Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Nâng cao chất lượng thẩm định TCDA tại ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (449.74 KB, 85 trang )

Luận văn tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Mức độ tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia, nếu xét ở sự đóng
góp của các yếu tố đầu vào đều phụ thuộc vào ba yếu tố. Đó là sự đóng
góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư, số lượng lao động và năng suất các
nhân tố tổng hợp (TFP). Theo số liệu thống kê trong những năm gần
đây, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dựa chủ yếu vào sự đóng góp của
yếu tố số lượng vốn đầu tư. Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP từ năm 2004
đến nay đều đã vượt qua mốc 40% (năm 2004 đạt 40,7%, năm 2005 đạt
40,9%, năm 2006 đạt 41%, ước năm 2007 đạt 40,4%), kế hoạch năm
2008 còn cao hơn, lên đến 42%. Lượng vốn này được đầu tư phần lớn
thông qua các dự án. Chính vì vậy việc cho vay theo dự án đầu tư đã và
đang đặt ra cho các NHTM nhiều cơ hội và thách thức.
Hoạt động cho vay theo dự án một mặt mang lại nguồn thu nhập
lớn cho các NHTM nhưng đồng thời lại chứa đựng rất nhiều rủi ro.
Chính vì vậy để đảm bảo an toàn trong hoạt động của mình thì các ngân
hàng cần phải tiến hành thẩm định dự án trước khi cho vay.
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội (SHB) tiền thân là NHTM cổ
phần Nông thôn Nhơn Ái, được thành lập vào cuối năm 1993 tuy nhiên
đến năm 2005, ngân hàng mới chuyển đổi thành ngân hàng TMCP đô
thị, đánh dấu mốc son quan trọng trong sự phát triển của ngân hàng. Bên
cạnh hoạt động cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, SHB đang
ngày càng trở nên năng động trong việc tiếp cận và tài trợ cho các dự
án.Tuy nhiên hiện nay chất lượng thẩm định TCDA tại Ngân hàng
TMCP Sài Gòn Hà Nội còn tồn tại nhiều bất cập và tiểm ẩn nhiều rủi ro
do nhiều nguyên nhân cả chủ quan và khách quan. Nhận thức được vấn
đề này trong quá trình tìm hiểu về hoạt động tín dụng tại “ Phòng khách
hàng doanh nghiệp – SHB”, em đã chọn đề tài “ Nâng cao chất lượng
Sinh Viên: Vũ Văn Hiếu Lớp: Tài Chính 46B
1
Luận văn tốt nghiệp


thẩm định TCDA tại ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội” làm đề tài
nghiên cứu để viết chuyên đề tốt nghiệp.
Kết cấu của bài viết bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về thẩm định TCDA đầu tư của
ngân hàng
Chương 2: Thực trạng chất lượng thẩm định TCDA đầu tư tại
ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định TCDA tại
ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo, TS. Hoàng Xuân Quế cùng các
thầy cô trong khoa “ Ngân hàng- Tài chính” đã tận tình hướng dẫn giúp em
làm tốt chuyên đề này. Em cũng xin cảm ơn lãnh đạo cùng tập thể cán bộ “
Phòng khách hàng doanh nghiệp” ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội đã
giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho em trong quá trình thực tập.
Tuy nhiên do điều kiện thời gian và trình độ còn có hạn nên chuyên đề
sẽ không tránh khỏi có những thiếu sót nhất định cần được bổ sung. Em rất
mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo, các anh chị tại ngân hàng
và các bạn để bài chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Sinh Viên: Vũ Văn Hiếu Lớp: Tài Chính 46B
2
Luận văn tốt nghiệp
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM
ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰA ÁN ĐẦU TƯ CỦA NGÂN HÀNG
1.1.Hoạt động cho vay theo dự án đầu tư của ngân hàng thương mại
1.1.1.Khái niệm về dự án đầu tư
Đầu tư là một hoạt động quan trọng của bất kỳ một chủ thể nào trong
nền kinh tế. Đó là hoạt động bỏ vốn ra với hy vọng đạt được lợi ích tài
chính, kinh tế xã hội trong tương lai. Ngày nay nhằm tối đa hóa hiệu quả
đầu tư, các hoạt động này đều được thực hiện theo dự án.

Đứng trên các quan điểm khác nhau, có thể có các khái niệm khác
nhau về dự án:
Theo quy định trong “ Quy chế đầu tư và xây dựng” của Chính phủ
ban hành ngày 08 tháng 07 năm 1999 thì “ Dự án đầu tư là một tập hợp
những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải
tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số
lượng hoặc duy trì, cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ
trong khoảng thời gian xác định (chỉ bao gồm các hoạt động đầu tư trực
tiếp)”
Theo từ điển về quản lý dự án AFNOR, dự án là hoạt động đặc thù tạo
nên một thực tế mới một cách có phương pháp với nguồn lực đã định.
Một cách tổng quát nhất, dự án có thể được hiểu là một tập hợp các
hoạt động đặc thù liên kết chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau nhằm đạt được
trong tương lai ý tưởng đã đặt ra (mục tiêu nhất định) với nguồn lực và thời
gian xác định.
Dự án có vai trò rất quan trọng đối với các chủ đầu tư, các nhà quản lý
và tác động trực tiếp tới quá trình phát triển kinh tế xã hội. Nếu không có
dự án, nền kinh tế sẽ khó nắm bắt được cơ hội phát triển.
Sinh Viên: Vũ Văn Hiếu Lớp: Tài Chính 46B
3
Luận văn tốt nghiệp
• Đối với chủ đầu tư: Dự án là căn cứ quan trọng để quyết định bỏ vốn
đầu tư, xây dựng kế hoạch đầu tư và theo dõi quá trình thực hiện dự
án.
• Đối với các nhà tài trợ: Dự án là căn cứ quan trọng để đánh giá khả
năng trả nợ của khách hàng, từ đó đưa ra các quyết định có nên tài trợ
hay không, và nếu tài trợ thì tài trợ ở mức độ nào.
• Đối với các nhà quản lý: Dự án là tài liệu quan trọng để để các cơ
quan chức năng của Nhà nước phê duyệt và cấp giấy phép đầu tư.
1.1.2.Đặc trưng của dự án đầu tư

