Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Báo cáo " Kiểm tra lời khai của bị can " doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.84 KB, 4 trang )



nghiên cứu - trao đổi
8 - Tạp chí luật học

Kiểm tra lời khai của bị can

Ths. Bùi kiên điện *
1. Trong giai đoạn điều tra, lời khai
của bị can đợc đánh giá là phơng tiện
chứng minh có ý nghĩa quan trọng và
không thể thay thế. Bản thân bị can là
ngời nắm lợng thông tin lớn nhất về tội
phạm mà họ bị cáo buộc là thủ phạm.
Hơn bất kì ngời tham gia tố tụng nào
khác (ngời bị hại, ngời làm chứng,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự ), bị
can biết rõ về mọi tình tiết có liên quan
đến việc chuẩn bị, thực hiện, che giấu
hành vi phạm tội đ xảy ra. Vì vậy, việc
thu thập đầy đủ những thông tin về vụ án
mà bị can nắm đợc luôn dành đợc sự
quan tâm của điều tra viên và nó đợc coi
là cơ sở quan trọng để dựng lại sự kiện
phạm tội đ xảy ra một cách khách quan,
toàn diện, đầy đủ theo đúng yêu cầu của
pháp luật.
2. Thực tế của công tác điều tra cho
thấy, phần lớn các trờng hợp khi tham
gia tố tụng, bị can thờng đặt cho mình
mục đích là làm sao che giấu hoặc làm


giảm trách nhiệm hình sự đối với tội
phạm mà họ đ thực hiện và vì vậy gây
khó khăn cho hoạt động điều tra, làm rõ
vụ án ở mức độ đáng kể. Điều đó không
chỉ làm cho hoạt động hỏi cung bị can -
biện pháp điều tra nhằm thu thập lời khai
của bị can do điều tra viên tiến hành
thờng mang tính xung đột cao mà còn
đòi hỏi điều tra viên phải có thái độ thận
trọng, khách quan khi đánh giá những
tình tiết mà bị can cung cấp đồng thời
phải sử dụng các biện pháp phù hợp để
kiểm tra, xác minh những tình tiết đó
trớc khi sử dụng chúng làm cơ sở cho
các hành vi tố tụng tiếp theo
(1)
. Thái độ
cần thiết đó còn xuất phát từ đòi hỏi của
pháp luật hiện hành. Theo quy định của
Bộ luật hình sự, khi bị can từ chối khai
báo hoặc khai báo gian dối, họ không
phải chịu trách nhiệm hình sự theo những
tội danh tơng ứng
(2)
. Ngoài ra, theo quy
định của đoạn 2 Điều 11 Bộ luật tố tụng
hình sự thì "trách nhiệm chứng minh tội
phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố
tụng ". Đồng thời, khi bị can phủ nhận
hoặc khẳng định sự liên quan của mình

đối với hành vi phạm tội mà họ bị cáo
buộc nhng cơ quan điều tra không
chứng minh đợc bị can là ngời có tội
thì phải coi bị can không có tội và phải
đình chỉ điều tra theo điểm b, khoản 1
Điều 139 Bộ luật tố tụng hình sự. Vì vậy,
lời khai của bị can (cũng nh bị cáo), dù
ý nghĩa quan trọng của nó trong việc xác
định sự thật của vụ án không thể phủ
nhận nhng cũng chỉ đợc coi là một
trong các phơng tiện chứng minh của
quá trình tố tụng hình sự. Khi đánh giá
lời khai của họ, kể cả khi họ nhận mình
có tội, đòi hỏi phải có thái độ khách quan
nh đối với các tình tiết của vụ án có ở
các phơng tiện chứng minh khác đ thu
thập đợc trong quá trình điều tra, xét xử.
Thái độ cần có nêu trên đợc cụ thể hóa
tại khoản 2 Điều 54 Bộ luật tố tụng hình
sự: "Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có
thể đợc coi là chứng cứ nếu phù hợp với
các chứng cứ khác của vụ án.
Không đợc coi lời nhận tội của bị
can, bị cáo là chứng cứ duy nhất để kết
* Giảng viên Khoa t pháp
Trờng đại học luật Hà Nội


