Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

một số biện pháp khai thác cái đẹp trong thơ trữ tình xuân diệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.13 KB, 18 trang )

Cấu trúc[sửa]
Cấu trúc ẩn dụ, theo I. A. Richards[1] trong cuốn Tu từ học (The Philosophy of Rhetoric, 1936),
bao gồm hai phần: ý nghĩa và phương tiện biểu lộ. Ý nghĩa là điều ẩn chứa bên trong chủ thể.
Còn phương tiện là thứ mà chủ thể dùng để truyền tải ý nghĩa. Cũng ám chỉ đến hai phần trên
nhưng một số nhà văn thì lại lấy hai tên khác đặt cho chúng đó là nền tảng và lý luận. Có thể lấy
ví dụ trong đoạn độc thoại All the world's a stage[2] trích từ tác phẩm As You Like It[3]:
All the world's a stage,
And all the men and women merely players;
They have their exits and their entrances; — (William Shakespeare, As You Like It, 2/7)
Tạm dịch là:
Thế giới chỉ như là sân khấu,
Và con người ta chỉ là những diễn viên;
Chỉ đi ra hoặc đi vào sân khấu; - (William Shakespeare, As You Like It, 2/7)

Ngôn từ và phân loại chi tiết[sửa]
Nhìn chung thì lối ẩn dụ được coi là sinh động và có tính chủ động hơn lối suy diễn thông
thường (trong khi lối ẩn dụ dùng với hai chủ thể có những điểm tương đồng thì lối suy diễn lại
dùng cho hai chủ thể tương đối độc lập). Một số các phương pháp tu từ khác cũng dùng để so
sánh các sự vật như là phép hoán dụ, phép so sánh, cách nói bóng gió hay kể cả chuyện ngụ ngơn
bởi chúng có khá nhiều nét chung với lối ẩn dụ mặc dù cũng có một đơi nét khác biệt trong cách
mà sự vật được so sánh.[1]
Một cách khái qt nhất thì ẩn dụ có thể chia làm các loại sau:


ngụ ngôn: là cách sử dụng các câu truyện để truyền đạt ý nghĩa.



nói lái: là cách pha trộn các lối ẩn dụ (do tự nghĩ ra hoặc tình cờ dùng sai phép tu từ)




dùng tục ngữ: là một lối dùng tu từ khá nâng cao, bằng cách dùng một số câu thơ, vè,...
để dạy hoặc truyền đạt một bài học ý nghĩa.

Các loại chung[sửa]
Phân loại chi tiết[sửa]
Các loại khác[sửa]

Lịch sử trong văn học và ngôn ngữ[sửa]


Trong ngôn ngữ học cổ[sửa]
Trong nhân xưng học (khoa học nghiên cứu các tên riêng), hay khái quát lên là trong ngôn ngữ
học cổ, ẩn dụ được định nghĩa là sự thay đổi về ngữ nghĩa dựa trên những nét tương đồng, đó là
những nét tương đồng về cấu tạo hoặc chức năng giữa khái niệm gốc, được gọi bằng một từ
riêng và khái niệm cần diễn đạt, được gọi bằng từ khác. Ví dụ (xem phần Phân loại (theo văn
phong Tiếng Việt)).

Phân loại (theo văn phong Tiếng Việt)[sửa]
(nếu có thể bạn hãy dịch bài theo chứ đừng trích nguồn
khác) Dựa trên tính giống nhau mà lối ẩn dụ áp dụng, có thể chia ẩn dụ thành các kiểu sau:


Giống nhau về hình thức: Vì mũi là một bộ phận cơ thể có dạng nhọn nên có thể gọi các
bộ phận nhọn của các sự vật là mũi: mũi thuyền, mũi dao, mũi kim... hoặc như răng lược,
lá cờ, lá bài, cánh tay...



Giống nhau về màu sắc: Ví dụ như màu da trời, màu da cam, màu cánh sen...




Giống nhau về chức năng: trước đây đèn chủ yếu thắp bằng dầu, sau này các loại khác
cũng được gọi bằng đèn như đèn pin, đèn điện...



Giống nhau về thuộc tính nào đó: khơ là tính chất ít hoặc khơng có nước, từ đó có thể nói
lời nói khơ; hoặc mực và thước là dụng cụ nghề mộc để lấy các đường thẳng, từ đó có
anh ấy là con người mực thước, tức là con người thẳng thắn, đúng đắn.



Giống nhau về đặc điểm bề ngồi nào đó: Thị Nở là nhân vật xấu xí trong truyện ngắn
Chí Phèo, phụ nữ xấu có thể gọi là Thị Nở. Hoặc người phụ nữ hay ghen có thể gọi là
Hoạn Thư.



Giống nhau về nghĩa nhưng có sự trừu tượng hóa: hạt nhân cụ thể chỉ phần trung tâm của
quả, có thể mang ý nghĩa trừu tượng để chỉ khái niệm trung tâm; hoặc như nắm con át
chủ bài, sục sôi căm thù...



Gọi tên con vật để chỉ người: ví dụ như đồ rắn độc, con mèo của anh...




Chuyển tính chất của một vật sang một vật khác: gió gào thét, thời gian trơi mau...

Nói chung, ẩn dụ có thể xuất hiện ở danh từ (mũi, lá...), động từ (nắm, gào thét...) hoặc tính từ
(khô...)


Một số biện pháp khai thác cái đẹp trong thơ trữ tình Xn Diệu Phạm Thị Nghê ­ Văn 4B ­ K 48 

PHẦN MỞ ĐẦU 
"Đẹp đối với chúng ta cần thiết như ánh sáng, 
như khí trời, như cơm ăn áo mặc. 
Đẹp là một điều chúng ta gặp hàng ngày" 
­ Vị Kiêu ­ 
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 
1. Lý do khách quan 
Xn Diệu là nhà thơ tiêu biểu cho phong trào Thơ Mới giai đoạn 
1930 ­ 1945. Ơng hồng của thơ tình Êy đã đốt lịng ham muốn của mình 
thành ngọn lửa tình u khơng bao giê tắt. Trước sau, Xn Diệu ln 
ln thể hiện cái tơi trữ tình khao khát giao cảm của một tâm hồn cơ đơn, 
của một tấm lịng "đìu hiu như dặm khách" . Thơ ơng đã thể hiện một 
quan điểm mới mẻ và độc đáo về cái đẹp. Cái đẹp trong thơ trữ tình Xn 
Diệu là sự kết tinh cái đẹp của tinh thần dân téc và cái đẹp của thời đại. Vẻ 
đẹp con người và cuộc sống trần thế đã khơi nguồn cho mọi cảm hứng 
sáng tạo trong thơ ơng. Chính điều đó đã góp phần nâng cao và khẳng 
định vị trí lớn lao của Xn Diệu trong nền văn học Việt Nam thế kỉ XX. 
Cái đẹp trong thơ trữ tình Xn Diệu là cái đẹp của lý tưởng thẩm mỹ, 
bắt nguồn từ sự phong phú, hội nhập trong hồn thơ mn hình vạn trạng 
của sự sống, những say đắm tha thiết chưa từng có ở chèn "nước non lặng 
lẽ này". Đó là cái đẹp của sự trau chuốt nghệ thuật, thể hiện qua những 
phương thức phản ánh cuộc sống một cách nhuần nhuyễn có sự kết hợp 

