Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo "Sửa bản án sơ thẩm theo điều 221 Bộ luật tố tụng hình sự " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.08 KB, 7 trang )



nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 39

Sửa bản án sơ thẩm
theo Điều 221 Bộ luật tố tụng hình sự

Hoàng Thị Sơn *
1. Theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự (BLTTHS), tòa án cấp phúc thẩm
xem xét những phần của bản án sơ thẩm
bị kháng cáo, kháng nghị. Đối với những


phần của bản án không bị kháng cáo,
kháng nghị, tòa án chỉ xem xét trong
trờng hợp cần thiết. Khi xét xử phúc
thẩm, tòa án cấp phúc thẩm có quyền
"sửa bản án sơ thẩm". Việc sửa bản án sơ
thẩm đợc quy định cụ thể ở Điều 221
BLTTHS:
"1. Tòa án cấp phúc thẩm có quyền
sửa bản án sơ thẩm nh sau:
a. Miễn trách nhiệm hình sự hoặc
miễn hình phạt cho bị cáo;
b. áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự

về tội nhẹ hơn;
c. Giảm hình phạt cho bị cáo;
d. Giảm mức bồi thờng thiệt hại và
sửa quyết định xử lí vật chứng.
2. Nếu có căn cứ, tòa án cấp phúc
thẩm có thể giảm hình phạt hoặc áp dụng
điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn
cho cả những bị cáo không kháng cáo
hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị.
3. Trong trờng hợp viện kiểm sát
kháng nghị hoặc ngời bị hại kháng cáo
yêu cầu thì tòa án cấp phúc thẩm có thể

tăng hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ
luật hình sự về tội nặng hơn; tăng mức
bồi thờng thiệt hại, nếu có kháng nghị
của viện kiểm sát hoặc kháng cáo của
ngời bị hại, nguyên đơn dân sự; nếu có
căn cứ, tòa án vẫn có thể giảm hình phạt,
áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội
nhẹ hơn và giảm mức bồi thờng thiệt
hại".
2. Số bị cáo đợc tòa án cấp phúc
thẩm xét xử và sửa án từ năm 1992 đến
năm 1996 đợc mô tả ở bảng (xem trang

sau).
Theo quy định trên thì tòa án cấp
phúc thẩm có thể sửa bản án sơ thẩm
trong 3 trờng hợp:
2.1. Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án
sơ thẩm theo hớng có lợi cho ngời bị
kết án khi có kháng cáo hoặc kháng nghị
theo hớng đó đối với họ.
Khoản 1 Điều 221 BLTTHS chỉ quy
định tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa
bản án sơ thẩm theo hớng trên nhng lại
không quy định căn cứ để sửa, trong khi

đây là vấn đề hết sức phức tạp, đặc biệt là
tòa án cấp tỉnh nhiều lúc đ hiểu và vận
dụng cha đúng với tinh thần của pháp
luật và còn nhiều ý kiến khác nhau về vấn
đề này. Theo chúng tôi, khoản 1 Điều 221
BLTTHS cần đợc hiểu nh sau:
- Trờng hợp thứ nhất: Tòa án cấp
phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hớng
miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình
phạt cho bị cáo khi có kháng cáo, kháng
nghị theo hớng đó.
* Giảng viên chính Khoa t pháp

Trờng đại học luật Hà Nội


nghiên cứu - trao đổi
40 - Tạp chí luật học

"Miễn trách nhiệm hình sự là không
buộc một ngời phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội mà họ đ phạm"
(1)
đó là
trờng hợp ngời thực hiện hành vi nguy

hiểm cho x hội có đầy đủ dấu hiệu của cấu
thành tội phạm cụ thể đợc quy định tại Bộ
luật hình sự (BLHS) nhng viện kiểm sát
hoặc tòa án thấy không cần thiết buộc họ
phải chịu trách nhiệm hình sự
(2)
. Miễn trách
nhiệm hình sự khác với không có trách
nhiệm hình sự, tức là trờng hợp hành vi
của bị cáo không cấu thành tội phạm, chỉ
đáng bị xử lí về hành chính. Căn cứ để miễn
trách nhiệm hình sự đợc quy định tại