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 9


tội".
3. Việc kiểm tra lời khai của bị can
trớc khi quyết định sử dụng những thông
tin mà bị can cung cấp làm cơ sở cho các
hành vi tố tụng tiếp theo là công việc cần
thiết nhng phức tạp, đòi hỏi điều tra viên
phải có thái độ khách quan và khoa học.
Trong thực tế điều tra, có thể áp dụng một
số biện pháp cơ bản sau đây để kiểm tra,
xác minh tính xác thực, mức độ tin cậy
của những tình tiết mà bị can khai báo.
Thứ nhất, lời khai của bị can đợc
kiểm tra bằng cách phân tích tính hợp lí
của những tình tiết mà bị can cung cấp.
Đây là cách kiểm tra, xác minh đơn giản
và nhanh nhng đòi hỏi điều tra viên phải
có kiến thức sâu rộng về những vấn đề
liên quan đến tình tiết mà bị can khai báo.
Trên cơ sở phân tích những tình tiết đó,
điều tra viên có thể phát hiện đợc những
bất hợp lí, những mâu thuẫn trong lời
khai của bị can. Ví dụ, bị can khai rằng
nguyên nhân của vụ cố ý gây thơng tích
dẫn đến hậu quả chết ngời mà bị can
thực hiện là bởi khi anh ta ngồi trên ghế
đá trong công viên đang ngắm trăng (19h,
ngày cuối tháng âm lịch), ngời bị hại khi
đi trên đờng trớc mặt anh ta, (qua xác
định đó là đờng bê tông, khô) đ nhiều

lần cố tình dẫm mạnh chân cho bùn đất
trên đờng bắn vào mặt bị can. Khi bị can
nhắc nhở thì anh ta đ xông vào tấn công
bị can, buộc bị can phải chống trả. Tính
bất hợp lí trong lời khai trên của bị can
thể hiện tơng đối rõ: Vào lúc 19h ngày
cuối tháng âm lịch sẽ không có trăng và
trên đờng bê tông khô không thể có bùn
đất. Nh vậy, bị can có mặt ở hiện trờng
không phải với mục đích ngắm trăng và
nguyên nhân dẫn đến hành vi gây thơng
tích cho nạn nhân không phải nh lời
khai của bị can.
Thứ hai, đối chiếu lời khai của bị can
với các tài liệu, chứng cứ đ thu đợc
trong vụ án. Những tài liệu, chứng cứ đó
có thể là vật chứng, lời khai của ngời
làm chứng, ngời bị hại, của chính bị can,
kết luận giám định đ đợc kiểm tra, xác
minh, bảo đảm tính xác thực của nó.
Bằng cách này, điều tra viên có thể xác
định đợc mức độ tin cậy của những tình
tiết mà bị can cung cấp. Chẳng hạn, bị
can khai rằng cha bao giờ có mặt tại
hiện trờng nhng kết luận giám định dấu
vết vân tay thu đợc trên hiện trờng lại
khẳng định đó là dấu vết vân tay của
chính bị can. Khi bị can khai rằng, bị can
không biết trong xe máy do một mình bị
can sử dụng có ma túy nhng kết quả của

hoạt động khám xét lại chỉ ra rằng, gói
ma túy có trọng lợng lớn đợc tìm thấy
dới lớp vỏ bọc của yên xe bị can đang
ngồi Trong các trờng hợp trên, các
chứng cứ thu đợc qua hoạt động trng
cầu giám định, khám xét chính là những
chứng cứ chỉ ra sự gian dối trong lời khai
của bị can. Để biện pháp trên đợc áp
dụng một cách có hiệu quả, đòi hỏi điều
tra viên phải có t duy logic, khoa học và
nắm chắc những tài liệu, chứng cứ đ thu
đợc trong vụ án. Khi ấy, tính hợp lí, bất
hợp lí của những tình tiết có trong lời
khai của bị can sẽ đợc xác định và là cơ
sở để điều tra viên đánh giá mức độ tin
cậy của những tình tiết đó.
Thứ ba, sử dụng câu hỏi kiểm tra để
kiểm tra lời khai của bị can. Câu hỏi kiểm
tra là một trong 5 loại câu hỏi đợc sử
dụng trong quá trình hỏi cung bị can. Đó
là câu hỏi đợc đặt ra nhằm mục đích
kiểm tra lời khai hoặc để thu thập tài liệu
làm cơ sở cho việc kiểm tra lời khai của
bị can. Chẳng hạn, khi bị can khai rằng,
chính A là kẻ chủ mu của vụ án, còn bị
can chỉ tham gia trong vụ án với vai trò là