Đơng ­ Tây, kim ­ cổ và tạo nên một phong cách "mới nhất trong các nhà 
Thơ Mới". Cái đẹp mang tính lịch sử xã hội là cái đẹp khơi dậy ý thức cá 
nhân của cái tơi độc đáo trong thơ trữ tình Xn Diệu 1930 ­ 1945. Cái 
đẹp có sức mạnh cản hố và làm say đắm lịng người mọi thế hệ. 
Tác phẩn của Xn Diệu chiễm số lượng khá lớn trong chương trình 
văn líp 11 nhưng việc đánh giá thơ trữ tình Xn Diệu cũng chưa thống 
nhất và mới chỉ là những định hướng ban đầu. Vì thế để hướng cho học 

Mở đầu 
Chủ nghĩa lãng mạn bắt đầu xuất hiện lần đầu tiên trong văn chương bằng 
những tác phẩm văn học Pháp vào thế kỉ thứ XIX. Sau đó, nó ngày càng trở nên 


phbintrongcỏctỏcphmvnchng.Vtheothigian,bngnhngtỏcphm
sutsccamỡnh,chnghalóngmnngycngkhngnhcvtrớ,nhng
únggúpcamỡnhivinnvnhcnúichung.
Mttrongnhngcimnibtnht,mangmdunriờngcach
nghalóngmnchớnhlviccaochnghacỏnhõn,caocỏitụirtriờng
canhththayvỡcỏitachungtrongchnghacin.Lnutiờn,nhngý
thccỏnhõn,nhngquanim,khuynhhngthmm,xỳccm,conmtcỏnhõn
ccaovccoinhltrungtõmcavnchng.Nhnghsmnhdn
bythỡnhnhcachớnhmỡnh,amtcỏiTụinhõnvtrtmnộtvotrong
vnchng.
Nhcnchnghalóngmn,cúthktờnhnglotlotcỏctỏcgi,tỏc
phmtiờubiunh:RenộcaFranỗoisưRenộdeChateaubriand;Alphonsede
LamartinevitpthTrmt;AlfreddeMussetvitruynngnLibcbchca
nhngaconthii;GeorgeSandvitiuthuytCỏimma;VictorHugovi
tpthTiasỏngvbúngti,tiuthuytNhthcbParis,Nhngngikhn
kh,kchHernani.
VivnhcVitNam,chnghalóngmnthcsmangdunmnột

saukhisraicaphongtroThmi1932ư1945.õylgiaionmvn
hcVitNamcúsimi,cỏchtõnvụcựngkỡdiu,cúschinumónhlit
giayutcưyutmivktqulhanglotnhngtỏcgi,tỏcphmni
tingórai,emnmthith,mttingnúirtriờng,mtlunggiúmi
lchonnvnhcncnh.

n d (mộtaphore) a trờn tng quan tng ng, l thay thế một khái niệm bằng một khái
niệm khác, trên căn bản so sánh ngầm, nhưng vế bị so sánh và liên từ để so sánh đã bị xóa, chỉ
cịn lại vế đem ra so sánh. Ví dụ: Anh như con thuyền, em như cái bến trở thành:


Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
(Ca dao)
Ẩn dụ là lối tạo hình cổ điển xuất hiện thường xuyên trong ngôn ngữ. Nhưng ẩn dụ dùng quen dễ
thành nhàm, sáo, phải thay đổi, phải luôn luôn làm mới. Sự biến đổi không ngừng của ẩn dụ giải
thích những tiến hóa của tiếng lóng, ký hiệu ngôn ngữ riêng của một thành phần xã hội (hoặc
nghề nghiệp), chỉ người trong bọn mới hiểu nổi. Tiếng lóng dùng quen sẽ "lộ" và bị đào thải.
Trở lại địa hạt văn chương, nhà văn, nhà thơ vẫn có thể cách tân những ẩn dụ đã "sáo mòn" bằng
cách tạo một hình ảnh mới. Ví dụ: chim sa, cá lặn là những hình ảnh rất cổ điển ca tụng vẻ đẹp
của người đàn bà. Nhưng:
Chìm đáy nước, cá lừ đừ lặn
Lửng da trời, nhạn ngẩn ngơ sa
(Cung oán)
lại khác. Những trạng từ lừ đừ, ngẩn ngơ tạo một tâm cảm cho cá, nhạn, biến chúng thành những
nhân tố có tâm hồn, đã bị sắc đẹp quyến rũ, lôi cuốn, làm say sưa mê hoặc đến độ "ngẩn ngơ, lừ
đừ". Ngoài ra cá lặn, nhạn sa chỉ là những động tác chính xác, có tính cách khơng gian.
Nhưngcá lừ đừ lặn, nhạn ngẩn ngơ sa thì khác: ở đây có thêm yếu tố thời gian lạc vào; những
trạng từ lừ đừ, ngẩn ngơ láy âm bâng khuâng, man mác, vừa vang âm trong không gian, vừa kéo
dài trong thời gian, vừa phôi pha ý nghĩa. Chúng tôi sẽ trở lại vai tò của từ láy trong chương

VIII.
Với những ẩn dụ cổ điển: chim sa, cá lặn có tính cách chính xác và thuần túy khơng gian ấy, Ơn
Như Hầu đã cách tân, tạo thêm cho ngơn ngữ những chiều kích mới: chiều dài của thời gian,
chiều sâu của tâm tư và dàn trải trong chiều rộng nhập nhòe của ngữ nghĩa.

ẨN DỤ: là biện pháp dùng tên gọi của đối tượng này làm tên gọi của đối tượng khác dựa trên sự liên
tưởng về mối tương đồng giữa hai đối tượng về mặt nào đó (như màu sắc, tính chất, trạng thái, vv.).
+ Dựa vào chức năng, có thể chia ẩn dụ thành ba loại:
1) ÂD định danh cung cấp những tên gọi mới bằng cách dùng vốn từ cũ. Vd. đầu làng, chân trời, tay ghế,
mạng lưới giao thông, làn sóng đấu tranh, vv.
2) ÂD nhận thức, là nguồn tạo nên hiện tượng đa nghĩa. Vd. tâm hồn giá lạnh, tuổi xuân mơn mởn, cuộc
sống lênh đênh, vv. Hai loại ÂD này đều ít có giá trị tu từ.
3) ÂD hình tượng hoặc ÂD tu từ là phương tiện diễn đạt có giá trị hình tượng, có sức mạnh biểu cảm. ÂD
tu từ được dùng trong văn chính luận cũng như trong thơ ca đặc biệt là thơ trữ tình.
- Vd. "Hoa" mang ý nghĩa ÂD, chỉ người phụ nữ có nhan sắc, trong câu: "Giá đành trong nguyệt trên mây,
Hoa sao hoa khéo đoạ đầy bấy hoa" (Truyện Kiều).
* HOÁN DỤ: là biện pháp dùng tên gọi của đối tượng này thay thế cho tên gọi của đối tượng khác trên cơ
sở liên tưởng mối liên hệ lôgic khách quan giữa hai đối tượng.
- Trong tiếng Việt, dùng tên gọi của cái bộ phận để chỉ cái toàn thể (vd. nhà có ba miệng ăn), dùng tên gọi
cái cụ thể để chỉ cái trừu tượng (vd. bàn tay vàng), dùng tên riêng để chỉ tính cách, đặc trưng (vd. Sở
Khanh)... là những HD.
* SO SÁNH : so sánh nói chung là sự xem xét, đối chiếu cái này với cái kia để thấy sự giống nhau, khác


nhau, hơn kém nhau.
+ Trong văn học thì SS. là biện pháp tu từ dùng đối tượng này để làm nổi bật đặc trưng của đối tượng
khác. SS gồm hai vế: vế được so sánh và vế dùng để so sánh.
Vd.
" Cổ tay em trắng như ngà
Con mắt em sắc như là dao cau