khoản 1 Điều 48 BLHS bao gồm:
- Nếu khi tiến hành điều tra hoặc xét
xử, do sự chuyển biến của tình hình x
hội mà hành vi phạm tội không còn nguy
hiểm cho x hội nữa.
Đây là trờng hợp ở thời điểm tội
phạm xảy ra thì hành vi đó đợc coi là
nguy hiểm cho x hội nhng đến khi tội
phạm bị phát giác, trong quá trình điều
tra, xét xử, tình hình x hội đ thay đổi
nên hành vi đó không còn nguy hiểm cho
x hội nữa. Trờng hợp này viện kiểm sát

hoặc tòa án có thể quyết định miễn trách
nhiệm hình sự cho ngời phạm tội.
- Nếu khi tiến hành điều tra hoặc xét
xử, do sự chuyển biến của tình hình x
hội mà ngời phạm tội không còn nguy
hiểm cho x hội nữa, tức là ở thời điểm
xảy ra tội phạm mà họ thực hiện thì họ là
ngời nguy hiểm cho x hội nhng đến
thời điểm điều tra, xét xử thì tình hình x
hội thay đổi nên họ không đáng phải chịu
Tổng số án Tỉ lệ % Quyết định sửa bản án của tòa án
Năm đ xét xử Tăng án Giảm án Cải sửa, hình

phạt bổ sung

Vụ Bị cáo

Vụ Bị cáo

Bị cáo

% Bị cáo

% Bị cáo


%
1) Xét
xử phúc thẩm
của cấp tỉnh

1992 4163

6143

89,41

89,13


178 2,89

957 15,57

1285 20,47

1993 5248

8155

94,60


93,46

273 3,34

1118

13,70

1149 14,08

1994 4312


6607

90,60

91,16

201 3,04

842 12,74

888 13,44


1995 6083

8859

91,44

91,27

281 3,17

961 10,84


1149 12,96

1996 6654

10171

85,93

85,34

394 3,87


981 9,64

1417 13,93

Cộng 26460

39935

90,13

89,76


1327

3,32

4859

12,16

5861 14,67

2) Xét xử phúc thẩm

của TANDTC

1992 3659

6458

84,21

83,07

230 3,56


781 12,09

702 10,87

1993 3971

7226

82,42

82,66


464 6,42

815 11,27

406 5,61

1994 4399

7654

85,73


84,71

324 4,23

692 9,04

437 5,70

1995 4324

7368


72,52

67,41

344 4,66

719 9,57

424 5,75

1996 4902


8364

78,10

74,19

331 3,95

835 9,98

287 3,43


Cộng 21255

37070

80,11

77,63

1693

4,56


3842

10,36

2256 6,08




nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 41


trách nhiệm hình sự nữa. Do vậy, cơ quan
có thẩm quyền có thể quyết định miễn
trách nhiệm hình sự cho họ.
- Nếu trớc khi hành vi phạm tội bị
phát giác, ngời phạm tội đ tự thú, khai
rõ sự việc góp phần có hiệu quả vào việc
phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng
hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của
tội phạm.
Việc thực hiện chính sách khoan hồng
của Nhà nớc ta đối với những ngời
phạm tội ra tự thú phải căn cứ vào chính

sách hình sự; căn cứ vào tính chất, mức
độ của hành vi phạm tội, hậu quả tác hại
xảy ra; thái độ khai báo, hối lỗi và sự góp
phần vào việc phát hiện, điều tra tội
phạm của ngời ra tự thú. Theo quy
định hiện hành thì "ngời thực hiện hành
vi phạm tội nhng cha bị phát giác
không kể phạm tội gì, thuộc trờng hợp
nghiêm trọng hay ít nghiêm trọng mà tự
thú thì có thể đợc miễn trách nhiệm
hình sự hoặc đợc giảm nhẹ hình phạt
theo quy định tại Điều 38 BLHS"

(3)
.
"Miễn hình phạt là không buộc một
ngời phải chịu hình phạt về tội mà ngời
đó đ thực hiện"
(4)
. Theo khoản 2 Điều 48
BLHS, ngời phạm tội có thể đợc miễn
hình phạt trong trờng hợp phạm tội có
nhiều tình tiết giảm nhẹ đợc quy định tại
Điều 38 BLHS, đáng đợc hởng khoan
hồng nhng cha đến mức đợc miễn

trách nhiệm hình sự.
- Trờng hợp thứ hai: Tòa án cấp phúc
thẩm sửa bản án sơ thẩm bị kháng cáo,
kháng nghị theo hớng áp dụng điều
khoản BLHS về tội nhẹ hơn. BLTTHS
không quy định rõ thế nào là áp dụng
điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn nhng
trong thực tế, những trờng hợp áp dụng
điều khoản BLHS có lợi cho bị cáo đợc
coi là áp dụng điều khoản BLHS về tội
nhẹ hơn:
+ Đổi tội danh nặng thành tội danh

