủi ro thì trước khi ký kết hợp đồng thương
Nguyễn Thị Quỳnh Hương
18
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Khoa Tài chính Ngân hàng
mại, người mua cần phải tìm hiểu kĩ thông tin về tài chính và uy tín của người
bán trên thương trường.
- Đối với ngân hàng phát hành L/C (Issuing Bank): Có thể gặp một số rủi
ro như: rủi ro về tỉ giá, rủi ro trong quá trình vận chuyển, rủi ro do nhà xuất khẩu
có hành vi lừa đảo...Nhưng trong đó rủi ro do nhà nhập khẩu mất khả năngthanh
toán hoặc bị phá sản là rủi ro gây thiệt hại nặng nề nhất cho ngân hàng mở, vì
ngân hàng mở buộc phải thanh toán cho người xuất khẩu trong khi không thể
thu hồi được vốn từ phía người nhập khẩu. Mức độ thiệt hại của ngân hàng sẽ tỉ
lệ nghịch với tỉ lệ % kí quỹ phát hành L/C mà ngân hàng yêu cầu nhà nhập khẩu
thực hiện khi mở L/C.
- Rủi ro đối với ngân hàng thông báo (Advising Bank): là khi ngân hàng
thiếu cẩn thận trong khi kiểm tra tính trung thực của L/C và dẫn đến thông báo
L/C giả cho khách hàng.
- Ngoài ra, còn có một số rủi ro xảy ra với các ngân hàng khác như: đối
với ngân hàng xác nhận có thể gặp rủi ro do không hiểu biết về uy tín tài chính
của ngân hàng mở, hay ngân hàng mở không thiện chí hoặc mất khả năng trong

thanh toán. Còn rủi ro với ngân hàng chiết khấu chứng từ có thể là rủi ro về các
nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, chiến tranh, đảo chính, khủng hoảng
kinh tế…, rủi ro do nhà nhập khẩu trì hoãn thanh toán hoặc từ chối bộ chứng từ,
rủi ro do ngân hàng mở phá sản...
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của hoạt động thanh
toán tín dụng chứng từ tại NHTM
1.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng
1.3.1.1. Nhóm nhân tố chủ quan
* Về phía ngân hàng: Với tư cách là chủ thể trung gian trong toàn bộ tiến
trình của hoạt động thanh toán quốc tế bằng L/C, rõ ràng, NHTM đóng vai trò
hết sức quan trọng đối với bản thân mỗi nghiệp vụ đơn lẻ, cũng như sự phát
triển của phương thức thanh toán L/C nói chung.
Nguyễn Thị Quỳnh Hương
19
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Khoa Tài chính Ngân hàng
Cơ cấu sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp là yếu tố hàng đầu, bởi
một lẽ đơn giản: nếu NHTM không triển khai phương thức thanh toán bằng L/
C, thì sẽ không có hoạt động thanh toán qua L/C. Điều này mang tính quyết
định căn bản không chỉ với phương thức tín dụng chứng từ, mà còn với hoạt
động thanh toán quốc tế nói chung mà L/C đã và đang trở thành một công cụ
phổ biến.
Nguồn nhân lực là yếu tố trung tâm của mọi quá trình, đồng thời có tác
động to lớn tới sự phát triển của hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ. Cho dù
công nghệ ngân hàng có được hiện đại hóa đến đâu, với sự tham gia sâu rộng
của máy móc, thiết bị, thì yếu tố nhân lực vẫn luôn giữ vai trò chủ đạo, đặt biệt
là trong tính đa dạng và phức tạp của thanh toán L/C.
Bản chất của thanh toán, là quan hệ giữa người mua và người bán. Vai trò
của NHTM trong mối quan hệ này, là nhằm giải đáp cho vấn đề đặt ra là sự tin
tưởng của các bên. Ngân hàng càng củng cố chất lượng hoạt động, mở rộng