Miệng cười như thể hoa ngâu
Chiếc khăn đội đầu như thể hoa sen

III- ẨN DỤ và HOÁN DỤ
ẨN DỤ (metaphor)
Theo cách hiểu truyền thống, ẩn dụ (tiếng Hi Lạp μεταφορά - nghĩa là sự chuyển) sự chuyển tên gọi dựa
trên cơ sở sự giống nhau của sự vật về màu sắc, hình dạng, tính chất vận động v.v. Nói rộng ra, ẩn dụ là
cơ chế của lời nói thể hiện trong cách dùng từ biểu hiện một lớp sự vật, hiện tượng nào đó v.v. để định
tính hoặc gọi tên những đối tượng thuộc một lớp khác, hoặc gọi tên một lớp đối tượng khác tương đồng
với lớp đã cho trong một quan hệ nào đó. Thuật ngữ "ẩn dụ" được áp dụng cho bất cứ cách dùng từ nào
với nghĩa bóng. Ví dụ:
“Tổ quốc ta như một con tàu
Mũi thuyền ta đó – Mũi Cà Mau”. (Xuân Diệu)
“Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hơm sau”. (Hồ Chí Minh)
Ẩn dụ là một dạng rất phổ biến của phép chuyển nghĩa, ở đó những từ hoặc biểu thức riêng lẻ xích gần
lại với nhau do có sự giống nhau hoặc tương phản nhau về nghĩa. Ẩn dụ được cấu tạo theo nguyên tắc
nhân hoá, vật hoá, trừu tượng hoá v.v. Ẩn dụ tăng cường tính biểu cảm của lời nói.
Lịch sử triết học chứng kiến hai quan điểm hoàn toàn trái ngược nhau về khả năng sử dụng ẩn dụ.
Các nhà triết học duy lí chủ nghĩa người Anh cho rằng lời nói trước hết phục vụ cho việc biểu đạt tư
tưởng và truyền đạt kiến thức, và để thực hiện chức năng này chỉ cần những từ được dùng với nghĩa
đen. Nhà triết học Anh Т. Hobbes[7] gọi ẩn dụ là "đám ma trơi" và ông tin rằng sử dụng ẩn dụ nghĩa là "đi
lạng quạng giữa vô số những điều xằng bậy" (thực ra chính ơng cũng khơng thể khơng dùng ẩn dụ). Một
triết gia Anh J. Locke[8] - ơng cịn được mệnh danh là "lãnh tụ tri thức" - cho rằng việc dùng từ một cách
hình ảnh gây ra những tư tưởng ngụy tạo và làm sai lạc sự suy nghĩ. Nhiều nhà triết học, nhiều học giả
theo chủ nghĩa kinh nghiệm và thực dụng khơng đồng tình với việc sử dụng ẩn dụ trong các cơng trình khoa
học. Họ đánh đồng việc dùng ẩn dụ với việc gây ra tội phạm (to commit a metaphor và to commit a crime).
Các nhà triết học và các học giả thuộc típ lãng mạn thì ngược lại, họ cho ẩn dụ là phương thức duy nhất
không những để biểu hiện tư tưởng, mà còn biểu hiện bản thân tư duy. Chẳng hạn, F. Nietzsche[9], một
trong những nhà sáng lập ra Triết học cuộc sống - cho rằng giữa chủ thể và khách thể có mối quan hệ mĩ

học được biểu hiện bằng ẩn dụ. Do vậy không thể nào ngăn cấm con người sáng tạo ra ẩn dụ. Ông nhấn
mạnh rằng sự nhận thức về nguyên tắc là mang tính ẩn dụ. Khơng có ẩn dụ chúng ta mất đi khả năng
tranh luận về chân lí.
Tóm tắt một số quan điểm truyền thống về ẩn dụ:
Những quan điểm truyền thống về ẩn dụ được trình bày trong các cơng trình của Вain 1887, Вагfie1d 1962,
Вlасk 1969, Соhen 1975, Empsоn 1935, Gооdman 1968, Henle 1958, Murry 1931, Verbrugge và Carrell
1977 v.v. Donald Davidson đã tóm tắt và phê phán các quan điểm đó, đồng thời phát biểu cách hiểu riêng
của mình về ẩn dụ trong một bài báo có tựa đề "What Metaphors Mean" (Ẩn dụ nghĩa là gì) đăng trong
"Critical Inquiry", 1978, № 5.
Davidson (1978) định nghĩa: "Ần dụ là giấc mơ của ngơn ngữ (dreamwork of language)". Ơng cho rằng
việc luận giải các giấc mơ địi hỏi phải có sự hợp tác của người nằm mơ và của người luận giải ngay cả
khi người nằm mơ và người luận giải là một người. Việc luận giải các ẩn dụ cũng đúng như thế. Nó mang


trong mình dấu ấn của cả người sáng tạo và của cả người luận giải. Sự thấu hiểu (cũng như sự sáng tạo
ra nó) là kết quả của những cố gắng sáng tạo: nó ít khi phục tùng các quy tắc.
Ẩn dụ thường gặp không những trong các tác phẩm văn học, mà còn trong khoa học, triết học, trong luật
pháp, nó rất hiệu quả trong việc khen, chê, hứa hẹn, tâng bốc, sỉ nhục v.v.
1. Ần dụ và phép so sánh. Lí thuyết nghĩa hình ảnh của ẩn dụ: nghĩa hình ảnh của ẩn dụ là nghĩa đen
của sự so sánh tương ứng (simile). Lí thuyết này khơng phân biệt ý nghĩa của ẩn dụ và ý nghĩa so sánh
tương ứng với nó và khơng cho phép nói về ý nghĩa hình ảnh hoặc ý nghĩa đặc biệt của ẩn dụ.
Những lí thuyết về ẩn dụ bao gồm thuyết so sánh (so sánh tương ứng, so sánh tỉnh lược hoặc rút gọn),
thuyết san bằng ý nghĩa hình ảnh của ẩn dụ với nghĩa đen của sự so sánh đều có cùng một khiếm
khuyết chung lớn: chúng biến ý nghĩa ở chiều sâu, không hiện rõ của ẩn dụ thành quá rõ ràng, quá dễ
hiểu. Trong mỗi trường hợp cụ thể, ý nghĩa hàm ẩn của ẩn dụ có thể phát hiện bằng cách chỉ ra sự so
sánh tầm thường kiểu như "Cái này giống cái kia" ("Anh ta giống một đứa trẻ", "Trái đất giống cái đĩa").
Cách so sánh như thế này là tầm thường bởi vì cái gì mà chẳng giống cái gì? Trong khi đó ẩn dụ thường
là rất khó thuyết giải và phỏng theo.
D. Goldman cho rằng sự khác nhau giữa so sánh và ẩn dụ khơng đáng kể... Chúng ta có dùng những từ
"is like" 'giống' hoặc "is" 'là' hay khơng - điều đó khơng quan trọng lắm. Cái chính là cả trong trường hợp