nhẹ;
+ Đổi điều khoản có khung hình phạt
nặng sang điều khoản có khung hình phạt
nhẹ;
+ Thêm một số tình tiết giảm nhẹ quy
định tại Điều 38 BLHS;
+ Bỏ một số tình tiết tăng nặng quy
định tại Điều 39 BLHS.
- Trờng hợp thứ ba: Tòa án cấp phúc
thẩm sửa bản án sơ thẩm bị kháng cáo,
kháng nghị theo hớng giảm hình phạt
cho bị cáo.

Nếu xét thấy mức hình phạt mà tòa án
sơ thẩm đ áp dụng đối với bị cáo quá
nặng so với tính chất và mức độ nghiêm
trọng của hành vi phạm tội, tòa án cấp
phúc thẩm có quyền quyết định hình phạt
nhẹ hơn hình phạt mà tòa án cấp sơ thẩm
đ tuyên đối với bị cáo. Tuy nhiên, khi
quyết định hình phạt cho bị cáo, trong
bản án phúc thẩm phải nêu rõ lí do của
việc giảm.
Trờng hợp tòa án cấp phúc thẩm
quyết định chuyển sang hình phạt khác

nhẹ hơn so với hình phạt mà tòa án sơ
thẩm đ áp dụng đối với bị cáo nh từ
hình phạt tù sang hình phạt cải tạo không
giam giữ thì đợc coi là giảm hình phạt.
Cũng cần lu ý rằng, trờng hợp tòa án
cấp sơ thẩm quyết định hình phạt tù đối
với bị cáo nhng tòa án cấp phúc thẩm lại
quyết định phạt tù cho hởng án treo thì
không đợc coi là giảm hình phạt, vì án
treo chỉ là biện pháp miễn chấp hành hình
phạt tù có điều kiện chứ không phải là



nghiên cứu - trao đổi
42 - Tạp chí luật học

hình phạt. Vậy trờng hợp này có đợc
coi là sửa bản án sơ thẩm không? Vấn đề
này không đợc quy định trong Điều 221
BLTTHS về việc sửa bản án sơ thẩm
nhng rõ ràng tòa án cấp phúc thẩm đ
quyết định khác với quyết định của bản
án sơ thẩm. Chúng tôi đồng ý với quan
điểm cho rằng đây là một trong những

trờng hợp tòa án cấp phúc thẩm sửa bản
án sơ thẩm
(5)
và đề nghị bổ sung thêm
một điểm nữa vào khoản 1 Điều 221
BLTTHS là "cho bị cáo hởng án treo".
- Trờng hợp thứ t: Tòa án cấp phúc
thẩm sửa bản án sơ thẩm bị kháng cáo,
kháng nghị theo hớng giảm mức bồi
thờng thiệt hại, tức là tòa án cấp phúc
thẩm quyết định mức bồi thờng thiệt hại
thấp hơn mức bồi thờng thiệt hại mà tòa

án cấp sơ thẩm đ quyết định nhng phải
tuân thủ các quy định khác của pháp luật
về bồi thờng thiệt hại do hành vi phạm
tội gây ra (Điều 609 - Điều 625 BLDS).
Trờng hợp ngời bị hại, nguyên đơn dân
sự, ngời đại diện hợp pháp của họ vắng
mặt tại phiên tòa có lí do chính đáng (nếu
họ kháng cáo tăng mức bồi thờng) thì
tòa án cấp phúc thẩm không đợc sửa bản
án sơ thẩm về việc giảm mức bồi thờng.
- Trờng hợp thứ năm: Tòa án cấp
phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hớng

sửa quyết định xử lí vật chứng. Vật chứng
là những vật thể mà dựa vào chúng, cơ
quan tiến hành tố tụng có thể xác định
những sự kiện có ý nghĩa đối với việc giải
quyết đúng đắn vụ án hình sự. Trong quá
trình xét xử phúc thẩm, tòa án cấp phúc
thẩm có quyền sửa quyết định xử lí vật
chứng nếu thấy bản án sơ thẩm quyết
định xử lí vật chứng không đúng với quy
định tại Điều 58 BLTTHS. Tòa án cấp
phúc thẩm có quyền quyết định xử lí vật
chứng cho đúng với quy định của pháp