Xuất phát từ khái niệm của dự án, có thể nhận biết các đặc trưng cơ
bản của dự án bao gồm:
• Dự án tồn tại trong một môi trường không chắc chắn
Môi trường triển khai dự án luôn luôn thay đổi, chứa đựng nhiều yếu
tố bất định nên rủi ro khi thực hiện dự án thường rất lớn. Điều này ảnh
hưởng rất lớn đến sự thành công của dự án và là mối quan tâm đặc biệt của
các nhà quản lý.
• Dự án bị khống chế bởi thời gian:
Là một tập hợp các hoạt động đặc thù nên dự án phải có thời gian kết
thúc. Mọi sự chậm trễ trong thực hiện dự án sẽ làm mất đi cơ hội phát triển,
kéo theo những bất lợi, tổn thất cho nhà đầu tư và cho nền kinh tế.
• Dự án chịu sự ràng buộc về nguồn lực:
Thông thường, các dự án bị ràng buộc về vốn, vật tư và lao động. Đối
với các dự án có quy mô càng lớn, mức độ ràng buộc về nguồn lực càng
cao và càng phức tạp; mọi quyết định liên quan đến các vấn đề nảy sinh
trong quá trình thực hiện dự án đều bị chi phối bởi nhiều mối quan hệ như
chủ đầu tư, các nhà tư vấn, các nhà thầu, các nhà tài trợ, các nhà kỹ thuật…
Xử lý tốt các ràng buộc này là yếu tố quan trọng góp phần đạt tới mục tiêu
của dự án.
Sinh Viên: Vũ Văn Hiếu Lớp: Tài Chính 46B
4
Luận văn tốt nghiệp
1.1.3.Phân loại dự án đầu tư:
Trên thực tế, các dự án rất đa dạng về cấp độ, loại hình, quy mô, thời
hạn và được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau, chẳng hạn:
- Phân loại theo thời gian, gồm dự án ngắn hạn, dự án trung hạn và dự
án dài hạn.
- Phân loại theo cấp độ, gồm dự án lớn và dự án nhỏ.
- Phân loại theo lĩnh vực dự án, gồm dự án xã hội, dự án kinh tế, dự án
tổ chức, dự án kỹ thuật, dự án hỗn hợp.

Đứng trên quan điểm NHTM - một nhà tài trợ dự án thì có thể phân
loại dự án thành ba loại chính là dự án mới, dự án đầu tư mở rộng và dự án
thay thế
• Dự án đầu tư mới: Đây là các dự án có mục tiêu tạo ra sản phẩm, dịch
vụ mới đưa vào thị trường. Dự án này được đầu tư toàn bộ từ nhà
xưởng, máy móc, thiết bị tới nguyên nhiên vật liệu…Vì vậy các dự án
này thường có quy mô lớn và thời gian dài.
• Dự án đầu tư mở rộng: Do hầu hết các sản phẩm hiện có cuối cùng
đều trở thành lỗi thời, tăng trưởng của một doanh nghiệp tùy thuộc
vào việc triển khai và tiếp thị các sản phẩm mới. Điều này dẫn đến
việc phát sinh các đề xuất đầu tư vào nghiên cứu phát triển, đầu tư
nghiên cứu thị trường, đầu tư tiếp thị sản phẩm và có thể ngay cả đầu
tư vào nhà máy, thiết bị và tài sản mới. Các dự án đầu tư mở rộng có
mục tiêu nhằm tăng cường năng lực sản xuất, cạnh tranh cho doanh
nghiệp.
• Các dự án thay thế: Nếu các sản phẩm trở nên lỗi thời theo thời gian,
thì nhà máy, tài sản thiết bị và các quy trình sản xuất cũng vậy. Việc
sử dụng thường xuyên làm hoạt động của các nhà máy lâu năm trở
nên tốn kém hơn do chi phí bảo trì cao hơn và thời gian ngừng làm
việc nhiều hơn. Hơn nữa việc triển khai các công nghệ mới làm cho
các thiết bị hiện hữu trở nên lỗi thời về mặt kinh tế. Các yếu tố này tạo
Sinh Viên: Vũ Văn Hiếu Lớp: Tài Chính 46B
5
Luận văn tốt nghiệp
nên cơ hội cho các đầu tư tiết giảm chi phí, bao gồm việc thay thế các
máy móc thiết bị cũ kỹ, lỗ thời bằng các máy móc thiết bị mới có năng
suất cao hơn.
1.2.Thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại
1.2.1.Khái niệm thẩm định tài chính dự án

Trong thực tế, một dự án dù được được lập rất chi tiết đều ít nhiều
mang tính chủ quan của người soản thảo. Chính vì vậy những khiếm
khuyết, lệch lạc tồn tại trong dự án là điều không tránh khỏi. Để khẳng định
một cách chắc chắn mức độ hợp lý và hiệu quả cũng như tính khả thi của
dự án trước khi quyết định đầu tư, các ngân hàng thường tiến hành rà soát,
kiểm tra lại một cách khoa học, khách quan và toàn diện mọi nội dung của
dự án và liên quan đến dự án. Công việc này được gọi là thẩm định dự án.
Hiện nay khi tiến hành thẩm định dự án, các ngân hàng thường xem
xét các nội dung chính sau:
• Thẩm định hồ sơ pháp lý, tình hình sản xuất kinh doanh của khách
hàng
• Thẩm định dự án đầu tư mới bao gồm:
- Thẩm định kỹ thuật của dự án
- Thẩm định kinh tế của dự án
- Thẩm định TCDA
Đối với các NHTM, một nội dung luôn được quan tâm và đặt lên hàng
đầu trong quá trình thẩm định dự án là thẩm định tài chính của dự án đầu
tư. Khi tiến hành thẩm định dự án đầu tư, điều mà các ngân hàng quan tâm
nhất là khả năng thu hồi đủ cả gốc và lãi của khoản tài trợ. Mà nguồn trả nợ
của dự án lại phụ thuộc chủ yếu vào khẳ năng sinh lãi của dự án đó. Chính
vì vậy có thể nói rằng, thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động
cho vay của các NHTM là một quá trình kiểm tra đánh giá lại toàn bộ các
Sinh Viên: Vũ Văn Hiếu Lớp: Tài Chính 46B
6
Luận văn tốt nghiệp
nội dung liên quan đến khía cạnh tài chính của dự án để xác định hiệu quả
tài chính, hay khả năng sinh lãi của dự án được xem xét.
1.2.2.Nội dung thẩm định tài chính dự án
1.2.2.1.Thẩm định tổng mức vốn đầu tư, cơ cấu nguồn vốn của dự án
 Tổng vốn đầu tư

Trong quá trình lập dự án, ngoài hạn chế về khả năng ước tính đầy đủ,
chính xác giá trị các khoản mục cần đầu tư, còn có hai xu hướng gây ra sai
lệch về tổng vốn đầu tư:
- Một là, dự tính mức vốn này quá thấp để tăng các chỉ tiêu phản ánh
hiệu quả nhằm thuyết phục các NHTM cấp vốn tài trợ cho dự án
- Hai là, dự tính quá cao để rút được nhiều vốn của NHTM
Cả hai xu hướng trên đều tác động tiêu cực đến tính khả thi và hiệu
quả hoạt động của dự án. Chính vì vậy, mục đích của thẩm định tổng vốn
đầu tư là nhằm xác định tổng vốn đầu tư sát với thực tế, tạo cơ sở để tính
toán hiệu quả tài chính và dự kiến khả năng trả nợ của dự án.
Tổng mức vốn đầu tư của dự án là giá trị của toàn bộ số tiền và tài sản
cần thiết để thiết lập và đưa dự án vào hoạt động
Tổng vốn
đầu tư
=
Vốn đầu tư
vào TSCĐ
+
Vốn đầu tư
vào TSLĐ
+
Vốn dự
phòng
Trong đó:
Vốn đầu tư vào TSCĐ, bao gồm các khoản chi phí như chi phí điều tra,
khảo sát để lập, trình duyệt dự án, chi phí tư vấn, thiết kế dự án; giá trị máy
móc thiết bị, nhà xưởng sẵn có, chi phí mua máy móc thiết bị, phương tiện
vận tải mới (gồm cả chi phí vận chuyển, lắp đặt chạy thử) và các chi phí
khác.
Khoản mục chi phí này thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn

đầu tư. Do vậy, cần kiểm soát chặt chẽ bằng cách chi tiết hóa các khoản
Sinh Viên: Vũ Văn Hiếu Lớp: Tài Chính 46B
7
Luận văn tốt nghiệp
mục, tham khảo các dự án cùng loại đã từng được thực hiện, ý kiến các
chuyên gia tư vấn về xây dựng và công nghệ, giá cả trên thị trường.
Vốn đầu tư vào TSLĐ ban đầu: là giá trị các TSLĐ ban đầu cần thiết
để đảm bảo cho dự án có thể đi vào hoạt động bình thường theo các điều
kiện kinh tế - kỹ thuật dự tính, bao gồm các khoản dự trữ (tiền mặt, hàng
hóa) các khoản phải thu và trả trước. Lượng vốn đầu tư vào TSLĐ ban đầu
thường không lớn song nếu không dự tính huy động nguồn vốn dài hạn để
tài trợ, các dựa án sẽ phải huy động nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ và như
vậy rất bị động khi đến hạn trả.
Vốn dự phòng: là lượng vốn để đề phòng phát sinh thêm chi phí đầu tư
so với dự tính. Trong thời gian dài hạn, giá cả có thể thay đổi, tỷ giá hối
đoái biến động…Khi đó vốn dự phòng sẽ được dùng để đáp ứng nhu cầu
nhanh chóng nhu cầu chi, đảm bảo tiến độ thự hiện dự án. Lượng vốn này
thường chiếm từ 1% đến 5% tổng vốn đầu tư, tùy thuộc vào quy mô của dự
án và độ biến động của các biến số chính.
 Thẩm định cơ cấu nguồn vốn của dự án
Một dự án có thể được tài trợ từ nhiều nguồn khác nhau. Ngân hàng
cần thẩm định tính khả thi của từng nguồn vốn đó để làm căn cứ xác định
mức cho vay của ngân hàng
Số tiền tài trợ =
Tổng vốn đầu tư
của dự án
-
Các nguồn tài trợ
cho dự án
Hơn thế nữa trong quá trình thẩm định, việc xác định dòng tiền và lựa

chọn lãi suất chiết khấu không thể được tiến hành một cách biệt lập với
phân tích bản chất của phương thức tài trợ. Hay nói cách khác, phương
thức tài trợ cho dự án sẽ chi phối việc xác định dòng tiền phù hợp cũng như
lựa chọn lãi suất chiết khấu hợp lý để xác định NPV của dự án. Vì vậy việc
thẩm định cơ cấu nguồn vốn của dự án có ý nghĩa rất quan trọng ảnh hưởng
tới việc xác định chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính của dự án
Sinh Viên: Vũ Văn Hiếu Lớp: Tài Chính 46B
8
Luận văn tốt nghiệp
Thông thường một dự án có thể được tài trợ từ các nguồn sau:
• Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp: nguồn vốn này của doanh nghiệp có
thể được hình thành từ phát hành cổ phiếu thường mới, từ nguồn thặng
dư vốn hay từ nguồn thu nhập giữ lại của doanh nghiệp. Do đó ngân
hàng cần phải kiểm tra, đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, từ đó xác định phần vốn chủ sở hữu tài trợ cho dự án.
• Nguồn vốn ngân sách cấp
• Nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác
Nhằm đảm bảo tiến độ thực hiện dự án đầu tư, đồng thời tránh tình
trạng ứ đọng vốn, các nguồn tài trợ khác nhau cần được đảm bảo trên cơ sở
thực tế hoặc có sự cam kết bằng văn bản của các nhà cung cấp vốn, như các
báo cáo tài chính chứng minh khả năng tài chính cũng như khả năng tích
lũy và sử dụng vốn tự có của chủ đầu tư, cam kết cấp vốn của các cơ quan
có thẩm quyền hay của các ngân hàng đồng tài trợ…Bên cạnh đó, cần có kế
hoạch huy động vốn cụ thể, trong đó chỉ rõ tiến độ và số lượng cần thiết để
đáp ứng nhu cầu trong từng giai đoạn thực hiện dự án
1.2.2.2.Thẩm định về dự trù doanh thu, chi phí của dự án
 Phân tích doanh thu:
Doanh thu của dự án được tính hàng năm và bao gồm các khoản phát
sinh từ việc vận hành TSCĐ được đầu tư bởi dự án:
• Doanh thu từ sản phẩm chính, doanh thu từ sản phẩm phụ

• Dich vụ cung cấp cho bên ngoài
Để đảm bảo tính hợp lý và chính xác của doanh thu, trong quá trình
thẩm định cần xem xét kiểm tra hai yếu tố là giá bán và sản lượng sản xuất
hàng năm:
- Để đơn giản trong quá trình tính toán và lập dự án, giá bán thường
được giả định là không đổi trong suốt thời gian tồn tại của dự án. Tuy
nhiên nếu sản phẩm rất nhạy cảm với các biến động của thị trường
Sinh Viên: Vũ Văn Hiếu Lớp: Tài Chính 46B
9
Luận văn tốt nghiệp
hoặc chịu áp lực cạnh tranh lớn thì cần có sự thay dổi giá bán qua các
năm, hoặc xếp hạng mức độ rủi ro cao hơn khi lựa chọn dự án.
- Sản lượng sản xuất tính theo % của công suất thiết kế, tăng dần qua
các năm và đạt mức 100% khi sản xuất đi vào ổn định. Vì vậy khi tiến
hành thẩm định, ngân hàng phải kiểm tra lại các thông tin để điều
chỉnh tỷ lệ % cho phù hợp
 Phân tích chi phí:
Khi thẩm định chi phí của dự án, ngân hàng thường căn cứ vào kế
hoạch sản xuất, kế hoạch khấu hao, kế hoạch trả nợ, chi phí hoạt động, bao
gồm các khoản mục sau:
• Chi phí mua nguyên vật liệu gồm nguyên vật liệu chính, vật liệu bao
bì, nửa thành phẩm và dịch vụ mua ngoài, nhiên liệu, năng lượng…
• Chi phí tiền lương, bảo hiểm xã hội, chi phí bảo dưỡng máy móc thiết
bị, nhà xưởng
• Khấu hao, bao gồm chi phí chuẩn bị, máy móc thiết bị, dụng cụ,
phương tiện vận tải, nhà xưởng và cấu trúc hạ tầng, chi phí ban đầu về
quyền sử dụng đất
• Chi phí quản lý phân xưởng, quản lý doanh nghiệp
• Chi phí bảo hiểm tài sản, chi phí tiêu thụ sản phẩm, lãi vay và các chi
phí khác…