này, cả trong trường hợp kia đều khẳng định sự giống nhau giữa các sự vật và nêu ra một nét chung nào
đó (Goldman 1987). Goldman phân tích sự khác nhau giữa hai phương thức biểu hiện: có thể nói "một
bức tranh buồn", và cũng có thể nói "bức tranh giống như một người buồn". Đúng là cả hai cách biểu hiện
đều san bằng bức tranh với con người. Nhưng, theo Davidson, rất sai lầm khi khẳng định rằng chúng
"nêu ra" một nét chung nào đó. Việc so sánh nói lên rằng có một sự giống nhau, nhưng lại bắt chúng ta
phải tự mình tìm ra nét chung, hoặc những nét chung nào đó. Ẩn dụ khơng khẳng định một cách hiển
ngôn sự giống nhau, nhưng nếu chúng ta biết rõ rằng đó là ẩn dụ, thì chúng ta có nhiệm vụ tìm những
nét chung nào đó.
Ẩn dụ hướng sự chú ý của chúng ta tới những dạng của sự giống nhau.
2. Ẩn dụ thuộc phạm vi sử dụng. Có quan điểm sai lầm, theo Davidson, cho rằng ẩn dụ bên cạnh
nghĩa đen của từ còn tạo thêm một ý nghĩa khác nào đó. Nhiều người nghĩ về tính song nghĩa của ẩn dụ.
Nghĩ như vậy là sai lầm. Cần phân biệt ý nghĩa của từ và sự sử dụng chúng. Ẩn dụ hoàn toàn thuộc
phạm vi sử dụng. Ẩn dụ liên quan tới việc sử dụng từ và câu một cách hình ảnh (hình tượng) và hồn
tồn phụ thuộc vào nghĩa thông thường hay nghĩa đen của từ và của câu.
Khơng thể giải thích được từ hành chức như thế nào khi chúng tạo ra những ý nghĩa ẩn dụ và hình ảnh
hoặc chúng biểu hiện chân lí ẩn dụ (metaphorical truth). Nghĩa đen và những điều kiện chân/nguỵ tương
ứng có thể gán cho từ và câu khơng phụ thuộc vào những hoàn cảnh sử dụng đặc biệt nào.
Ẩn dụ buộc chúng ta phải lưu ý đến một sự giống nhau nào đó thường là mới và bất ngờ giữa hai (hoặc
nhiều) sự vật. Chẳng hạn, hai bông hồng giống nhau bởi vì cả hai chúng đều thuộc về lớp bơng hồng; hai
đứa trẻ giống nhau bởi vì cả hai đều là trẻ con. Hoặc nói đơn giản hơn, các bơng hồng giống nhau bởi vì
mỗi bơng đều là bơng hồng; các trẻ em giống nhau là bởi vì mỗi đứa đều là trẻ con.
Cần phải phân biệt giữa việc nghiên cứu nghĩa của từ với việc nghiên cứu cách dùng từ khi nghĩa của từ
ta đã biết. Có thể nghĩ rằng trong trường hợp thứ nhất, chúng ta sẽ biết được cái gì đó về ngơn ngữ, cịn
trong trường hợp thứ hai, ta sẽ biết được cái gì đó về thế giới. Có sự khác nhau giữa việc dạy cách dùng
mới một từ đã quen và việc sử dụng từ đã biết. Trong trường hợp thứ nhất sự chú ý của chúng ta hướng
tới ngôn ngữ, trong trường hợp thứ hai - hướng tới cái mà ngôn ngữ miêu tả. Ẩn dụ thuộc về trường hợp
thứ hai.
Trong những trường hợp miệng người, miệng chai, thậm chí miệng vết thương, những từ miệng khơng
phải là ẩn dụ bởi vì đó là những kết hợp từ vựng thơng thường mang tính cố định.
Và vấn đề hồn tồn khơng phải ở cái mới. Trong một bối cảnh nào đó, ẩn dụ được dùng hàng trăm lần,

thậm chí hàng ngàn lần, thì nó vẫn cứ là ẩn dụ. Trong bối cảnh khác, nghĩa đen của từ có thể được nhận
ra ngay ở lần sử dụng thứ nhất. Ẩn dụ vốn có một đặc điểm thẩm mĩ sau đây: nó bắt người đọc lần nào
cũng phản ứng và cảm nhận cái mới giống như chúng ta lần nào nghe bản "Xonat ánh trăng" của
Beethoven[10] cũng thấy mới, thấy hay.


Có thuyết cho rằng ẩn dụ tạo ra một nghĩa mới hay gọi là nghĩa mở rộng. Chẳng hạn, trong Kinh Thánh:
"Spirit of God moved upon the face of water" 'Thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước'. Face nghĩa
thông thường (nghĩa đen) là mặt người, nhưng ở đây nó được dùng như một ẩn dụ với nghĩa mở rộng:
mặt nước. Hiện tượng này các nhà triết học gọi là hiện tượng mở rộng nghĩa (extension of the word).
Cách giải thích như thế này khơng thể gọi là đầy đủ bởi vì nếu trong bối cảnh đã nêu, từ face thực sự có
quan hệ với nước, thì hố ra nước có "mặt", và như vậy bản chất của ẩn dụ trong trường hợp này đã
biến mất. Nếu cho rằng các từ trong ẩn dụ có quy chiếu trực tiếp đến đối tượng, thì sự khác nhau giữa
ẩn dụ và việc đưa từ mới vào vốn từ vựng bị xoá nhồ. Giải thích ẩn dụ theo kiểu này, thì coi như là giết
nó.
Hiện nay cịn đang bỏ ngỏ nghĩa sơ cấp, hay nghĩa đen của từ. Ẩn dụ có phụ thuộc vào nghĩa mới, hay
nghĩa mở rộng khơng, - đó còn là vấn đề. Nhưng còn chuyện ẩn dụ phụ thuộc vào nghĩa đen của từ, thì
điều này khơng cịn nghi ngờ gì nữa: nghĩa sơ cấp hoặc nghĩa đen của từ vẫn còn ngay cả trong trường
hợp sử dụng chúng như ẩn dụ.
3. Ẩn dụ và nghĩa đen của từ. Có một lối thốt đơn giản ra khỏi chỗ bế tắc này: chúng ta cần phải từ bỏ
ý nghĩ cho rằng ẩn dụ mang một nội dung nào đó, hoặc có một ý nghĩa nào đó, tất nhiên ngồi nghĩa
đen. Tất cả những lí thuyết chúng ta vừa bàn đến đều khơng hiểu mục đích của mình. Sai lầm của những
thuyết ấy là ở chỗ chúng tập trung vào nội dung của những tư tưởng do ẩn dụ gợi ra, rồi đưa cái nội
dung đó vào cho bản thân ẩn dụ. Tất nhiên ẩn dụ thường giúp chúng ta nhận ra những thuộc tính của sự
vật mà trước đây chúng ta chưa nhận ra; tất nhiên, chúng mở ra trước mắt chúng ta những sự tương tự
và giống nhau; chúng là một cái gì đó giống như chiếc thấu kính qua đó chúng ta khảo sát các đối tượng.
Song vấn đề khơng phải ở chỗ đó, mà là ở chỗ bằng cách nào ẩn dụ có liên quan đến cái mà nó bắt
chúng ta phải nhìn thấy. Ẩn dụ bắt chúng ta nhìn thấy đối tượng này thơng qua đối tượng khác.
4. Ần dụ và những điều kiện chân/ngụy. Những thuộc tính của ẩn dụ có thể được giải thích bằng
nghĩa đen của những từ có chứa ẩn dụ. Từ đó có thể suy ra rằng, có thể xác định những mệnh đề có

