Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Chất lượng lao động Việt Nam so với các nước trong khu vực pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.05 KB, 13 trang )

Chất lượng lao động Việt Nam so với các nước trong khu vực
Một trong những thế mạnh của lao động Việt Nam được các nhà đầu tư
nước ngoài đánh giá cao, đó là sự chăm chỉ làm việc và tay nghề khéo
léo. Các đánh giá này đều chỉ ra điều có vẻ như mâu thuẫn nhau, đó là
tay nghề của lao động Việt Nam ngang ngửa, thậm chí còn nhỉnh hơn cả
lao động Trung Quốc, nhưng năng suất lao động của Việt Nam so với
Trung Quốc lại thấp hơn.
Các doanh nghiệp đánh giá chất lượng lao động
Việt Nam nằm trong nhóm 10% thấp nhất của khu
vực.

Những năm trước đây, người ta ít chú ý tới điều này vì việc thuê nhân
công giá rẻ vẫn còn mang lợi nhuận cho nhà đầu tư. Nay, việc thuê nhân
công Việt Nam so với các nước trong khu vực đã tăng lên, nên yếu tố
năng suất lao động đã ảnh hưởng trầm trọng đến lợi nhuận của nhà đầu
tư, nhất là trong một số ngành nghề như dệt may, da, giày.

Theo số liệu của Hiệp hội Da giày, túi xách Việt Nam (Lefaso), mức
lương bình quân của lao động ở Việt Nam khoảng 100 - 150 USD/tháng,
đứng sau lương lao động tại Trung Quốc từ 120 - 180 USD/tháng. Trong
khi đó, mức lương của Ấn Độ 100 - 120 USD/tháng, Indonesia 70 - 100
USD/tháng, Bangladesh 50 - 70 USD/tháng.

So sánh mức chênh lệch trên, giá sản xuất tại Việt Nam kém cạnh tranh
so với nhiều nước khác, chưa kể sức ép tăng lương với doanh nghiệp vẫn
còn. Theo tính toán, lao động tại các thành phố cần từ 4 - 5 triệu
đồng/tháng mới có thể bảo đảm các nhu cầu sống tối thiểu.

Trong khi đó, theo kết quả khảo sát “Thiếu hụt lao động kỹ năng ở Việt
Nam” do Viện Khoa học lao động và xã hội (Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội) phối hợp với tập đoàn Manpower tiến hành mới đây tại


6.000 doanh nghiệp thuộc 9 lĩnh vực kinh tế tại 9 tỉnh, thành phố ở Việt
Nam, các doanh nghiệp đánh giá chất lượng lao động Việt Nam nằm
trong nhóm 10% thấp nhất của khu vực.

Có 1/4 doanh nghiệp tham gia khảo sát cho rằng lao động thiếu hiểu biết
về công nghệ và khả năng sáng tạo; 1/5 nhận xét lao động thiếu khả
năng thích nghi với công nghệ mới; 1/3 doanh nghiệp không tìm được
lao động có kỹ năng mà họ cần; 2/5 giám đốc điều hành gặp khó khăn
trong tuyển dụng lao động.

Tại một số ngành như chế biến thực phẩm, y tế, xây dựng, vận tải, hóa
chất, dệt có tình trạng lao động thiếu hụt kỹ năng nghiêm trọng. Lợi thế
về chi phí nhân công thấp khi hoạt động tại Việt Nam đang dần mất đi
sức hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài.

Theo TS. Hồ Đức Hùng, Đại học Kinh tế Tp.HCM, năng suất lao động
của lao động Việt Nam hiện thấp hơn Indonesia 10 lần, Malaysia 20 lần,
Thái Lan 30 lần, Nhật Bản tới 135 lần. “Nếu coi lao động giá rẻ như một
lợi thế thì sai lầm, bởi yếu tố quyết định đến doanh thu lợi nhuận của
doanh nghiệp chính là năng suất lao động”, ông Hùng nói.