nghiên cứu - trao đổi
10 - Tạp chí luật học


ngời thực hành. Trong tình huống trên,
điều tra viên có thể hỏi bị can: Dựa trên
cơ sở nào anh khẳng định A là kẻ chủ
mu của vụ án này? Với câu hỏi đó, nếu
bị can đa ra đợc những thông tin hợp lí
khẳng định tình tiết trên là đúng thì lời
khai của bị can có thể tin cậy đợc.
Ngợc lại, nếu bị can không đa ra đợc
hoặc đa ra những thông tin mâu thuẫn
với khẳng định trên của mình thì lời khai
của bị can không đáng tin cậy. Khi bị can
khai rằng, vào thời điểm xảy ra vụ án, bị
can không có mặt ở hiện trờng mà đang
đi du lịch ở thành phố H. Khi ấy, điều tra
viên có thể hỏi bị can về phong cảnh,
cuộc sống, tình hình giao thông ở thành
phố H - nơi bị can nói rằng đ có mặt ở
thời điểm xảy ra vụ án và nếu đúng vậy
thì bị can phải biết đợc. Căn cứ vào tính
chất những câu trả lời của bị can (biết hay
không biết những tình tiết mà bị can nếu
có mặt ở thành phố H vào thời điểm đó
phải biết), điều tra viên sẽ có cơ sở để kết
luận về tình tiết mà bị can đ khai báo
trớc đó.
Thứ t, tiến hành các biện pháp điều
tra phù hợp để thu thập tài liệu, chứng cứ
mới. Đây đợc xem là biện pháp cơ bản
nhất trong việc kiểm tra lời khai của bị

can nhng đòi hỏi chi phí nhiều nhất về
thời gian và công sức của cơ quan điều
tra. Chẳng hạn, khi bị can khai rằng công
cụ, phơng tiện phạm tội hoặc tài sản mà
bị can chiếm đoạt đợc qua việc thực hiện
hành vi phạm tội đó đang đợc bị can cất
giấu tại chỗ ở của mình thì biện pháp điều
tra phù hợp nhất trong tình huống trên mà
cơ quan điều tra có thể áp dụng là khám
xét chỗ ở (Điều 118 Bộ luật tố tụng hình
sự). Căn cứ vào kết quả của biện pháp
điều tra đó (tìm đợc hay không tìm đợc
vật mà bị can khai là đ cất giấu tại vị trí
nhất định trong chỗ ở của bị can), cơ
quan điều tra có thể kết luận về tính trung
thực, mức độ tin cậy trong lời khai của bị
can. Hoặc khi bị can khai rằng, để mở
đợc khóa treo ngoài có độ an toàn cao
tại hiện trờng, bị can đ dùng một que
sắt nhỏ thì trong trờng hợp này, biện
pháp điều tra phù hợp nhất cần phải áp
dụng đó là thực nghiệm điều tra (Điều
128 Bộ luật tố tụng hình sự). Cơ quan
điều tra sẽ tái tạo lại hiện trờng, yêu cầu
bị can diễn lại hành vi mở khóa nh bị
can khai đ làm trớc đây. Kết quả của
biện pháp điều tra đó (bị can mở đợc
hay không mở đợc khóa bằng cách nh
đ khai) sẽ là cơ sở để cơ quan điều tra
kết luận về lời khai của bị can. Việc áp

dụng biện pháp này để kiểm tra lời khai
của bị can sẽ mang lại hiệu quả cao nếu
điều tra viên xác định đợc một cách
khoa học: Với tình tiết mà bị can khai
báo, biện pháp điều tra nào trong số các
biện pháp điều tra đợc quy định tại Bộ
luật tố tụng hình sự, dựa vào tính chất của
nó, cần đợc áp dụng là phù hợp nhất,
giúp cơ quan điều tra có cơ sở kiểm tra
lời khai của bị can một cách đáng tin cậy
nhất.
Thứ năm, tìm hiểu động cơ khai báo
của bị can. Thực tiễn hỏi cung bị can cho
thấy, việc bị can giữ thái độ nh thế nào
trong cuộc hỏi cung (thành khẩn khai báo
hay khai báo gian dối) đều xuất phát từ
những động cơ nhất định. Thông thờng,
khi bị can có thái độ ăn năn, hối hận về
hành vi mà mình đ thực hiện hoặc biết
rằng cơ quan điều tra đ có đầy đủ chứng
cứ chứng minh hành vi phạm tội của
mình và muốn giải thoát khỏi tình trạng
khủng hoảng về tinh thần hay muốn đợc
hởng sự khoan hồng của pháp luật thì lời
khai của bị can thờng trung thực, đáng
tin cậy (trừ trờng hợp nhầm lẫn bị động).
Khi việc khai báo của bị can bị chi phối,