luật, không phụ thuộc vào việc có hay
không có kháng cáo, kháng nghị đối với
bản án sơ thẩm về việc xử lí vật chứng
(6)
.
2.2. Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án
sơ thẩm theo hớng có lợi (giảm hình
phạt, áp dụng điều khoản BLHS về tội
nhẹ hơn) cho những bị cáo không kháng
cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng
nghị.
Khi xét xử phúc thẩm, tòa án cấp

phúc thẩm trớc hết xem xét nội dung
kháng cáo, kháng nghị, "nếu xét thấy cần
thiết thì tòa án cấp phúc thẩm có thể xem
xét các phần khác không bị kháng cáo,
kháng nghị của bản án"
(7)
. Đó là phạm vi
xét xử phúc thẩm theo quy định của
BLTTHS. Điều này có nghĩa là tòa án cấp
phúc thẩm không buộc phải xem xét
nhng có thể xem xét nếu xét thấy cần
thiết. Trờng hợp này, tòa án cấp phúc

thẩm chỉ đợc quyết định theo hớng
không làm xấu đi tình trạng của bất cứ ai,
đó là giảm hình phạt hoặc áp dụng điều
khoản BLHS về tội nhẹ hơn cho bị cáo
không có kháng cáo hoặc không bị kháng
cáo, kháng nghị.
2.3. Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án
sơ thẩm theo hớng không có lợi cho
ngời bị kết án khi có kháng cáo, kháng
nghị theo hớng đó đối với họ.
Vấn đề này đợc quy định tại khoản 3
Điều 221 BLTTHS. Cũng nh trờng hợp

sửa bản án sơ thẩm theo hớng có lợi cho
ngời bị kết án, trờng hợp này điều luật
chỉ quy định quyền hạn của tòa án cấp
phúc thẩm mà không quy định căn cứ để
sửa, do vậy hiện nay có nhiều vớng mắc
trong việc áp dụng. Theo chúng tôi, vấn


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 43

đề này đợc hiểu nh sau:

Thứ nhất, tòa án cấp phúc thẩm sửa
bản án sơ thẩm theo hớng áp dụng điều
khoản BLHS về tội nặng hơn cũng nh áp
dụng điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn.
Những trờng hợp áp dụng điều khoản
BLHS không có lợi cho bị cáo là trờng
hợp áp dụng điều khoản BLHS về tội
nặng hơn:
- Chuyển khung hình phạt có mức
hình phạt nhẹ sang khung hình phạt có
mức nặng hơn;
- Chuyển tội danh nhẹ sang tội danh

nặng hơn
(8)
;
- áp dụng thêm tình tiết tăng nặng.
Thực tiễn xét xử phúc thẩm cho thấy,
do chỉ quy định chung chung mà không
có căn cứ rõ ràng, cụ thể đồng thời trình
độ hiểu biết pháp luật của nhân dân còn
hạn chế nên phần lớn họ chỉ kháng cáo
yêu cầu tăng hình phạt khi thấy tòa án
cấp sơ thẩm xử phạt nhẹ chứ ít khi họ biết
kháng cáo yêu cầu áp dụng điều khoản

BLHS về tội nặng hơn. Do vậy, trong
nhiều trờng hợp, mặc dù chỉ có kháng
cáo của ngời bị hại hoặc kháng nghị của
viện kiểm sát yêu cầu tăng hình phạt
nhng hội đồng xét xử phúc thẩm vẫn áp
dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn.
Quyết định nh vậy là trái với khoản 3
Điều 221 BLHS. Theo Thông t liên
ngành số 01/TTLN ngày 08/12/1988 của
Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát
nhân dân tối cao - Bộ nội vụ (nay là Bộ
công an) hớng dẫn áp dụng một số quy

định của BLTTHS thì nếu viện kiểm sát
kháng nghị hoặc ngời bị hại kháng cáo
chỉ yêu cầu tăng hình phạt thì tòa án cấp
phúc thẩm không đợc sửa bản án sơ
thẩm về áp dụng điều khoản BLHS về tội
nặng hơn, trừ trờng hợp việc tăng hình
phạt dẫn đến việc áp dụng điều khoản
BLHS về tội nặng hơn.
Thứ hai, tòa án cấp phúc thẩm sửa bản
án sơ thẩm theo hớng tăng hình phạt đối
với bị cáo. Trờng hợp này nói chung
không có gì vớng mắc khi áp dụng