Các chi phí biến đổi như nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng…
được tính theo sản lượng sản xuất và định mức tiêu hao. Chính vì vậy khi
tiến hành thẩm định, ngân hàng cần kiểm tra lại định mức tiêu hao qua tình
hình thực tế của các dự án cùng loại hoặc tiêu chuẩn của ngành. Trường
hợp các sản phẩm của dự án là những sản phẩm mới chưa từng được sản
xuất trong nước thì cần có sự tư vấn của các chuyên gia kỹ thuật trong
ngành và đánh giá rủi ro của dự án ở mức độ cao hơn.
Sinh Viên: Vũ Văn Hiếu Lớp: Tài Chính 46B
10
Luận văn tốt nghiệp
Khi tính khấu hao, doanh nghiệp cũng như ngân hàng cần phải tuân
thủ các quy định về phương pháp khấu hao của Bộ tài chính, và phải đảm
bảo tổng mức khấu hao hàng năm phải bằng nguyên giá TSCĐ
Chi phí lãi vay của dự án được tính dựa trên kế hoạch vay và trả nợ
đối với các nguồn huy động từ bên ngoài. Ngân hàng cần kiểm tra lại cách
tính trả lãi và gốc cho phù hợp với thông lệ của mình.
1.2.2.3.Thẩm định dòng tiền của dự án
Dòng tiền của dự án được định nghĩa là phần chênh lệch trong dòng
tiền của doanh nghiệp trong giai đoạn mà dự án được thực hiện so với lúc
không thực hiện dự án
Dòng tiền
của dự án
=
Dòng tiền của
doanh nghiệp
nếu có dự án
-
Dòng tiền của
doanh nghiệp nếu
không có dự án

Trong thực tế việc tính toán so sánh dòng tiền khi có và không có dự
án là rất phức tạp, đặc biệt đối với những doanh nghiệp lớn. Tuy nhiên việc
tính toán đó không phải bao giờ cũng cần thiết nếu chúng ta tuân theo
“nguyên lý tính độc lập”. Nguyên lý này cho rằng chúng ta có thể nhìn
nhận dự án đó như là một doanh nghiệp nhỏ với doanh thu, chi phí, tài sản
và tất nhiên là các dòng tiền của nó. Vì vậy khi xác định tác động của một
dự án đề nghị đối với dòng tiền của doanh nghiệp, chúng ta chỉ cần tập
trung vào dòng tiền chênh lệch là kết quả của dự án.
Từ đó có thể hiểu dòng tiền của một dự án được hiểu là các khoản
chi và thu được kỳ vọng xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau trong
suốt chu kỳ của dự án. Và nếu chúng ta lấy toàn bộ khoản tiền thu được trừ
đi khoản tiền chi ra thì chúng ta sẽ xác định được dòng tiền ròng tại các
mốc thời gian khác nhau của dự án.
Dòng tiền của dự án được cấu thành bởi ba bộ phận là :
Sinh Viên: Vũ Văn Hiếu Lớp: Tài Chính 46B
11
Luận văn tốt nghiệp
• Dòng tiền đầu tư bao gồm chi phí mua sắm tài sản cố định và lắp đặt
và đầu tư vào vốn lưu động ròng (nếu có). Dòng tiền đầu tư được xem
là dòng tiền ra của dự án (COF)
• Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh. Có các phương pháp khác nhau
trong việc xác định dòng tiền từ hoạt động kinh doanh, song cùng
mang lại một kết quả giống nhau
Theo phương pháp từ dưới lên, xuất phát từ lợi nhuận ròng cộng khấu
hao ta được dòng tiền ròng từ hoạt động kinh doanh
Theo phương pháp từ trên xuống, xuất phát từ doanh thu, trừ đi các
khoản chi phí và thuế ta được dòng tiền từ hoạt động kinh doanh của dự án
Theo phương pháp tiết kiệm nhờ thuế
Dòng tiền = (Doanh thu – Chi phí ) * ( 1- T) + Khấu hao * T
• Dòng tiền thu hồi sau đầu tư: gồm thu hồi vốn lưu động ròng và thu

hồi từ thanh lý tài sản cố định
Khi sản xuất mở rộng thì những khoản phả trả cũng tăng lên, làm
giảm nhu cầu tài trợ cho dự án. Phần chênh lệch giữa lượng tăng thêm về
TSLĐ và về nợ ngắn hạn thường là dương và do đó đòi hỏi phải có thêm
tiền đầu tư vào phần này, ngoài tiền đầu tư vào TSCĐ. Phần chênh lệch này
gọi là vốn lưu động ròng.
Khi dự án kết thúc, lượng TSLĐ dự trữ này cũng được thanh lý để thu
tiền về. Do tính chất của TSLĐ là tương đối dễ bán nên để thuận tiện trong
quá trình phân tích, giá trị thu hồi thường được giả định là đúng bằng số
tiền đã chi ra và được thu hồi khi dự án kết thúc.
Đối với các dự án khi kết thúc hoạt động phần lớn đều có giá trị thanh
lý TSCĐ. Các phương tiện, thiết bị sản xuất, nhà xưởng khi dự án kết thúc
còn có một giá trị thị trường nhất định. Khi chúng được bán sẽ xuất hiện
một dòng tiền cuối dự án. Dòng tiền này cùng với dòng tiền khác ở trên
hợp thành dòng tiền ròng của dự án. Dòng tiền xuất hiện do bán TSCĐ phụ
thuộc vào giá bán và giá trị còn lại theo sổ sách của chúng.
Sinh Viên: Vũ Văn Hiếu Lớp: Tài Chính 46B
12
Luận văn tốt nghiệp
Nếu gọi S là giá bán, B là giá trị còn lại theo sổ sách của TSC Đ, T là
tỷ lệ thuế thu nhập doanh nghiêp, khi đó thuế đánh vào khoản lãi do bán
TSC Đ hay khoản thuế tiết kiệm được (mang dấu âm ) sẽ là (S – B )*T và
khi đó dòng tiền sau thuế là S – (S-B)*T
Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh và dòng tiền thu hồi sau đầu tư tạo
thành dòng tiền vào của dự án (CIF)
Chênh lệch giữa dòng tiền ra và dòng tiền vào của dự án tạo nên dòng
tiền ròng của dự án, là cơ sở để tính hiệu quả kinh tế của dự án
NCF = CIF – COF
Đây là ba bộ phận cơ bản để xác định dòng tiền của dự án. Tuy nhiên
đứng trên các góc độ khác nhau thì dòng tiền dự án có thể có những thay

đổi nhất định. Chẳng hạn nếu trên quan điểm của chủ đầu tư (trường hợp
dự án được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu và vốn vay, chủ đầu tư trả gốc theo
niên kim cố định)
Dòng tiền dự án = LNST + Khấu hao – Trả gốc hàng năm
Còn trên quan điểm của ngân hàng thì
Dòng tiền dự án = LNST + Khấu hao + Lãi vay
Khi xem xét dự án, cần phải dựa trên dòng tiền gia tăng, phát sinh trực
tiếp từ dự án. Do đó khi tính toán dòng tiền cần phải chú ý tới một số các
dòng tiền đặc biệt sau:
• Chi phí chìm:
Chi phí chìm không phải là chi phí tăng thêm lên không được đưa vào
phân tích. Chi phí chìm là một khoản đầu tư đã được thực hiện ( hoặc được
cam kết) trước đó. Nó không bị ảnh hưởng bởi quyết định lựa chọn hoặc
loại bỏ dự án.
Chẳng hạn một doanh nghiệp thuê một công ty tư vấn thực hiện việc
phân tích dự án lắp đặt một dây chuyền sản xuất nước ngọt, thì chi phí tư
vấn ở đây chính là chi phí chìm, nó phải được trả bất luận dự án có được
Sinh Viên: Vũ Văn Hiếu Lớp: Tài Chính 46B
13
Luận văn tốt nghiệp
chấp thuận hay không. Vì thế chi phí tư vấn không được bao hàm trong
phân tích.
• Chi phí cơ hội
Chi phí cơ hội thể hiện một cơ hội ( hoặc một chuỗi khoản thu nhập)
bị mất đi nếu sử dụng những tài sản sẵn có vào dự án đang xem xét. Chi
phí cơ hội cần được đưa vào dòng tiền của dự án
Ví dụ một công ty đang có sẵn một mảnh đất có thể đưa vào sử dụng
để xây nhà máy. Khi đánh giá hiệu quả của nhà máy, có nên bỏ qua chi phí
đất đai không vì dự án không phải chi tiền ? Câu trả lời là không. Cơ hội đó
là một mảnh đất có thể được bán đi với giá 10 tỷ đồng. Cần chú ý là chi phí