Bày tỏ quan điểm về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy
Hoàng cho rằng, lợi thế về nguồn nhân lực giá rẻ của chúng ta không thể
kéo dài mãi. Do đó không chỉ riêng ngành da giày mà các ngành hàng
khác cũng cần có bước chuẩn bị cụ thể để chuyển từ số lượng sang chất
lượng.
(Theo Vn Economy)

Năng xuất lao động ngành
Nhóm ngành Nông, lâm nghiệp- thủy sản đạt nhiều kỷ lục mới, nhưng

giá cả tiêu thụ trong nước và xuất khẩu lại bị giảm so với năm trước.
Nhóm ngành Công nghiệp- xây dựng có năng suất hiệu quả cao hơn cả
(năng suất lao động năm 2012 của nhóm Ngành này đạt 110,3 triệu
đồng/lao động, cao gấp 4,3 lần nhóm ngành Nông, lâm nghiệp- thuỷ sản,
cao gấp 1,6 lần nhóm ngành Dịch vụ, cao gấp 1,9 lần năng suất lao động
của toàn bộ nền kinh tế), nhưng tốc độ tăng GDP của nhóm Ngành này
tạo ra đã thấp hơn tốc độ tăng chung (4,52% so với 5,03%). Nhóm
ngành Dịch vụ tuy có tốc độ tăng GDP cao hơn tốc độ tăng chung
(6,42% so với 5,03%), nhưng các ngành Ngân hàng, Chứng khoán, Bất
động sản lợi nhuận bị sụt giảm. Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu theo
dự toán thì chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu (20,8%), nhưng kim ngạch
nhập khẩu tăng thấp (7,1%, riêng khu vực kinh tế trong nước còn bị
giảm sâu tới 6,7%), nhất là những mặt hàng như ô tô, xe máy còn giảm
sâu hơn nữa.
Cơ cấu lao động theo nhóm ngành trong năm 2012 có sự chuyển
dịch tích cực, tỷ trọng lao động trong nhóm ngành dịch vụ tăng từ
30,3% lên 31,4%, số lao động tăng 974 nghìn người.
Cơ cấu lao động theo nhóm ngành năm 2005 và
2012 (%):
Đây là một trong những kết quả tích cực mà lĩnh vực lao động, lĩnh vực
có vai trò quan trọng về nhiều mặt với nền kinh tế - xã hội, đạt được
trong năm 2012.

Những kết quả tích cực

Trước hết, liên quan đến lao động là dân số. Năm 2012 ước đạt 88,78
triệu người. Dù là năm “rồng vàng” Nhâm Thìn, tốc độ tăng dân số
ở mức 1,06% - chỉ cao hơn một chút so với con số tương ứng của một
vài năm trước và vẫn nằm trong tốc độ tăng thấp dưới 1,1% đạt được từ
năm 2007 đến nay. Tỷ lệ dân số thành thị đạt 32,45%, tuy còn thấp hơn

nhiều so với các nước trong khu vực (trên 42%), ở châu Á (trên 44%) và
trên thế giới (trên 51%), nhưng đã cao hơn năm 2011 (31,75%).

Hai, số lao động đang làm việc tiếp tục tăng với tốc độ khá cao (2,7%),
chứng tỏ nỗ lực tìm việc làm của người lao động, sự cố gắng giữ chân
người lao động của các cơ sở sản xuất kinh doanh, sự hỗ trợ tích cực của
Nhà nước.

Ba, cơ cấu lao động theo loại hình kinh tế có sự chuyển dịch nhẹ. Lao
động trong khu vực nhà nước chiếm 10,4% (số lao động vẫn tăng
khoảng 125 nghìn người); lao động khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tỷ
trọng giảm nhẹ từ 3,4% xuống 3,3% (nhưng số lao động vẫn tăng
khoảng 5,1 nghìn người); lao động khu vực ngoài nhà nước tỷ trọng tăng
từ 86,2% lên 86,3% (số lao động tăng trên 1,2 triệu người). Điều đó
chứng tỏ khu vực này vẫn thu hút nhiều lao động và vẫn là nơi giải
quyết chủ yếu với nhiều lao động tăng thêm.

Bốn, cơ cấu lao động theo nhóm ngành tiếp tục chuyển dịch. Tỷ trọng
lao động trong nhóm ngành nông, lâm, thủy sản giảm từ 48,4% xuống
còn 47,5% (nhưng vẫn tăng 182,4 nghìn người), nhóm ngành công
nghiệp- xây dựng giảm từ 21,3% xuống còn 21,1% (nhưng vẫn tăng
181,6 nghìn người), nhóm ngành dịch vụ tăng từ 30,3% lên 31,4% (số
lao động tăng 974 nghìn người).

Như vậy, nhóm ngành nông, lâm nghiệp- thủy sản vẫn chiếm tỷ trọng
lớn nhất và nhóm ngành dịch vụ tỷ trọng đã tăng lên và đã thu hút được
nhiều hơn số lao động tăng thêm. Đây là sự chuyển dịch theo hướng
tích cực, phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh
tế.