nhng cũng cần lu ý rằng cùng một hình
phạt thì nặng, nhẹ căn cứ vào mức của
hình phạt. Hình phạt khác nhau thì đánh
giá nặng nhẹ căn cứ vào tính chất của
hình phạt, căn cứ vào khung hình phạt từ
tử hình, tù chung thân, tù có thời hạn đến
phạt tiền, cảnh cáo.
Cũng tơng tự nh trờng hợp thứ
nhất, nếu viện kiểm sát kháng nghị, ngời
bị hại kháng cáo chỉ yêu cầu áp dụng
điều khoản BLHS về tội nặng hơn đối với
bị cáo mà không yêu cầu tăng nặng hình

phạt thì tòa án cấp phúc thẩm chỉ sửa bản
án sơ thẩm về việc áp dụng điều khoản
BLHS về tội nặng hơn mà không đợc
tăng hình phạt đối với bị cáo.
Thứ ba, tòa án cấp phúc thẩm sửa bản
án sơ thẩm theo hớng tăng mức bồi
thờng thiệt hại, tức là tòa án cấp phúc
thẩm quyết định mức bồi thờng thiệt hại
cao hơn mức bồi thờng thiệt hại mà tòa
án cấp sơ thẩm đ quyết định nếu có
kháng nghị của viện kiểm sát hoặc kháng
cáo của ngời bị hại hay nguyên đơn dân

sự. Khi xét xử phúc thẩm, những ngời
này phải đợc tòa án cấp phúc thẩm triệu
tập tham gia phiên tòa. Nếu họ vắng mặt
có lí do chính đáng thì tòa án vẫn có thể
tiến hành xét xử nhng không đợc ra
bản án hoặc quyết định không có lợi cho
họ. Trờng hợp cần phải xử tăng mức bồi
thờng thiệt hại mà họ vắng mặt có lí do
chính đáng thì tòa án cấp phúc thẩm phải


nghiên cứu - trao đổi

44 - Tạp chí luật học

hon phiên tòa.
3. Qua nghiên cứu quy định về việc
sửa bản án sơ thẩm tại Điều 221 BLTTHS
và thực tiễn áp dụng quy định này, chúng
tôi thấy tòa án cấp phúc thẩm còn sửa bản
án sơ thẩm theo hớng từ không có tội
thành có tội theo kháng nghị của viện
kiểm sát hoặc kháng cáo của ngời bị hại.
Do nhận thức thiếu thống nhất trong quá
trình xét xử về việc áp dụng khoản 3 Điều

221 BLTTHS nên có trờng hợp tòa án
cấp sơ thẩm tuyên bị cáo không phạm tội,
khi xét xử phúc thẩm thì tòa án cấp phúc
thẩm lại tuyên bị cáo có tội. Tòa án nhân
dân tối cao đ kháng nghị đối với một số
bản án phúc thẩm nói trên và Tòa hình sự
Tòa án nhân dân tối cao đ xét xử giám
đốc thẩm, chấp nhận kháng nghị, hủy bản
án phúc thẩm và bản án sơ thẩm để xét xử
lại ở cấp sơ thẩm theo hớng kết tội bị
cáo
(9)

. Vấn đề này hiện có nhiều ý kiến
khác nhau:
- ý kiến thứ nhát cho rằng việc tòa án
cấp phúc thẩm sửa "không thành có"
không chỉ vi phạm khoản 3 Điều 221
BLTTHS mà còn vi phạm nguyên tắc hai
cấp xét xử và tớc mất quyền kháng cáo
của những ngời tham gia tố tụng và
quyền kháng nghị của viện kiểm sát.
Trong trờng hợp này, tòa án cấp phúc
thẩm chỉ có thể y án sơ thẩm và kiến nghị
cấp giám đốc thẩm xem xét lại.

- ý kiến thứ hai cho rằng tòa án cấp
phúc thẩm không có quyền sửa "không
thành có" trong trờng hợp này mà chỉ có
thể hủy án sơ thẩm để xét xử lại theo
trình tự sơ thẩm nhằm đảm bảo chế độ
hai cấp xét xử chứ không cần báo cáo cấp
giám đốc thẩm xem xét
(10)
.
- ý kiến thứ ba cho rằng tòa án cấp
phúc thẩm tuyên bị cáo có tội theo kháng
cáo của ngời bị hại hoặc kháng nghị của