đất đai phù hợp ở đây là giá thị trường của mảnh đất sau khi đã trừ đi phí
và thuế phải nộp chứ không phải là giá mà công ty đã bỏ ra để mua mảnh
đất đấy.
• Xem xét tác động phụ
Cần nhớ rằng dòng tiền gia tăng của dự án bao gồm tất cả các thay đổi
dòng tiền của doanh nghiệp được gây ra bởi việc thực hiện dự án. Trong
nhiều trường hợp việc chấp nhận dựa án có thể gây ra những tác động phụ,
kể cả tốt và xấu đối với dòng tiền của doanh nghiệp. Tác động phụ nổi bật
nhất là sự xói mòn. Xói mòn bắt nguồn từ những dự án hiện tại của doanh
nghiệp.
Ví dụ việc doanh nghiệp chấp nhận một dự án sản xuất sản phẩm mới
mới có thể làm giảm dòng tiền thu hiện tại do khách hàng chuyển sang mua
mặt hàng mới có cùng công dụng. Trong trường hợp này, xác định dòng
tiền của dự án mới cần tính đến sự sụt giảm của dòng tiền bán sản phẩm
hiện tại.
1.2.2.4.Thẩm định lãi suất chiết khấu
Đầu tư đòi hỏi phải bỏ ra những khoản chi phí để kỳ vọng đem lại
những khoản thu nhập, nhưng thu nhập và chi phí này thường không phát
sinh tại cùng một thời điểm. Do giá trị thời gian của tiền, phải quy đổi
Sinh Viên: Vũ Văn Hiếu Lớp: Tài Chính 46B
14
Luận văn tốt nghiệp
chúng về cùng một thời điểm (thường là hiện tại ) để so sánh và đánh giá
khẳ năng sinh lời của một khoản đầu tư. Việc quy đổi này cho thấy những
khoản thu nhập trong tương lai có bù đắp được sự hy sinh của chủ sở hữu
tiền tệ khi đầu tư (hay bù đắp được chi phí vốn) và đem lại lợi nhuận nào
đó hay không. Khi đó cần có một lãi suất, gọi là lãi suất chiết khấu để quy
đổi những khoản tiền trong tương lai về hiện tại.
Một lãi suất chiết khấu được coi là phù hợp khi nó phản ánh chính xác
chi phí vốn, hay sự giảm giá trị của tiền qua thời gian. Nói cách khác, nó là

tỷ suất lợi nhuận tối thiểu để bù đắp những lợi ích mà chủ sở hữu tiền tệ
mất đi do chi phí cơ hội, lạm phát và rủi ro
Một cách đơn giản nhất, lãi suất chiết khấu được tính theo công thức:
Lãi suất
chiết khấu
=
% bù đắp chi
phí cơ hội
+ % lạm phát
+

% bù đắp rủi ro
Tại một thời điểm nhất định, có thể sử dụng cùng một công cụ nào đó
để đo lường hai yếu tố đầu tiên cấu thành lãi suất chiết khấu của mọi dự án.
Trên thị trường tài chính, công cụ hay được sử dụng là lãi suất trái phiếu
kho bạc hay lãi suất tiền gửi tiết kiệm của ngân hàng quốc doanh do nó
phản ánh lợi tức cơ hội mất đi với mọi nhà đầu tư khi chọn một dự án
khác. Trong lãi suất này đã bao hàm phần bù sự mất giá của tiền tệ do lạm
phát. Tuy nhiên đây là một lãi suất phi rủi ro (về lý thuyết, trong lãi suất
tiền gửi tiết kiệm của các NHTM có phần bù đắp rủi ro, nhưng rủi ro của
các NHTM quốc doanh gần như bằng 0 do có sự bảo lãnh ngầm của nhà
nước). Trong khi đó các dự án khác nhau với độ rủi ro khác nhau cần có
những mức bù đắp khác nhau. Do đó cần cộng them vào đó một tỷ lệ %
nhất định để phản ánh phần lợi ích bị mất đi của chủ đầu tư do rủi ro
Lãi suất
chiết khấu
=
Lãi suất trái phiếu kho bạc
(hoặc lãi suất tiền gửi tiết kiệm)
+

% bù đắp
rủi ro
Sinh Viên: Vũ Văn Hiếu Lớp: Tài Chính 46B
15
Luận văn tốt nghiệp
Rủi ro của dự án phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thị trường, cạnh
tranh, khả năng quản lý, môi trường pháp lý… Hơn nữa mỗi nhà đầu tư có
những cách đánh giá rủi ro khác nhau. Vì vậy không có chung một lãi suất
chiết khấu (chi phí vốn) cho mọi đối tượng, thậm chí trong cùng một dự án.
Một dự án có thể có nhiều nhà tài trợ, trong đó có thể chia ra hai nhóm
theo tính chất sở hữu là các chủ đầu tư và các nhà cho vay. Trên cơ sở đánh
giá về giá trị thời gian của tiền, mỗi đối tượng đều xác định cho mình mức
lợi nhuận tối thiểu để bù đắp chi phí cơ hội, lạm phát và rủi ro hay chi phí
vốn của mình
Trên quan điểm của ngân hàng, việc phân tích dự án dựa trên dòng
tiền của tổng vốn đầu tư. Quan điểm nhà cho vay còn gọi là quan điểm tổng
đầu tư. Mục đích của các NHTM khi thẩm định sự án là đánh giá sự an
toàn của số vốn cho vay, mà sự an toàn đó phải được xem xét dựa trên hiệu
quả hoạt động của toàn bộ dự án chứ không chỉ của vốn chủ sở hữu. Theo
đó các NHTM sẽ xác định được tính khả thi về mặt tài chính của dự án,
nhu cầu cần vay vốn cũng như khả năng trả nợ gốc và lãi vay của dự án. Do
vậy dòng thu nhập của dự án phải bao gồm cả phần của các chủ sở hữu và
nhà cho vay (chỉ trừ các khoản tiền trả cho nhà cung cấp hàng hóa và dịch
vụ và thuế phải nộp). Dòng thu nhập này được so sánh với tổng vốn đầu tư
để đánh giá hiệu qủa của toàn bộ dự án chứ không của vốn chủ sở hữu.
Nếu dòng tiền của dự án được tạo ra từ tổng vốn đầu tư, bao gồm cả
phần vốn chủ sở hữu và phần vốn vay thì lãi suất chiết khấu (chi phí vốn)
chính là chi phí tring bình của vốn
Lãi suất chiết khấu = WACC = Kd *(1-T)*Wd + Ks*Ws
Trong đó:

- Ks là chi phí vốn vay (lãi vay)
- Wd là tỷ trọng vốn vay tong tổng nguồn vốn
- Ks là chi phí vốn chủ sở hữu
- Ws là tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn
Sinh Viên: Vũ Văn Hiếu Lớp: Tài Chính 46B
16
Luận văn tốt nghiệp
- T là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
Tuy nhiên trong thực tế việc xác định chi phí vốn chủ sở hữu không
hề đơn giản khi thị trường vốn ( thị trường chứng khoán ) không có hoặc
phát triển ở mức thấp. Do vậy để đơn giản và dễ sử dụng có thể dùng chính
chi phí vốn vay (lãi vay) trước thuế ( Kd) làm lãi suất chiết khấu
1.2.2.5.Thẩm định rủi ro của dự án
Rủi ro của của dự án được hiểu một cách chung nhất là khả năng mà
một sự kiện không có lợi nào đó xuất hiện.
Rủi ro đối với một dự án có thể được chia làm ba loại:
• Rủi ro loại 1: Đây là rủi ro của bản thân dự án tức là rủi ro của một tài
sản khi nó là tài sản duy nhất của doanh nghiệp.
• Rủi ro loại 2 : Rủi ro này thể hiện ở sự ảnh hưởng của dự án đối với
rủi ro của doanh nghiệp.
• Rủi ro loại 3 : Đó là phần rủi ro của dự án mà không thể loại bỏ được
bằng việc đa dạng hóa đầu tư. Rủi ro này được gọi là rủi ro hệ thống
và được đo bởi hệ số β của dự án
Các loại rủi ro này vừa có tính độc lập tương đối và vừa có mối liên
hệ chặt chẽ với nhau. Đứng trên các giác độ khác nhau mỗi loại rủi ro co
mức độ quan trọng khác nhau. Đối với ngân hàng thì rủi ro loại 1 là đáng
quan tâm nhất vì nó liên quan trực tiếp tới khả năng trả nợ của dự án. Để
phân tích loại rủi ro này, ngân hàng có thể áp dụng các phương pháp sau:
 Phân tích độ nhạy:
Phân tích độ nhạy của dự án là việc lần lượt cho từng yếu tố của dự án

thay đổi trong khi các yếu tố khác vẫn giữu nguyên để nghiên cứu tác động
của yếu tố đó tới kết quả ( NPV, IRR…) hay tính khả thi của dự án.
Phân tích độ nhạy giúp cho các NHTM trong việc đánh giá rủi ro bằng
cách xác định những biến cố có ảnh hưởng nhiều nhất đến lợi ích ròng của
dự án và lượng hóa mức độ ảnh hưởng của chúng. Từ đó giúp cho các ngân
hàng nhận biết được những điểm yếu của dự án và chỉ ra sự cần thiết phải
Sinh Viên: Vũ Văn Hiếu Lớp: Tài Chính 46B
17
Luận văn tốt nghiệp
thu thập thông tin về một số biến số. Hiện nay các NHTM thường thực
hiện phân tích độ nhạy theo hai cách sau:
• Xem xét ảnh hưởng khi một biến số thay đổi :
Trong phân tích này ngân hàng chọn những biến có khả năng thay đổi
và sẽ có tác động đến dòng tiền như số lượng bán hàng, chi phí biến đổi…
và cho một biến đố thay đổi trong khi giữu nguyên các biến số khác để xem
xét tác động của nó tới NPV hoặc IRR
• Xem xét ảnh hưởng trong trường hợp nhiều biến thay đổi (ảnh hưởng
đồng thời):
Trên thực tế các biến của dự án sẽ thay đổi đồng thời với nhau, do vậy
các nhà phân tích cũng phải phân tích và xem xét sự thay đổi của nhiều yếu
tố đồng thời đến NPV hoặc IRR trên cơ sở đó giúp cho việc đánh giá an
toàn, phòng ngừa rủi ro và quản lý tốt dự án.
 Phân tích tình huống:
Phương pháp này phân tích sự thay đổi của các biến số trong phạm vi
có thể và được tính toán dựa trên sự phân bố xác suất. Với phương pháp
này nhà phân tích cần phải có số liệu về xác suất tương ứng dành cho các
tình huống (xấu nhất, cơ sở và tốt nhất). Tuy nhiên việc tính toán các xác
suất này trên thực tế cũng rất khó khăn. Trên cơ sở các tình huống và xác
suất đó, các nhà phân tích tính toán hệ số biến thiên của NPV hay IRR. Nhà
phân tích sẽ tiến hành so sánh hệ số này với hệ số biến thiên của dự án

trung bình của doanh nghiệp để xác định mức độ rủi ro tương đối của dự án
đang xem xét. Hệ số biến thiên này càng lớn thì rủi ro của dự án đang xem
xét cũng càng lớn
 Phân tích tình huống mô phỏng:
Đây là phương pháp phân tích kết hợp dựa trên cả hai phương pháp
trên. Phương pháp này đề cập đến phạm vi các kết cục có khả năng xảy ra
chứ không chỉ một vài kết cục rời rạc. Khi đó đường biểu diễn hàm mật độ
xác suất là một đường liên tục nên việc tính toán các hệ số đo lường rủi ro
Sinh Viên: Vũ Văn Hiếu Lớp: Tài Chính 46B
18
Luận văn tốt nghiệp
sẽ chính xác hơn. Tuy nhiên khi thay đổi tất cả các yếu tố cùng một lúc
cùng với các xác suất xảy ra tương ứng dẫn đến khối lượng tính toán sẽ rất
lớn và phức tạp. Chính vì vậy mặc dù phương pháp này ưu việt hơn so với
hai phương pháp trên nhưng do tính phức tạp của nó nên hiện nay các
NHTM vẫn chưa áp dụng phương pháp này.
1.2.3.Phương pháp thẩm định tài chính dự án
1.2.3.1.Phương pháp giá trị hiện tại ròng (NPV)
Phương pháp NPV dựa trên một nguyên tắc là đầu tư chỉ được thực
hiện nếu khoản tiền thu nhận được từ đầu tư phải ít nhất bằng khoản tiền đã
bỏ vào. Tuy nhiên, những khoản tiền xuất hiện vào những thời điểm khác
nhau phải được đưa về cùng một thời điểm thông qua lãi suất chiết khấu
Một cách tổng quát:
0 1 n
0 1 n
CF CF CF
NPV ...
(1 i) (1 i) (1 i)
= + + +
+ + +