Năm, xuất khẩu lao động mặc dù gặp nhiều khó khăn do tăng trưởng
kinh tế của nhiều nước đối tác chậm lại, nhưng vẫn tiếp tục được thực
hiện. Theo tính toán sơ bộ, với hơn 400 nghìn lao động đang làm việc ở
nước ngoài, hàng năm đã gửi về Việt Nam khoảng 1,8 tỷ USD, bình
quân đạt 4,5 nghìn USD/người, tương đương với trên 90 triệu đồng.

Một số hạn chế

Một, dễ nhìn thấy là do dân số những năm trước tăng còn cao, nên nay
số người bước vào tuổi lao động còn lớn; số người thất nghiệp còn nhiều
(hiện còn gần 1 triệu người), số người thiếu việc làm còn nhiều hơn.

Hai, điểm “nghẽn” lớn hiện nay là trình độ chuyên môn nghiệp vụ của
đội ngũ lao động. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp, cơ cấu đào tạo
còn bất hợp lý. Việc đào tạo chưa hợp lý giữa các ngành nghề, giữa lý
thuyết và thực hành. Việc phân bổ và sử dụng còn chưa hợp lý…

Ba, năng suất lao động còn thấp. Năng suất lao động thấp là yếu tố cản
trở tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhất là về chất lượng, là yếu tố tiềm ẩn
làm mất cân đối kinh tế vĩ mô (lạm phát, nhập siêu, thâm hụt cán cân
thanh toán,…), là lực cản của thu nhập. Có nhiều nguyên nhân làm cho
năng suất lao động của Việt<st1:country-region
w:st="on">Nam</st1:country-region> thấp. Có nguyên nhân do quy mô
GDP còn nhỏ. Có nguyên nhân do cơ cấu lao động hiện vẫn còn gần một
nửa số lao động làm việc trong ngành nông, lâm nghiệp- thuỷ sản, trong
khi năng suất lao động của nhóm ngành này chỉ bằng 1/5 của nhóm
ngành công nghiệp- xây dựng; năng suất lao động nhóm ngành công
nghiệp- xây dựng cao nhất, nhưng tỷ trọng số lao động còn thấp…

Để khắc phục những hạn chế, bất cập trên, Nghị quyết Đại hội XI của

Đảng đã đề ra những mục tiêu về lao động và năng suất lao động. Cụ
thể, tạo công ăn việc làm để giảm tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ thiếu việc làm;
giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp (đến năm 2015 còn 35- 40%, đến năm
2020 còn 30%) trên cơ sở tăng tương ứng tỷ lệ lao động công nghiệp-
xây dựng và dịch vụ.

Cùng với đó, tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo (đến năm 2015 là 55%, đến
năm 2020 là 70%); tăng năng suất lao động (gấp rưỡi vào năm 2015),
tăng tỷ trọng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của năng suất các nhân tố
tổng hợp- gồm hiệu quả đầu tư và năng suất lao động (đến năm 2015 lên
31- 32%, đến năm 2020 lên 35%).

Theo chinhphu.vn








Trình độ chuyên môn

Chỉ số HDI của Việt Nam so với các nước khác
Đầu tháng 11/2011, Liên hợp quốc vừa công bố báo cáo phát triển con
người lần

thứ 21. Bản báo cáo năm nay gồm 5 chương trong đó nhấn
mạnh đến những thách thức của nhân loại về biến đổi môi trường và bất
bình đẳng mà trong đó, những nước nghèo phải gánh chịu nhiều thiệt

thòi. Báo cáo cũng kêu gọi sự hợp tác giữa các châu lục, sự chia sẻ kinh
nghiệm giữa các nước trong giải quyết những thách thức của nhân loại
và để giảm bớt mức chênh lệch phát triển giữa các quốc gia. Chính vì
thế, Báo cáo Phát triển con người 2011 có tên gọi: “Bền vững và Bình
đẳng: Tương lai tốt đẹp hơn cho mọi người”
Nhìn chung chỉ số phát triển con người (HDI) tăng đáng kể. Từ năm
1970 đến nay, HDI đã tăng 41% trên toàn cầu. Theo đó, các điểm mốc
phân loại HDI theo mức rất cao, cao, trung bình và thấp đều có những
cải thiện đáng kể so các năm trước đó.