màng lưới, quy mô, nâng cao uy tín, đó là tiền đề vững chắc cho hoạt động
thương mại quốc tế được mở rộng, và theo đó là sự phát triển của phương thức
thanh toán tín dụng chứng từ.
* Về phía khách hàng (nhà xuất, nhập khẩu): Với tư cách là chủ thể
trực tiếp tham gia vào hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ, khách hàng
(của ngân hàng) đóng vai trò quyết định tới bản thân sự phát triển của loại
hình dịch vụ này.
Một là, thói quen sử dụng phương thức thanh toán nhất định sẽ quyết
định, khách hàng có sử dụng công cụ thanh toán qua L/C hay không. Thông
thường, với tính chất phức tạp của thương mại quốc tế, thanh toán qua L/C vẫn
là lựa chọn hàng đầu, căn cứ vào quy mô và tầm quan trọng của mỗi giao dịch.
Hai là, sự thành công trong kinh doanh của bản thân khác hàng, là yếu tố
vững chắc đảm bảo cho sự thịnh vượng của hoạt động thương mại, mà tất yếu là
sự phát triển của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, bởi cơ sở cho thanh
toán, là hoạt động thương mại.
Nguyễn Thị Quỳnh Hương
20
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Khoa Tài chính Ngân hàng
1.3.1.2. Nhóm nhân tố khách quan
* Tốc độ tăng trưởng, phát triển kinh tế: Sức khỏe của nền kinh tế là
thước đo hiệu quả cho mọi hoạt động thương mại, đầu tư. Một khi nền kinh tế
đạt được tốc độ tăng trưởng cao, bền vững, thương mại quốc tế sẽ được thúc
đẩy, kéo theo sự gia tăng của tỉ trọng, giá trị, của thanh toán tín dụng chứng từ
(với tư cách là phương thức thanh toán phổ biến).
* Cơ cấu ngành: Một nền kinh tế quốc gia có cơ cấu ngành hướng ra xuất
khẩu, hoặc chịu ảnh hưởng của yếu tố hàng nhập, là khi hoạt động thanh toán tín
dụng chứng từ có điều kiện được đẩy mạnh.
* Hoạt động xuất nhập khẩu: Khác với mô hình kinh tế chỉ huy, khép kín;
một nền kinh tế vận hành theo quy luật thị trường, tất yếu đòi hỏi mối quan hệ

giao thương giữa các quốc gia. Mối quan hệ càng được đẩy mạnh, thì thanh toán
quốc tế cũng được mở rộng tương ứng, phương thức thanh toán L/C càng phát
triển mạnh mẽ.
* Tập quán thương mại quốc tế: Thông lệ trong thương mại quốc tế là
một yếu tố rất quan trọng, trực tiếp tác động tới việc lựa chọn phương thức
thanh toán. Một phương thức thanh toán được cho là tối ưu, nhưng không phù
hợp với tập quán của một hoặc các bên, thì cũng sẽ chưa chắc là phương thức
được lựa chọn.
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của thanh toán quốc tế theo phương
thức tín dụng chứng từ
1.3.2.1. Quy mô
Chỉ tiêu quy mô hoạt động thanh toán quốc tế theo L/C được thể hiện qua
các tiểu chỉ tiêu:
- Số lượng giao dịch được triển khai qua ngân hàng (tính theo tháng,
quý, năm)
- Giá trị trung bình mỗi giao dịch, tổng giá trị thanh toán
- Số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ; trung bình số lượng/giá trị giao
dịch trên mỗi khách hàng.
Nguyễn Thị Quỳnh Hương
21
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Khoa Tài chính Ngân hàng
1.3.2.2. Khách hàng
* Theo phương diện pháp lý
- Khách hàng thể nhân
- Khách hàng pháp nhân
* Theo tính chất
- Khách vãng lai
- Khách thường xuyên
* Theo quy mô

- Khách hàng lớn
- Khách hàng nhỏ
Nguyễn Thị Quỳnh Hương
22
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Khoa Tài chính Ngân hàng
1.3.2.3. Thị trường
- Tỉ trọng sử dụng phương thức L/C so với các phương thức khác
- Giá trị thanh toán qua L/C so với tổng giá trị thanh toán
1.3.2.4. Thu nhập
- Doanh thu dịch vụ thanh toán L/C/tổng doanh thu dịch vụ thanh toán
- Lợi nhận từ dịch vụ thanh toán L/C/tổng lợi nhận từ nghiệp vụ
thanh toán.
- Doanh thu/lợi nhuận bình quân.
Nguyễn Thị Quỳnh Hương
23
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Khoa Tài chính Ngân hàng
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN
TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI VIBANK
2.1 Tổng quan về Vibank.
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Vibank
Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (tên gọi tắt là Ngân hàng Quốc tế -
VIBank) được thành lập theo Quyết định số 22/QĐ/NH5 ngày 25/01/1996 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam. Cổ đông sang lập Ngân hàng Quốc
tế bao gồm Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và
phát triển Nông thôn Việt Nam, các cá nhân và doanh nhân thành đạt tại Việt
Nam và trên trường quốc tế.
Ngân hàng bắt đầu hoạt động từ ngày 18/09/1996. Trong quá trình hoạt