viện kiểm sát nếu có căn cứ để kết tội bị
cáo. Giải quyết theo cách này vẫn đảm
bảo nguyên tắc tố tụng và quyền bào chữa
cũng nh quyền kháng cáo của bị cáo, vì
quyền này đ đợc thực hiện đầy đủ ở cấp
sơ thẩm và phúc thẩm. Hơn nữa, theo
Điều 225 BLTTHS thì "ngời đợc tòa án
tuyên là vô tội cũng có quyền kháng cáo
lí do bản án sơ thẩm đ tuyên là họ
không có tội".
Theo số liệu thống kê của Vụ kiểm sát
xét xử hình sự Viện kiểm sát nhân dân tối

cao thì vào thời gian từ 21/11/1995 đến
20/5/1997, thống kê về số bản án do cấp
sơ thẩm tuyên bị cáo không phạm tội
nhng khi xét xử phúc thẩm, tòa án cấp
phúc thẩm lại tuyên bị cáo có tội là
(11)
:
Trong các vụ án nói trên, có trờng
hợp bị cáo bị tòa án cấp sơ thẩm tuyên
không phạm tội nhng tòa án cấp phúc
thẩm tuyên 20 năm tù.
Theo chúng tôi, nếu căn cứ vào khoản 3

Điều 221 BLTTHS hiện hành thì tòa án cấp
phúc thẩm không có quyền sửa "không
thành có" nhng trờng hợp này có thể coi là
kháng cáo, kháng nghị theo hớng không có
lợi cho ngời bị kết án, vì vậy, việc tòa án
Tòa án Số bị cáo đ xử tuyên
không có tội
Số bị cáo kháng cáo,
kháng nghị
Số bị cáo bị tòa án cấp phúc
thẩm tuyên có tội
Cấp huyện 59 43 22

Cấp tỉnh 74 36 17

Mấy ý kiến
về


(tiếp theo trang 34)
động hoàn toàn không vì thế mà thay đổi
và họ phải đợc pháp luật lao động bảo
vệ nh các trờng hợp bình thờng khác.
Nói nh vậy không có nghĩa là
nguyên tắc "quan hệ lao động thực tế"

nêu trên đều đợc áp dụng trong mọi
trờng hợp. Có thể có hai trờng hợp
ngoại lệ sau đây:



nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 45

cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo hớng
kết tội sẽ làm cho việc giải quyết vụ án đợc
nhanh chóng, tránh tình trạng phải xét xử lại

ở nhiều cấp mà vẫn đảm bảo đợc các
nguyên tắc tố tụng và quyền của bị cáo. Do
vậy chúng tôi đề nghị bổ sung thêm vào
khoản 3 Điều 221 BLTTHS nội dung nữa là:
"Trong trờng hợp viện kiểm sát kháng
nghị thì tòa án cấp phúc thẩm có thể tăng
hình phạt, áp dụng điều khoản BLHS về tội
nặng hơn, tăng mức bồi thờng thiệt hại, kết
tội và tuyên hình phạt đối với bị cáo đợc tòa
án cấp sơ thẩm tuyên không có tội hoặc
miễn trách nhiệm hình sự hay miễn hình
phạt nếu có kháng nghị của viện kiểm sát

hoặc kháng cáo của ngời bị hại, nguyên
đơn dân sự".

(1).Xem: Trờng đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật
hình sự phần chung. Nxb. CAND H.1997, tr.242.
(2).Xem: Đinh Văn Quế, Thủ tục phúc thẩm trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam. Nxb. CTQG, H.1998,
tr.103.
(3). Xem: Thông t liên ngành số 05/TTLN ngày
2/6/1990.
(4).Xem: Giáo trinh luật hình sự phần chung, Sđd,
tr.276.

(5).Xem: Giáo trình luật hình sự phần chung, Sđd,
tr.109
(6).Xem: Trờng đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật
tố tụng hình sự. Nxb. CAND, H.1999, tr.276.
(7).Xem: Điều 214 Bộ luật tố tụng hình sự.
(8). Theo Thông t số 19/TT ngày 2/10/1974 của Tòa
án nhân dân tối cao thì "không coi là sửa theo tội
danh nặng hơn nếu tội danh xử ở cấp phúc thẩm cùng
tính chất, cùng loại và khung hình phạt tơng đơng
với tội danh ở cấp sơ thẩm".
(9),(11).Xem: Tạp chí kiểm sát, số 7/1999, tr.23.
(10).Xem: Đinh Văn Quế, Pháp luật, thực tiễn và án

lệ. Nxb. Đà Nẵng, 1998, tr.36.

×