Bảng 1. Phân loại HDI 2011
Phân loại HDI Xếp hạng quốc gia
Rất cao
từ 0,889 trở lên 1 – 47
Cao
0,741 – 0,888 48 – 94
Trung bình
0,630 – 0,740 95 – 141
Thấp
0,456 – 0,629 142 - 187

HDI cao nhất thuộc về khu vực châu Âu (0,751 điểm), tiếp đến là khu
vực Mỹ La tinh và vùng Caribbean (0,731). Thấp nhất là châu Phi
(0,463). Khu vực Đông Á và châu Á Thái Bình Dương (trong đó có
Việt Nam) xếp ở nhóm thứ 3- mức trung bình với 0,671 điểm.
Các quốc gia và vùng lãnh thổ có thứ hạng HDI cao nhất
gồm: Nauy, Australia, Hà Lan, Mỹ, New Zealand, Canada và đứng
cuối bảng là các nước như Liberia, Burkina Faso, Trung

phi, Guinea, Mali, Ethiopia, Zimbabwe…
HDI của Việt Nam xếp thứ 128 trên tổng số 187 nước và vùng lãnh
thổ và ở mức trung bình. Theo tính toán của LHQ, thứ hạng này không
thay đổi so với năm trước tuy HDI của Việt Nam tăng nhẹ từ 0,590 năm
2010 lên 0,593 năm 2011. So sánh với các nước trong khu vực thì
Việt Nam ở mức thấp. Thứ hạng của Việt Nam chỉ cao hơn Lào
(138), Cambodia (139), Timor Leste (147) và Myanmar (149). Những
nước đứng đầu trong khu vực châu Á Thái Bình Dương là New Zeeland
xếp thứ 5, Nhật Bản: 12, Hàn Quốc: 15, Australia: 19,Singapore: 26




Bảng 2. HDI Việt Nam và một số nước trong khu vực châu Á
Thái Bình Dương, 2011
Tên nước

HDI Tên nước HDI
Xếp
hạng/187

Điểm

Xếp
hạng/187

Điểm

New
Zealand

5 0,908

Mông Cổ
110 0,653

Nhật Bản
12 0,901

Philippines
112 0,644

Hàn
Quốc
15 0,897

Indonesia
124 0,617

Australia
19 0,885

Việt Nam
128 0,593

Singapore

26 0,866

Lào
138 0,524


Brunei
33 0,838

Cambodia
139 0,523

Malaysia
61 0,761

Timor Leste

147 0,495

Trung
Quốc
101 0,687

Myanmar
149 0,483

Thái Lan
103 0,682





Mặc dù điểm HDI của Việt Nam tăng hàng năm, song tính từ năm
2006 đến 2011, xét về thứ hạng, Việt Nam chỉ tăng có 1 bậc. Theo đó

chỉ số tăng trưởng HDI giai đoạn 1990-2011 và 2000-2011 so với giai
đoạn 1980-2011 lần lượt là 1,5 và 1,06%.


Biểu 1. HDI của Việt Nam, 1990-2011


Như trên đã đề cập, HDI được tính toán dựa trên các chỉ số về tuổi thọ,
giáo dục (số năm học trung bình và số năm học mong đợi) và thu nhập
bình quân đầu người (GNI) tính theo sức mua tương đương (PPP). Chỉ
báo về tuổi thọ (0,870) có đóng góp rất lớn, cao hơn hẳn so với chỉ báo
về giáo dục (0,503) và thu nhập (0,478) đối với kết quả HDI của
Việt Nam hiện nay. Tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh của người Việt
Nam đã liên tục tăng lên trong thời gian qua, từ 40 tuổi năm 1960 và đến
nay là 73 tuổi năm 2011. Có được kết quả đó là nhờ những nỗ lực và sự
thành công của các chương trình DS-KHHGĐ, chăm sóc và nâng cao
sức khoẻ người dân trong thời gian qua mà đó các chỉ báo về mức sinh,
mức chết của Việt Nam đều giảm rõ rệt.
Như vậy, để HDI Việt Nam tăng nhanh hơn trong thời gian tới, cùng
với việc giữ vững mức tăng tuổi thọ thì các chỉ báo về giáo dục và đặc
biệt là thu nhập (GNI) phải có sự tăng trưởng đột biến. Điều đó, đòi hỏi
chính phủ cần tập trung các nỗ lực hơn nữa cho các chương trình phát
triển kinh tế, giáo dục, dân số, sức khỏe để nâng cao đời sống nhân dân.
Ngoài xếp hạng về HDI, Báo cáo Phát triển con người năm 2011 của
LHQ cũng xếp hạng chỉ
số HDI có điều chỉnh khía cạnh bất bìnhđẳng (IHDI), chỉ số bất bình
đẳng giới (GII), chỉ số nghèo đói đa chiều (MPI).
Na Uy, Úc, Hà Lan, Mỹ, New Zealand, Ai Len, Cộng hòa
Liechtenstein, Đức, Thụy Điển là các quốc gia nằm trong nhóm 10 quốc
gia có Chỉ số Phát triển con người (HDI) có thứ hạng cao nhất. Tuy