Trong đó:
- CF
t
là dòng tiền (ròng) năm thứ t
- i là lãi suất chiết khấu
- n là số năm hoạt động của dự án
Quyết định đầu tư chỉ được thông qua các dựa án có NPV 0. Nếu
tiền đầu tư được vay trên thị trường bằng lãi suất chiết khấu thì NPV 0
cho thấy dòng tiền từ dự án đủ đề trả vốn và lãi vay và đem lại một khoản
lợi nhuận bằng NPV. Trong khi đó NPV < 0 có ý nghĩa dự án không tạo ra
đủ tiền để trả chi phí tài chính
Việc sử dụng phương pháp này trong việc phân tích tài chính dự án có
những ưu và nhược điểm sau:
 Ưu điểm:
Phương pháp NPV cho thấy khoản lợi nhuận tăng thực (NPV > 0) hay
số vốn bị mất đi (nếu NPV < 0) so với dự án được so sánh ( phản ánh giá trị
theo thời gian của tiền)
Sinh Viên: Vũ Văn Hiếu Lớp: Tài Chính 46B
19
Luận văn tốt nghiệp
Với việc sắp xếp trật tự các dự án theo NPV giảm dần, có thể thấy
được dễ dàng những cơ hội đầu tư có lợi nhuận lớn. Nhờ đó chủ đầu tư sẽ
tối đa hóa lợi nhuận thông qua lựa chọn những cơ hội đầu tư có lời nhất.
 Nhược điểm:
Trong quá trình so sánh và lựa chọn, phương pháp NPV không tính
đến sự khác nhau về thời gian hoạt động của dự án. Quyết định chọn dụa án
như vậy có thể đưa đến sai lầm với các dự án loại trừ nhau. Dự án có thời
gian hoạt động ngắn hơn thường kém háp dẫn vì có NPV thường thấp hơn
NPV của dự án có hoạt động dài hơn.
Khi so sánh hiệu quả hoạt động của dự án với các dự án khác, hoặc so

sánh với hiệu quả hoạt động chung của công ty hay của ngành, sử dụng số
tuyệt đối NPV có những hạn chế nhất định do quy mô vốn đầu tư khác
nhau.
1.2.3.2.Phương pháp tỷ lệ hoàn vốn nội bộ ( IRR)
IRR của một dự án đươc định nghĩa là lãi suất chiết khấu làm cho
NPV của dự án bằng 0. Đó chính là lãi suất chiết khấu i thỏa mãn đẳng
thức sau:
n n
t t
t 0 t 0
t t
CF CF
0
(1 i) (1 IRR)
= =
= =
+ +
∑ ∑
Có thể ước tính IRR theo công thức:
1 2 1
1
1 2
NPV (i i )
IRR=i +
NPV NPV

+
Trong đó:
- i
1

, i
2
là lãi suất chiết khấu bất kỳ và i
1
< i
2
- NPV
1
, NPV
2
là NPV tương ứng với lãi suất chiết khấu i
1
và i
2
Khi sử dụng tỷ lệ hoàn vốn nội bộ làm tiêu chuẩn xem xét chấp nhận
hay loại bỏ dự án, thông thường các nhà phân tích dựa trên cơ sở so sánh tỷ
lệ này với lãi suất chiết khấu và cần phân biệt ba trường hợp sau:
Sinh Viên: Vũ Văn Hiếu Lớp: Tài Chính 46B
20
Luận văn tốt nghiệp
• Trường hợp 1: Khi tỷ lệ hoàn vốn nội bộ của dự án nhỏ hơn lãi suất
chiết khấu (IRR < i) thì cần loại bỏ dự án
• Trường hợp 2: Khi tỷ lệ hoàn vốn nội bộ của dự án bằng lãi suất chiết
khấu (IRR = i) thì tùy theo điều kiện cụ thể và sự cần thiết của dự án
mà chấp nhận hay loại bỏ dự án
• Trường hợp 3: Khi tỷ lệ hoàn vốn nội bộ lớn hơn lãi suất chiết khấu
(IRR >i) cần xem xét:
- Nếu đây là dự án độc lập thì dự án được chấp nhận
- Nếu là dự án loại bỏ lẫn nhau thì chọn dự án có tỷ lệ hoàn vốn cao
hơn

Qua xem xét phương pháp tỷ lệ hoàn vốn nội bộ trong việc lựa chọn
dự án đầu tư có thể thấy phương pháp này có những ưu và nhược điểm sau:
 Ưu điểm:
Phương pháp này cho phép đánh giá được mức sinh lời của dự án có
tính đến yếu tố giá trị thời gian của tiền
Phương pháp này cung cấp một chỉ số đo lường tỷ lệ sinh lời, mục
tiêu hàng đầu của chủ đầu tư, nên có thể giúp cho chủ đầu tư chọn ra những
dự án có tỷ lệ sinh lời cao hơn
Đây là tỷ lệ sinh lời hàng năm, nên có thể dùng để so sánh giữa các dự
án có thời gian hoạt động khác nhau
 Nhược điểm:
Trong trường hợp so sánh với các dự án loại trừ lẫn nhau, kết quả của
phương pháp IRR có thể mâu thuẫn với phương pháp NPV, vì phương pháp
IRR không quan tâm đến số vốn đầu tư bỏ ra và thời điểm xuất hiện dòng
tiền trong các năm hoạt động của dự án.
Trong phương pháp này giả thiết tỷ lệ tái đầu tư bằng đúng tỷ lệ sinh
lời của dự án ( IRRR) là không hợp lý và có thể thổi phồng khả năng sinh
lợi của dự án.
Sinh Viên: Vũ Văn Hiếu Lớp: Tài Chính 46B
21
Luận văn tốt nghiệp
Khi dòng tiền của dự án đổi dấu nhiều lần có thể không có hoặc có
nhiều mức lãi suất chiết khấu làm NPV.
Để khắc phục những nhược điểm của chỉ tiêu IRR, người ta đưa ra chỉ
tiêu tỷ lệ thu hồi vốn nội bộ điều chỉnh (MIRR). MIRR giả thiết rằng dòng
tiền của dự án được đầu tư với lãi suất bằng chi phí vốn. Đât là giả thiết về
tái đầu tư tôt hơn, nên MIRR là một chỉ số đáng tin cậy hơn về khả năng
sinh lời thực của dự án so với IRR
(n t)
n n

t t
t 0 t 0
t t
COF CIF (1 i)
(1 i) (1 MIRR)

= =
+
=
+ +
∑ ∑
Trong đó:
- COF
t
là dòng tiền ra năm thứ t
- CIF
t
là dòng tiền vào năm thứ t
1.2.3.3.Chỉ số lợi nhuận ( PI)
Phương pháp PI đo lường giá trị hiện tại của những khoản thu nhập
chia cho khoản đầu tư ban đầu
PI = ( NPV + Tổng vốn đầu tư ban đầu ) / Tổng vốn đầu tư ban đầu
Khi chỉ số lợi nhuận nhỏ hơn 1 (PI<1) điều này cũng cho thấy giá trị
hiện tại thuần của dự án nhỏ hơn không (NPV<0), tất cả các dự án như vậy
đều bị loại bỏ.
Khi dự án có chỉ số lợi nhuận lớn hơn 1 thì dự án sẽ được chấp nhận
nếu là dự án độc lập, còn trường hợp dự án loại trừu nhau thì thông thường
dự án có chỉ số sinh lời cao nhất là dựa án được lựa chọn. Chẳng hạn khi PI
= 1,258 điều này có nghĩa là mỗi đồng vốn đầu tư vào dự án đem lại thu
nhập hiện tại là 1,258 đồng hay tỷ suất lợi nhuậ ròng hiện tại là 25,8%