chứa ẩn dụ là chân hay nguỵ một cách thơng thường nhất, bởi vì nếu những từ có trong các mệnh đề ấy
khơng có ý nghĩa gì đặc biệt, thì những mệnh đề ấy cũng khơng cần có những điều kiện đặc biệt về tính
chân/nguỵ. Điều này hồn tồn khơng phủ nhận sự tồn tại của chân lí ẩn dụ, chỉ phủ nhận sự tồn tại của
nó trong phạm vi mệnh đề.
Nếu những mệnh đề ẩn dụ là chân hoặc nguỵ với ý nghĩa thông thường nhất, thì rõ ràng rằng chúng
thường là nguỵ. Sự khác nhau về ngữ nghĩa rõ rệt nhất giữa ẩn dụ và so sánh thể hiện ở chỗ tất cả các
so sánh đều là chân, còn đa số ẩn dụ là nguỵ. Khi nói "Trái đất giống cái đĩa hoặc quả cầu", thì trong
thực tế trái đất giống cái đĩa hoặc quả cầu thực. Nhưng hãy làm cho câu này trở thành ẩn dụ, thì lập tức
nó là nguỵ. Trái đất đúng là giống cái đĩa hoặc quả cầu, song nó không phải là cái đĩa hoặc quả cầu.
Thường chúng ta dùng phép so sánh chỉ khi nào chúng ta biết rằng ẩn dụ tương ứng là nguỵ. Chúng ta
nói "T giống con heo", bởi vì chúng ta biết rằng anh ta không phải là con heo. Nếu chúng ta dùng ẩn dụ
để nói rằng anh ta là con heo, thì điều đó là hồn tồn có thể, nhưng khơng phải bởi vì chúng ta nhìn thế
giới một cách khác đi, mà đơn giản là bởi vì chúng ta muốn biểu hiện tư tưởng của mình bằng một
phương thức khác.
Khơng một lí thuyết nào về ý nghĩa ẩn dụ hoặc chân lí ẩn dụ có đủ sức thuyết giải vấn đề ẩn dụ hành chức
như thế nào? Ngôn ngữ ẩn dụ không khác với ngôn ngữ của những câu ở dạng đơn giản nhất. Cái làm
phân biệt ẩn dụ không phải ý nghĩa, mà là cách sử dụng. Và ở đây ẩn dụ giống như những hành động lời
nói: khẳng định, ám chỉ, nói dối, hứa hẹn, biểu thị sự khơng hài lịng v.v. Việc sử dụng ngơn ngữ trong ẩn dụ
khơng phải với nghĩa là phải "nói một cái gì đó" đặc biệt, được nguỵ trang ở mức độ nào đó. Bởi vì ẩn dụ chỉ
nói cái nằm ngay trên bề mặt của nó - thường là cái khơng phải là sự thật hoặc là cái chân lí vơ nghĩa.
Những cái chân lí vơ nghĩa và khơng sự thật này khơng cần ở sự khúc giải, cải biên, chúng có ngay trong
nghĩa đen của từ.
5. Ẩn dụ và trò chơi chữ. Ẩn dụ xa lạ đối với trò chơi chữ. Trong ẩn dụ có hai nghĩa khác nhau - nghĩa
đen và nghĩa hình ảnh. Chúng tồn tại đồng thời. Có thể hình dung nghĩa đen như là nghĩa ẩn, cịn nghĩa
hình ảnh mới mang trọng trách chính.
Trong trường hợp "da trắng vỗ bì bạch" khơng có ẩn dụ nào, chỉ có lối chơi chữ dựa trên hiện tượng
đồng nghĩa của từ gốc Việt và từ Hán-Việt: da = bì, trắng = bạch.


6. Ẩn dụ và từ đa nghĩa. Lại có thuyết chủ trương rằng ẩn dụ là một trong những nghĩa của từ đa nghĩa.

Điều này rõ ràng không phù hợp với cách hiểu ẩn dụ. Khi nói "hắn ta là một con chó sói", trong trường
hợp này "chó sói" được dùng như một ẩn dụ chứ không phải là nghĩa thứ hai của từ này, nghĩa là nó vẫn
giữ mối quan hệ với lớp lồi vật có tên gọi là chó sói, song nó được dùng để định tính chủ thể.
7. Ẩn dụ là phương thức tư duy. D. Davidson khơng thừa nhận ẩn dụ mang một nghĩa nào đó khác
ngoài nghĩa đen của từ. Nghĩa của ẩn dụ hoàn tồn phụ thuộc vào nghĩa đen của từ, nó khơng phải là
một nghĩa trong từ đa nghĩa. Ẩn dụ liên quan đến cách dùng từ, nghĩa là nó thuộc phạm vi lời nói. Nghĩa
của ẩn dụ khơng phải là cái gì khác ngồi nghĩa đen của từ được dùng trong lời nói. Ẩn dụ khơng phải là
so sánh. Phép so sánh phát hiện sự giống nhau và khác nhau giữa các sự vật và hiện tượng. Ẩn dụ nhờ
sự giống nhau giúp ta nhìn thấy đối tượng này thơng qua đối tượng khác. Do đó có thể hiểu rằng ẩn dụ là
một phương thức tư duy. Chính điều này đã làm cho những tư tưởng của Davidson xích gần lại với ngôn
ngữ học tri nhận.
8. Quan điểm thay thế. Bất kì lí thuyết nào chủ trương rằng biểu thức ẩn dụ luôn luôn được dùng thay
cho một biểu thức nghĩa đen nào tương đương với nó đều có thể được gọi là quan điểm thay thế đối với
ẩn dụ (a substitution view of metaphor). Cho đến nay nhiều nhà nghiên cứu cịn theo quan điểm này.
Сhẳng hạn, có người phát biểu rằng ẩn dụ là một từ thay thế cho một từ khác do hiệu lực của sự giống
nhau hoặc tương đồng giữa cái mà chúng biểu hiện. Từ điển Oxford định nghĩa: "Ẩn dụ là một lối nói thể
hiện ở chỗ danh từ hoặc một biểu thức miêu tả chuyển sang một đối tượng nào đó khác với đối tượng
mà biểu thức này được ứng dụng, nhưng tương tự với nó về một cái gì đó; kết quả của việc đó cho ra
một biểu thức ẩn dụ" (dẫn theo Black 1962). Nói đơn giản hơn: "Ẩn dụ là nói ra một điều, nhưng lại ám
chỉ một điều khác".
Theo quan điểm thay thế, ẩn dụ dùng để truyền đạt cái ý mà về nguyên tắc có thể được biểu hiện một
cách trực tiếp (theo nghĩa đen). Tác giả dùng M thay cho L; nhiệm vụ của người đọc là thực hiện việc
thay thế ngược lại: trên cơ sở nghĩa đen của biểu thức M xác lập nghĩa đen của biểu thức L. Việc hiểu ẩn
dụ giống như việc giải mã hoặc giải câu đố.
9. Quan điểm tương tác. Quan điểm tương tác đối với ẩn dụ do M.Black (Black 1962) chủ trương gồm
bảy điểm sau đây:
(1) Ẩn dụ có hai chủ thể khác nhau: một chủ thể chính và một chủ thể phụ.
(2) Những chủ thể này nếu được xem như những hệ thống (systems of things) thì có lợi hơn là xem
chúng như những đối tượng (things).
(3) Cơ chế ẩn dụ thể hiện ở chỗ chủ thể chính được kèm theo một hệ thống "những hàm ngơn liên