nhiên, theo chỉ số Phát triển con người có điều chỉnh khía cạnh bất bình
đẳng (IHDI) trong phân tổ y tế, giáo dục, thu nhập thì một số quốc gia
nằm trong những nước giàu cũng không thuộc nhóm 20 nước đứng đầu.
Trong đó, Mỹ bị rớt từ vị trí số 4 xuống 23, Hàn Quốc từ vị trí 15 xuống
32, Israel từ 17 xuống 25. Theo chỉ số IHDI, ba quốc gia đứng đầu thế
giới là Na Uy, Úc và Hà Lan. Cộng hòa Công Gô, Niger và Burundi xếp
cuối cùng. Điển hình là Thụy Điển (từ 10 lên vị trí số 5), Đan Mạch (từ
16 lên 12), Slovenia (từ 21 lên 14). Do có sự bình đẳng hơn trong hệ
thống y tế, giáo dục và thu nhập đã vươn lên những thứ hạng đầu trong
nhóm chỉ số IHDI
Bảng 3. Xếp hạng chỉ số HDI và sự khác biệt về xếp hạng theo nhóm
chỉ số IHDI, 2011
Tên
nước
Xếp
hạng
HDI/187

Thay
đổi
xếp
hạng
IHDI
so
với
HDI

Tên nước
Xếp
hạng

HDI/187

Thay
đổi
xếp
hạng
IHDI
so
với
HDI

New
Zealand 5 Mông Cổ 110 15
Nhật Bản 12 Philippines

112 4
Hàn
Quốc 15 -17 Indonesia 124 8
Australia 19 1 Việt Nam 128 14
Singapore

26 Lào 138 6
Brunei 33 Cambodia 139 3
Malaysia 61
Timor
Leste 147 -1
Trung
Quốc 101 -1 Myanmar 149
Thái Lan 103 2



Một số quốc gia trong khu vực chưa đủ dữ liệu để xếp hạng theo chỉ số
IHDI như New Zealand, Nhật Bản…Bảng 3 cho thấy Việt Nam so với
một quốc gia trong khu vực đã có sự thay đổi thứ hạng đáng kể từ vị trí
128 tăng lên 114.
Về chỉ số bất bình đẳng giới - GII (so sánh tương quan giữa nam và nữ
trên các phương diện sức khoẻ sinh sản, lao động, chính trị…),
Việt Nam xếp thứ hạng cao: 48 trên 187 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đó
là một trong những thành tựu rất quan trọng của Việt Nam trong việc
phát huy vị thế, vai trò người phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới và nâng
cao vị thế phụ nữ trong xã hội. Tỷ lệ nữ nghị sỹ của Việt Nam là 25,8%
(năm 2011) và cũng thuộc hàng cao trên thế giới, tỷ suất chết mẹ giảm
liên tục trong thời gian qua và chỉ còn 63/100.000 đứa trẻ sinh sống.
Báo cáo Phát triển con người 2011 cũng đã nhấn mạnh đến quyền con
người được tận hưởng môi trường lành mạnh, tầm quan trọng của thực
thể xã hội hòa hợp với chính sách về môi trường. Báo cáo đã đề cập
cách tiếp cận táo bạo nhằm kiểm soát tình hình tài chính và môi trường
toàn cầu.
Với kết quả công bố của LHQ, HDI là một trong những chỉ báo quan
trọng để các nhà hoạch định chính sách tham khảo trước khi đưa ra các
quyết sách cho sự phát triển của đất nước. Để nâng cao HDI và những
cải thiện hơn nhóm các chỉ số liên quan đến IHDI, nhà nước cần tập
trung hơn nữa cho các chương trình Dân số-KHHGĐ, y tế, giáo dục,
việc làm và phát triển kinh tế xã hội. Các chỉ số sử dụng trong báo cáo,
các công cụ đo lường mới được sử dụng ngày càng củng cố giá trị của
tầm nhìn ban đầu về phát triển con người. Báo cáo Phát triển con người
trong tương lai sẽ bao trùm cả những vấn đề về đảm bảo tính bền vững,
nâng cao vị thế.
LƯƠNG QUANG ĐẢNG, NGUYỄN YÊN
Nguồn: UNDP, Human Development Report 2011.


×