Phương pháp chỉ số lợi nhuận có những ưu, nhược điểm sau:
 Ưu điểm:
Có tính đến giá trị thời gian của tiền khi đo lường tỷ lệ sinh lời của dự
án thông qua việc tìm giá trị hiện tại của các khoản thu nhập trong các năm
hoạt động trước khi tính tỷ lệ sinh lời.
Sinh Viên: Vũ Văn Hiếu Lớp: Tài Chính 46B
22
Luận văn tốt nghiệp
Với cách đo lường khả năng sinh lời của mỗi đồng vốn đầu tư, chỉ số
PI giúp cho chủ đầu tư chọn ra được những dự án có khả năng sinh lời cao.
Tương tự như IRR, phương pháp PI cũng cho biết thông tin về độ an
toàn vì nó đo lường khả năng sinh lời của mỗi đồng vốn đầu tư
 Nhược điểm:
Phương pháp PI và NPV có thể đưa ra kết luận lựa chọn dự án mâu
thuẫn nhau đối với các dự án loại trừ nhau có quy mô vốn đầu tư khác
nhau, vì mặc dù cùng cho biết lợi nhuận ròng hiện tại nhưng NPV chỉ ra
tổng lợi nhuận ròng của dự án còn PI cho thấy lợi nhuận ròng của 1 đồng
vốn đầu tư
1.2.3.4.Phương pháp thời gian hoàn vốn đầu tư (PP)
Thời gian hoàn vốn đầu tư là khoảng thời gian cần thiết mà dự án tạo
ra dòng thu nhập bằng chính với số vốn đầu tư để thực hiện dự án.
PP được xác định thông qua công thức sau:
PP = n +
Số vốn đầu tư còn lại cần được thu hồi
Dòng tiền ngay sau mốc hoàn vốn
Trong đó, n là năm ngay trước năm thu hồi vốn đầu tư
Phương pháp PP có những ưu, nhược điểm sau:
 Ưu điểm:
Đơn giản, dễ tính, cho phép nhìn nhận dự án một cách trực quan hơn
Phù hợp với việc xem xét các dự án đầu tư quy mô vừa và nhỏ hoặc

với doanh nghiệp kinh doanh với chiến lược thu hồi vốn nhanh tăng vòng
quy vốn
 Nhược điểm:
Phương pháp này không tính đến giá trị thời gian của tiền.
Ngoài ra phương pháp này chú trọng xem xét lợi ích ngắn hạn hơn là
lợi ích dài hạn, nó ít chú trọng đến việc xem xét các khoản thu sau thời gian
hoàn vốn, do vậy những dự án đầu tư có mức sinh lợi chậm như sản xuất
Sinh Viên: Vũ Văn Hiếu Lớp: Tài Chính 46B
23
Luận văn tốt nghiệp
sản phẩm mới hay xâm nhập vào thị trường mới…không thích hợp với việc
lựa chọn đầu tư theo phương pháp này
Khó có thể đưa ra một tiêu chuẩn chung nhất cho việc lựa chọn dự án
theo PP, vì mỗi dự án có mức độ rủi ro khác nhau. Để so sánh được nhiều
dự án thì chỉ tiêu PP đòi hỏi các dự án phải có cùng thời hạn như nhau, vốn
đầu tư như nhau và mức độ rủi ro như nhau. Chính vì những hạn chế đó mà
chỉ tiêu PP mặc dù vẫn có ý nghĩa khi thẩm định dự án nhưng nó thường
được sử dụng kết hợp với các chỉ tiêu khác như NPV, IRR chứ khó có thể
sử dụng một cách độc lập để đưa ra quyết định đầu tư.
1.3.Chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại
1.3.1.Sự cần thiết nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án
Dự án liên quan đến rất nhiều các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế,
đó là các chủ đầu tư, các nhà tài trợ, NHTM và các cơ quan quản lý Nhà
nước. Đối với mỗi chủ thể khác nhau thì quan niệm về chất lượng thẩm
định TCDA cũng khác nhau:
• Đối với chủ đầu tư: Thẩm định TCDA được coi là có chất lượng nếu
như công tác thẩm định mang lại cho chủ đầu tư các thông tin có ý
nghĩa và đáng tin trong việc lựa chọn dựa án mang lại hiệu quả kinh tế
cao nhất.

• Đối với các nhà tài trợ: Chất lượng thẩm định tài chính dự án thể hiện
trong việc lựa chọn các dự án có hiệu quả tài chính cao và có khả năng
trả nợ đúng hạn.
• Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước: Chất lượng thẩm định TCDA
không những được thể hiện ở tính hiệu quả về mặt tài chính của dự án,
mang lại lợi ích cho nhà đầu tư mà còn thể hiện ở hiệu quả xã hội của
dự án, góp phần thực hiện các mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế
xã hội của Nhà nước
Sinh Viên: Vũ Văn Hiếu Lớp: Tài Chính 46B
24
Luận văn tốt nghiệp
• Đối với các NHTM: Thẩm định TCDA được coi là có chất lượng khi
nó thỏa mãn được các yêu cầu mà ngân hàng và khách hàng đặt ra.
Yêu cầu của ngân hàng đối với việc thẩm định TCDA nhằm đánh giá
chính xác tính khả thi cũng như hiệu quả tài chính của dự án, khả năng trả
nợ và những rủi ro có thể xảy ra đối với dự án. Đây là cơ sở để ngân hàng
đưa ra quyết định tài trợ đúng đắn: cho vay hay không, cho vay bao nhiêu
trong thời gian bao lâu với lãi suất áp dụng như thế nào…nhằm hạn chế tối
đa những rủi ro nhưng không bỏ lỡ cơ hội tìm kiếm lợi nhuận.
Đối với khách hàng, họ yêu cầu được tài trợ đủ nhu cầu vốn với thời
hạn mong muốn và lãi suất phù hợp, thủ tục vay vốn cũng như thời gian
thẩm định càng ngắn càng tốt để không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh, đồng thời
được ngân hàng cung cấp các tiện ích khác như tư vấn tài chính….
Vì dự án là cơ hội đầu tư của khách hàng và cũng là cơ hội để kiếm lợi
nhuận của ngân hàng nên việc thẩm định TCDA được đánh giá là có chất
lượng nếu nó đáp ứng đồng thời yêu cầu của cả hai bên. Do đó nâng cao
chất lượng thẩm định TCDA chính là việc nâng cao sự thỏa mãn một cách
tốt nhất yêu cầu của ngân hàng cũng như khách hàng.
Thẩm định TCDA đầu tư có ý nghĩa khác nhau đối với chủ đầu tư, nhà
tài trợ và đối với cơ quan quản lý nhà nước. Về phía các NHTM, việc thẩm

định dự án đầu tư, đặc biệt là thẩm định TCDA có ý nghĩa rất quan trọng
bởi một số lí do sau:
Thẩm định TCDA giúp các NHTM đưa ra kết luận về tính khả thi
cũng như hiệu quả về mặt tài chính của dự án. Đây là một căn cứ hết sức
quan trọng trong việc đưa ra quyết định tài trợ. Quá trình thẩm định sẽ cho
ngân hàng biết khả năng hoàn trả thực sự của khách hàng xuất phát từ kết
quả hoạt động kinh doanh. Đây cũng là cơ sở để NHTM xác định lãi suất,
kỳ hạn, cách thức trả nợ… thích hợp với khả năng tài chính của cả hai bên.
Thẩm định TCDA giúp các NHTM lường trước đước các rủi ro có thể
xảy ra như: sự biến động giá của thị trường đầu vào, sản phẩm đầu ra; các
Sinh Viên: Vũ Văn Hiếu Lớp: Tài Chính 46B
25

×