tưởng" có liên hệ với chủ thể phụ.
(4) Những hàm ngôn này chính là những liên tưởng đã được thừa nhận, trong ý thức của người nói
chúng liên hệ với chủ thể phụ, nhưng trong một số trường hợp, đó có thể là những hàm ngôn không
chuẩn do tác giả xác lập một cách ad hoc[11].
(5) Ẩn dụ dưới dạng hàm ngôn chứa đựng những phán đốn về chủ thể chính có thể ứng dụng cho chủ
thể phụ. Nhờ đó ẩn dụ lựa chọn, trừu suất và tổ chức những đặc tính hồn tồn xác định của chủ thể
chính và loại bỏ những đặc tính khác.
(6) Điều đó kéo theo những thay đổi trong nghĩa của những từ thuộc cùng nhóm hay cùng hệ thống với
biểu thức ẩn dụ. Một số trong những thay đổi đó có thể trở thành những chuyển nghĩa ẩn dụ.
(7) Nói chung khơng có những sự "gán ép" nào bắt buộc đối với sự thay đổi nghĩa, khơng có quy tắc
chung nào cho phép giải thích tại sao một số ẩn dụ có thể chấp nhận sự thay đổi nghĩa, số khác thì
khơng. Chỉ cần so sánh đơn giản cũng có thể thấy rằng mục (1) khơng tương thích với những hình thái
đơn giản nhất của quan điểm "thay thế", mục (7) không ăn khớp với quan điểm "so sánh", cịn những
mục khác thì khơng chấp nhận quan điểm so sánh.
Song cũng không nên quá nhấn mạnh sự khác nhau giữa ba quan điểm ấy. Ẩn dụ-thay thế và ẩn dụ-so sánh
hồn tồn có thể được thay bằng cách trực dịch, tất nhiên có bị mất đi một phần nào đó vẻ đẹp sắc sảo và
sinh động, nhưng khơng bị mất đi nội dung tri nhận. Cịn "ẩn dụ-tương tác" thì khơng thể được bổ sung bằng
bất cứ cái gì. Cơ chế của chúng địi hỏi độc giả phải sử dụng hệ thống hàm ngôn hoặc hệ thống "những liên
tưởng đã được thừa nhận" hoặc hệ thống đặc biệt được tạo ra cho trường hợp cụ thể đã cho. Việc sử dụng


"chủ thể phụ" với mục đích để hiểu sâu hơn tính chất của "chủ thể chính" là một thao tác trí tuệ đặc biệt địi
hỏi phải đồng thời có mặt trong ý thức những biểu tượng về cả hai chủ thể, nhưng không dẫn tới so sánh
chúng một cách đơn giản.
Ngày nay, các nhà nghiên cứu quan tâm đến ẩn dụ đã mở rộng phạm vi ứng dụng và nghiên cứu của nó ra
nhiều lĩnh vực của tri thức: triết học, lơgic học, tâm lí học, thần kinh học v.v., tạo ra nhiều khuynh hướng,
trường phái ngơn ngữ học, lí thuyết thông tin, xúc tiến sự tác động lẫn nhau và hội nhập các tư tưởng khoa
học mà hệ quả là hình thành khoa học tri nhận. Ẩn dụ là chìa khố mở ra sự hiểu biết những cơ sở của tư
duy và các quá trình nhận thức những biểu tượng tinh thần về thế giới. Với ý nghĩa đó ẩn dụ đã trở thành sự
quan tâm của một ngành khoa học mới – ngôn ngữ học tri nhận (x. các mục từ Cognitive linguistics –

Ngôn ngữ học tri nhận; Cognitive metaphor - Ẩn dụ tri nhận).
ẨN DỤ CẤU TRÚC (structural metaphor)
Ần dụ cấu trúc là loại ẩn dụ khi nghĩa (hoặc giá trị) của một từ (hay một biểu thức) này được hiểu (được
đánh giá) thông qua cấu trúc của một từ (hoặc một biểu thức) khác.
Ẩn dụ cấu trúc có đặc điểm cấu trúc hai khơng gian được gọi là hai miền ý niệm: MIỀN NGUỒN (source
domain) và MIỀN ĐÍCH (target domain). Ý niệm tại miền đích được hiểu thông qua ý niệm tại miền
nguồn. Quan hệ giữa miền nguồn và miền đích là quan hệ ánh xạ, nghĩa là nội dung của ý niệm tại miền
đích được ánh xạ từ ý niệm tại miền nguồn. Ví dụ (dẫn theo Lakoff và Johnson):
ARGUMENT IS WAR ('Tranh luận là chiến tranh'), trong đó WAR thuộc miền nguồn, ARGUMENT thuộc
miền đích. Ý niệm WAR ‘chiến tranh’ giúp chúng ta hiểu nghĩa của ý niệm ARGUMENT ‘tranh luận’. (xem
sơ đồ dưới đây)

Lakoff và Johnson lí giải ẩn dụ cho trên như sau:
ARGUMENT IS WAR
TRANH LUẬT LÀ CHIẾN TRANH
Your claims are indefensible
'Những điều khẳng định của bạn không thể bảo vệ được' (nghĩa là không chịu nổi sự phê phán).
Не attacked every weak points in my argument
'Anh ta tấn công vào từng điểm yếu trong lập luận của tôi'.
His criticisms were right on target
'Những lời nhận xét phê phán của anh ta đánh trúng đích'.
I demolished his argument
'Tơi đập tan luận chứng của anh ta'.
I've never won an argument with him
'Tôi không bao giờ chiến thắng trong những cuộc tranh luận với anh ta'.


Các tác giả nhận xét rằng chúng ta nói và hiểu về những cuộc tranh luận bằng những thuật ngữ chiến
tranh. Song không đơn thuần như thế. Nhiều điều chúng ta làm thực tế trong những cuộc tranh luận một
phần được ngữ nghĩa hoá trong khái niệm chiến tranh. Trong tranh luận khơng có những trận chiến đấu,

nhưng lại có cuộc chiến bằng ngơn từ, và điều đó được phản ánh trong cấu trúc của cuộc tranh luận: tấn
công, bảo vệ, phản cơng v.v. Chính với ý nghĩa đó ẩn dụ 'Tranh luận là chiến tranh" thuộc số những ẩn
dụ mà chúng ta "đang sống" trong nền văn hoá của chúng ta: nó sắp đặt những hành động mà chúng ta
thực hiện trong cuộc tranh luận.
Bản chất của ẩn dụ là ở sự ngữ nghĩa hoá và cảm nhận những hiện tượng loại này trong thuật ngữ các
hiện tượng loại khác. Vấn đề hồn tồn khơng phải ở chỗ tranh luận là một dạng của chiến tranh. Tranh
luận và chiến tranh là những hiện tượng khác nhau: một đằng là sự trao đổi bằng ngôn từ những lời
thoại, đằng kia là cuộc xung đột vũ trang, và trong mỗi trường hợp như thế, thực hiện những hành động
có bản chất khác nhau. Vấn đề là ở chỗ một phần "cuộc tranh luận" được sắp xếp, được hiểu, được thực
hiện như là một cuộc chiến tranh, và vì vậy người ta nói về nó bằng những thuật ngữ chiến tranh. Đồng
thời ý niệm được điều chỉnh lại theo kiểu ẩn dụ, hoạt động tương ứng được điều chỉnh lại theo kiểu ẩn
dụ, và do đó ngơn ngữ cũng được điều chỉnh lại theo kiểu ẩn dụ.
Cái ẩn dụ này được thể hiện khơng chỉ ở chỗ chúng ta nói về cuộc tranh luận như thế nào, mà còn cả ở
chỗ chúng ta hiểu nó như thế nào. Ngơn ngữ của cuộc tranh luận không phải là thơ ca, cũng không phải
mang tính chất viễn tưởng, cũng khơng phải là văn chương hùng biện. Đây là ngôn ngữ của những nghĩa
đen. Chúng ta nói về những cuộc tranh luận như thế này chứ khơng như thế khác là bởi vì ý niệm của
chúng ta về cuộc tranh luận đúng là như thế, và chúng ta hành động tương ứng với cách chúng ta hiểu
những hiện tượng tương ứng. Kết luận quan trọng nhất từ tất cả những điều nói ở trên là ẩn dụ không bị
hạn chế chỉ bởi một phạm vi nào của ngôn ngữ, nghĩa là phạm vi ngôn từ: bản thân các quá trình tư duy
của con người ở mức độ đáng kể đều mang tính chất ẩn dụ. Chính đó là điều dẫn đến khẳng định rằng
hệ thống ý niệm của con người được sắp xếp lại và được xác định theo kiểu ẩn dụ. Ẩn dụ với tư cách là
biểu thức ngôn ngữ trở nên khả dĩ chính bởi vì có tồn tại ẩn dụ trong hệ thống ý niệm của con người.
Cách hiểu của Lakoff và Johnson có thể được minh họa bằng những ẩn dụ lấy trong tiếng Việt:
BÓNG ĐÁ LÀ CHIẾN TRANH
Báo "Thanh niên" ngày 24.6.2006) đăng bài "CHIẾN TRANH BÓNG ĐÁ"
"Tối nay Đức sẽ tiếp Thuỵ điển, mở đầu cho giai đoạn 2 VCK World Cup 2006. Trong một trận đấu
knock-out như vậy, chẳng ai muốn sớm gặp phải đội chủ nhà. Hôm nay, Thuỵ Điển phải làm cái
việc khơng ai muốn đó. Và vơ tình họ hâm nóng lại "cuộc chiến tranh lạnh" giữa hai quốc gia, xảy
ra từ năm 1958.
Ngày ấy J. Klinsmann chưa ra đời. Và người đồng nhiệm L. Lagerback cũng chỉ là một cậu bé 8