động, Ngân hàng Quốc tế luôn phát triển theo mục tiêu trở thành một trong
những tổ chức tài chính dẫn đầu thị trường Việt Nam. Là một ngân hàng đa
năng, với nền tảng công nghệ hiện đại, Ngân hàng Quốc tế tiếp tục cung cấp một
loạt dịch vụ tài chính đa dạng, trọn gói cho khách hàng với nòng cốt là những
doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động lành mạnh và những cá nhân, gia đình có
thu nhập ổn định tại các vùng kinh tế trọng điểm trên khắp cả nước.
Sau 9 năm hoạt động, tính từ thời điểm 18/09/1996 đến 31/12/2005, vốn
điều lệ của VIBank tăng từ 50 tỷ đồng lên 510 tỷ đồng, đạt tốc độ tăng trưởng
bình quân hàng năm là 113%. Tổng tài sản có đạt trên 8.967 tỷ đồng, tăng gấp 2
lần so với cuối năm 2004 và đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là
177%. Lợi nhuận trước thuế đạt trên 95 tỷ đồng, bằng 230% so với năm 2004.
Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn tự có bình quân đạt trên 20% và mức cổ tức chia cho
các Cổ đông tăng đều hàng năm. Tỷ lệ về khả năng chi trả luôn lớn hơn 1, tỷ lệ
an toàn vốn tối thiểu luôn lơn hơn 8%.
Nguyễn Thị Quỳnh Hương
24
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Khoa Tài chính Ngân hàng
Nguồn lực quản lý và hoạt động không ngừng được tăng cường với việc
bổ nhiệm nhiều chuyên gia giàu kinh nghiệm trong các lĩnh vực tài chính ngân
hàng và một đội ngũ chuyên viên kinh nghiệm, giàu nhiệt huyết. Hình ảnh của
Ngân hàng Quốc tế trong lòng công chúng và khách hàng được cải thiện đáng kể
bằng nhiều chương trình đổi mới và mở rộng năng lực phục vụ, tăng cường
quảng bá hình ảnh ngân hàng.
Ngân hàng Quốc tế được Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam xếp loại A theo
các tiêu chí đánh giá hệ thống Ngân hàng Việt Nam do Thống đốc Ngân hàng
Nhà Nước Việt Nam ban hành trong nhiều năm liên tiếp và lần thứ 2 được Tập
đoàn Citigroup trao tặng Danh hiệu Ngân hàng hoạt động thanh toán xuất sắc.
Hiện nay, mạng lưới hoạt động của Vibank tương đối rộng. Cuối năm
2005, ngoài Hội sở tại Hà Nội, Ngân hàng Quốc tế có 30 Chi nhánh, Phòng Giao

dịch tại 9 tỉnh, thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng
Ninh, Đà Nẵng, Nha Trang, Đồng Nai, Bình Dương và Cần Thơ. Trong năm
2006, Vibank sẽ tiếp tục vươn tầm hoạt động đến các trung tâm kinh tế mới và
nhiều tiềm năng khác trên phạm vi cả nước với tổng số đơn vị kinh doanh dự
kiến lên đến 60. Mạng lưới ngân hàng đại lý cũng không ngừng được mở rộng
với hơn 2.000 ngân hàng đại lý trên 65 quốc gia trên thế giới.
Với phương châm kinh doanh Luôn gia tăng giá trị cho bạn, cam kết của
Ngân hàng Quốc tế trong năm 2006 và những năm tiếp theo là không ngừng gia
tăng giá trị của khách hàng, của đối tác, của cán bộ nhân viên ngân hàng và của
các cổ đông.
Với mạng lưới chi nhánh từng bước được mở rộng, cùng với việc không
ngừng nâng cao chất lượng phục vụ, Ngân hàng Quốc tế đã dần nâng cao hình
ảnh thương hiệu và tích lũy được lòng tin của công chúng.
2.1.2 Một số nét chính về hoạt động của Vibank năm 2005.
Năm 2005 được nhìn nhận là năm then chốt với rất nhiều thay đổi lớn
trong hoạt động của Ngân hàng Quốc tế cả về chất lượng hoạt động lẫn kết quả
Nguyễn Thị Quỳnh Hương
25

×