nghiên cứu - trao đổi

Tạp chí luật học - 11

thúc đẩy bởi ý định che giấu hoặc làm
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với
hành vi mà bị can hoặc thân nhân, bạn bè
anh ta đ thực hiện trong thực tế, trả thù
đồng bọn hoặc cơ quan điều tra do những
hành vi mà bị can cho rằng bất công với
anh ta thì lời khai của bị can không thể
đáng tin cậy. Để tìm hiểu đợc động cơ
khai báo của bị can, điều tra viên cần chú
ý quan sát, thăm dò, đánh giá chính xác
những biểu hiện của bị can trong quá
trình điều tra và nhất là phải cố gắng thiết
lập đợc sự giao tiếp tâm lí giữa điều tra
viên và bị can, tạo ra bầu không khí tôn
trọng, hiểu biết, tin cậy lẫn nhau giữa
điều tra viên và bị can.
Tóm lại, những tình tiết mà bị can
khai báo có thể trở thành phơng tiện
quan trọng giúp điều tra viên tái tạo lại sự
kiện phạm tội đ xảy ra. Nhng khi lời
khai của bị can không đợc kiểm tra, xác
minh trớc khi sử dụng sẽ gây ra những
hậu quả nghiêm trọng cho quá trình điều
tra, làm rõ vụ án nh bỏ lọt tội phạm, làm
oan ngời vô tội, vi phạm pháp luật. Vì
vậy, trong quá trình điều tra, điều tra viên
cần dành sự quan tâm thỏa đáng để lựa
chọn và áp dụng các biện pháp phù hợp

để kiểm tra, xác minh lời khai của bị
can./.

(1). Hiện nay, ở nớc ta cha có số liệu thống kê xác
định tỉ lệ các trờng hợp bị can thành khẩn khai báo
và khai báo gian dối trong giai đoạn điều tra. Tham
khảo tài liệu của Cộng hòa liên bang Nga thì trong số
216 vụ án với 282 bị can đợc chọn ngẫu nhiên để
nghiên cứu, tỉ lệ đó là 34% và 64%. Xem: P.A.
Pêtrêlin, Lỗi - đối tợng của quá trình chứng minh -
Tạp chí t pháp xô viết. Số 12/1982, tr.18.
(2).Xem: Điều 241, Điều 242 Bộ luật hình sự.
Luật áp dụng trong
(tiếp theo trang 7)
xét xử tranh chấp và chọn luật cho tố
tụng trọng tài còn có sự khác nhau, đó là
nếu việc chọn luật áp dụng cho xét xử
tranh chấp bị chi phối bởi nguyên tắc
luật có quan hệ gần gũi với hợp đồng thì
việc chọn luật cho tố tụng trọng tài phụ
thuộc vào nguyên tắc nơi tọa lạc của
trọng tài. Việc tôn trọng những nguyên
tắc chọn luật cho trọng tài trên đây đ
làm cho hoạt động của trọng tài thơng
mại quốc tế đảm bảo tính công bằng và
hợp lí trong việc xét xử tranh chấp trong
giao dịch thơng mại quốc tế./.

(1).Xem: Michael Pryles, Legal issues Concerning
International Arbitration, (1990) 64 The Law

Journal, tr. 470.
(2).Xem: Michael Pryles, International Trade Law -
Commentary and Materials, LBC Information
Services, Melbourne, 1996, tr.649.
(3).Xem: Michael Pryles, Choice of Law Issues In
International Arbitration. (1997) 15 The Arbitrator,
The Journal of the Institute of Arbitrators Australia,
tr.260.
(4).Xem: Union of India v. McDonnell Douglas
Corporation. (1993) 2 Loyd's Rep, tr. 48.
(5).Xem: CIA Maritima Zorroza S.A v. Sesotris
S.A.E. (1984) 1 Loy's Rep, tr. 651.
(6).Xem: Vita Food Products Inc. v. Unus Shipping
Co. (1939) AC, tr. 277.
(7).Xem: Michael Pryles, 1996. Sđd, tr.673.
(8).Xem: D.M. Day, Bernardette Griffin, 1993, The
Law of International Trade, Butterworths, London,
Dublin, Edinburgh, tr.185.
(9).Xem: Okezie Chukwumerije, Mandatory Rule of
Law in International Commercial Arbitration,
(1993) 5, American Journal of International and
Comparative Law, tr.565.
(10).Xem: LewJ, Aplicable Law International
Commercial Arbitration: A Study in Commercial
Arbitration Awards, 1978, Oceana Publication, New
York, tr.536.
(11).Xem: Okezie Chukwumerije, (1993). Sđd, tr.561.
(12).Xem: Michael Pryles, 1996. Sđd, tr.653.
(13).Xem: Alan Redfern and Matin Hunter, 1991,
Law and Practice of International Commercial

Arbitration, Swet & Maxwell, London, tr.356.

×