tuổi. Thế nhưng chiến tranh đã xảy ra, thực sự.
Xe du khách Thuỵ Điển hết xăng, các trạm bơm ở Đức từ chối đổ, Quốc kì Thuỵ Điển trên đất Đức
bị kéo hạ và các món ăn vùng Scandinavia cũng bị xố bỏ khỏi thực đơn trong hệ thống nhà hàng.
Người ta gọi đó là "Cuộc chiến tranh lạnh", bùng nổ thực sự sau trận bán kết World Cup 1958 tại
Gothenburg.
Ngày ấy, Thuỵ Điển phá bỏ luật lệ FIFA, đưa đội Cheer Leader vào sân, kích động các cổ động viên
hị hét ầm ỹ, hoà cùng hệ thống loa trên sân mở hết công suất. Đội tuyển Đức rớt đúng vào thế
"thập diện mai phục" và 9 cầu thủ của họ đã bị đánh bại 3-1, với 2 bàn thắng trong những phút
cuối trận + 2 tấm thẻ đỏ mà chỉ cần chạm nhẹ vào đội chủ nhà, các cầu thủ Đức đã phải rời sân..."
Cách miêu tả trận bóng đá bằng những thuật ngữ chiến tranh như "chiến tranh lạnh", "trận đấu", "bùng
nổ", "xảy ra" đã tạo ra một hệ thống ẩn dụ của đời thường:
Ần dụ: Bóng đá là chiến tranh.
Cấu trúc nghĩa biểu trưng của chiến tranh bao gồm những thuật ngữ:
"chiến tranh nóng, chiến tranh lạnh"
"chiến tranh bùng nổ" (bóng đá bùng nổ)
"chiến tranh xảy ra" (trận bóng đá xảy ra)


Và trong những bài bình luận bóng đá khác ta có thể gặp những thuật ngữ chiến tranh như:
"đội bóng tân binh"; "đội bóng cựu binh"; "cỗ xe tăng Đức"; "tấn công"; "rút lui"; "hành quân" v.v. (“Pháp
cũng sẽ hành quân đến Bosnia-Herzegovina để chơi trận giao hữu...").
Trong bóng đá cũng có đánh nhau (bằng tay, bằng chân, thậm chí húc đầu vào ngực đối thủ) như trong chiến tranh.
Rõ ràng là ẩn dụ chiến tranh đã giúp ta hiểu thêm những điều trước đây ta chưa biết về bóng đá, về tính
chất quyết liệt của nó như một trận đánh trong chiến tranh tuy khơng có tiếng súng nổ, khơng có bom đạn, xe
tăng, máy bay, tàu thủy, khơng có người chết (nhưng có nhiều người bị thương phải chữa trị lâu). Nhân thể
nói về súng đạn trong bóng đá, báo Thanh niên (số 228, 16.8.2006) đưa tin huấn luyện viên Steve Staunton
đã bị một người đàn ông đe dọa bằng súng ngắn...Và đây là lần thứ hai (lần thứ nhất cách đây ba năm... hai
kẻ bịt mặt được trang bị súng ngắn tấn công các cầu thủ Ireland...). Lại nữa: Esteban bị sát hại vì đá phản
lưới nhà năm 1994; đội bóng đá Gana bị phục kích bằng súng tiểu liên trên đường đi dự giải bóng đá châu
Phi năm 2009.

ẨN DỤ ĐỊNH HƯỚNG (orientational metaphor)
Ẩn dụ định hướng cấu trúc hoá một số miền và tạo nên một hệ thống ý niệm hoá chung cho chúng; chúng
liên quan đến việc định hướng trong không gian với những đối lập kiểu như "lên-xuống", "vào-ra", "sâu-cạn",
"trung tâm-ngoại vi" v.v. Chẳng hạn, trong tiếng Anh, "hạnh phúc, sức khoẻ, có ý thức, hợp lí" được miêu tả
thơng qua ẩn dụ up (trên, lên), trong khi đó "bất hạnh, đau ốm, chết chóc" - thơng qua ẩn dụ down (dưới,
xuống)[12].
Ẩn dụ định hướng khác với ẩn dụ cấu trúc ở chỗ nó là một loại ẩn dụ ý niệm khi khơng có sự xếp đặt lại về
mặt cấu trúc một ý niệm này trong thuật ngữ của một ý niệm khác, nhưng có tồn tại tổ chức của cả một hệ
thống ý niệm theo mẫu của một hệ thống nào đó khác. Những trường hợp như vậy ta gọi là những ẩn dụ
định hướng, bởi vì đa số những ẩn dụ tương tự có liên quan đến sự định hướng khơng gian với những cặp
đối lập kiểu "trên-dưới", “trong-ngồi”, “trước-sau”, “sâu-nơng”, “trung tâm-ngoại vi”. Những cặp đối lập định
hướng tương tự xuất phát từ chỗ thân thể của chúng ta có những thuộc tính nhất định và hoạt động theo
một kiểu nhất định trong thế giới vật lí xung quanh ta. Những ẩn dụ định hướng tạo cho ý niệm giá trị định
hướng không gian, chẳng hạn, "HAPPY IS UP" (Hạnh phúc là ở trên). Ý niệm "hạnh phúc (thành đạt, kết
quả) được định hướng lên trên (the concept "happy is oriented UP”) và được biểu đạt trong tiếng Anh là I'm
feeling up today 'Hôm nay tôi cảm thấy (phấn chấn) lên'.
Những cách định hướng ẩn dụ tương tự hoàn toàn khơng võ đốn, chúng dựa vào kinh nghiệm vật lí (thể
chất) và văn hoá của chúng ta. Mặc dù những đối lập hai cực “trên-dưới”, “trong-ngồi” v.v. có bản chất
vật lí, nhưng những ẩn dụ định hướng dựa trên những đối lập đó có thể biến dạng từ nền văn hố này
sang nền văn hố khác. Ví dụ, trong một số nền văn hố, tương lai ở phía trước ta, trong một số nền văn
hố khác thì nó lại ở đằng sau ta. Tiếng Việt có những phương thức đặc thù biểu hiện cách định hướng
so với một số ngôn ngữ khác.
Để minh hoạ cho những ý kiến này, xin hãy xem xét những ẩn dụ định hướng không gian văn hoá của
chúng ta.
HẠNH PHÚC ĐỊNH HƯỚNG LÊN TRÊN
NỖI BUỒN ĐỊNH HƯỚNG XUỐNG DƯỚI
(1) 'Tôi cảm thấy phấn chấn hẳn lên".
(2) "Bài thơ đó đã nâng tâm hồn tơi lên".
(3) "Tâm trạng của tôi được nâng lên".
(4) "Đời lên hương".

(5) "Những ý nghĩ về nàng luôn luôn làm tôi phấn khởi lên".
(6) 'Tinh thần bị suy sụp"
(7) "Giá cả giảm xuống"
(8) "Tôi rơi xuống vực sâu của sự chán nản"


Trong tiếng Việt, những từ như phấn chấn, vui, phấn khởi, nâng v.v. vốn đã định hướng lên trên, còn
những từ như giảm, sụp, hạ thấp, rơi v.v. vốn đã định hướng xuống dưới, do đó có những trường hợp
dùng lên hoặc xuống là không bắt buộc. Chẳng hạn, (1), (2), (5), (6), (7).
Cơ sở vật lí: Nỗi buồn và chán đè nặng con người và anh ta cúi đầu xuống, cịn những cảm xúc tích cực
(dương tính) thì làm cho anh ta thoải mái và ngẩng đầu lên.
TRẠNG THÁI CĨ Ý THỨC ĐỊNH HƯỚNG LÊN TRÊN
TRẠNG THÁI VƠ Ý THỨC ĐỊNH HƯỚNG XUỐNG DƯỚI
(1) "Hãy đứng lên!"
(2) "Hãy vui lên!"
(3) "Anh ta mệt quá nằm xuống nghỉ một chút".
(4) "Cậu học trò buồn ngủ gục xuống bàn".
Cơ sở vật lí: Con người và đa số động vật có vú ngủ nằm, cịn khi thức dậy thì đứng lên.
KHỎE ĐỊNH HƯỚNG LÊN TRÊN
BỆNH, CHẾT ĐỊNH HƯỚNG XUỐNG DƯỚI
(1) "Tôi thấy khỏe lên".
(2) "Phải giữ gìn sức khỏe, khơng may ốm xuống thì khốn".
(3) "Sống làm vợ khắp người ta,
Đến khi chết xuống làm ma không chồng" (Ca dao).
Cơ sở vật lí. Bệnh nặng buộc con người phải nằm. Người chết thì xuống dưới mồ.
NẮM QUYỀN LỰC (SỨC MẠNH) ĐỊNH HƯỚNG LÊN TRÊN
KHƠNG CĨ QUYỀN LỰC (SỨC MẠNH) ĐỊNH HƯỚNG XUỐNG DƯỚI
(1) "Anh ta là người có địa vị (cao) trong xã hội, tơi chẳng có địa vị gì (thấp bé)".
(2) "Quyền cao chức trọng".
(3) "Thăng chức".

(4) "Hạ (giáng) chức".
(5) "Thượng bất chính, hạ tắc loạn".
(6) "Báo cáo lên cấp trên, chỉ thị xuống cấp dưới".
(7) "Ngửa mặt kêu Trời".
(8) "Trời cao đất thấp".
(9)"Thấp cổ bé họng".
(10) "Giương cao cờ chiến thắng".
Cơ sở vật lí. Kích thước vật lí thường tương quan với lực vật lí, cịn người chiến thắng trong đấu vật
thường nằm trên.
CÁI TỐT ĐỊNH HƯỚNG LÊN TRÊN
CÁI XẤU ĐỊNH HƯỚNG XUỐNG DƯỚI
(1) "Anh ta ngày càng tốt lên" (khơng thể nói: tốt xuống).
(2) "Anh ta ngày càng xấu đi" (khơng thể nói: xấu lên, hoặc xấu xuống).
(3) "Sản phẩm của nhà máy này chất lượng đang đi xuống".


(4) "Chất lượng đào tạo ngày càng thấp xuống".
(5) "Anh ta ngày càng phất lên".
(6) "Hồ sơ mỗi lúc một dày lên".
Trong tiếng Việt, có những trường hợp thay vì "lên" có thể dùng "ra", thay vì "xuống" có thể dùng "đi" để
chỉ quá trình, chẳng hạn, đẹp ra, mập ra, khôn ra, dài ra; già đi, xấu đi, ốm (gầy) đi.
Cơ sở vật lí cho sự hưng thịnh cá nhân. Hạnh phúc, sức khoẻ, cuộc sống và sự hưng thịnh, nghĩa là tất
cả những gì nói lên sự tốt đẹp đối với con người thì định hướng lên trên.
ĐẠO ĐỨC ĐỊNH HƯỚNG LÊN TRÊN
VÔ ĐẠO ĐỨC ĐỊNH HƯỚNG XUỐNG DƯỚI.
(1) "Anh ta rất cao thượng".
(2) "Âm mưu thấp hèn".
(3) "Ơn cao nghĩa cả"
(4) "Ngẩng cao đầu".
(5) "Hạ thấp mình".

(6) "Hạ nhục".
(7) "Chị ngã, em nâng"
Cơ sở vật lí và xã hội. Là một người có đạo đức nghĩa là hành động phù hợp với những chuẩn mực đạo
đức do xã hội/cá nhân đặt ra để duy trì sự hưng thịnh của nó. Đạo đức là trên, bởi vì những hành vi có
đạo đức tương quan với sự hưng thịnh của xã hội, theo quan điểm của xã hội/cá nhân. Do chỗ những ẩn
dụ có lí do xã hội làm thành một bộ phận của văn hoá, nên quan điểm của xã hội/cá nhân có ý nghĩa
quyết định ở đây.
ẦN DỤ TRI NHẬN/ Ý NIỆM (cognitive/ conceptual metaphor)
Các nhà ngôn ngữ học tri nhận một thời đã tranh luận gay gắt về ẩn dụ. Cuộc tranh luận bắt đầu từ
những cơng trình nghiên cứu của E. Cassirer 1946 về các hình thức biểu trưng trong văn hố. Ơng quan
tâm đến giai đoạn tư duy tiền logic đang còn lưu lại dấu ấn trong ngôn ngữ, trong thần thoại học, nghệ
thuật, tơn giáo. Trong ngơn ngữ có cả những hình thái biểu hiện tư duy logic và cả tư duy thần thoại.
Cassirer đi tìm cơ sở biểu tượng thần thoại về thế giới trong ẩn dụ. Khác với Nietzsche, ông phân biệt hai
dạng hoạt động tinh thần: dạng ẩn dụ (thần thoại-thi ca) và dạng logic-diễn ngôn. Dạng thứ hai này hình
thành các khái niệm và các quy luật của khoa học tự nhiên. Việc nhận thức thế giới bằng ẩn dụ góp phần
hình thành tư duy trong các khoa học nhân văn.
Chức năng nhận thức của ẩn dụ thể hiện ở chỗ nó khơng chỉ hình thành biểu tượng về đối tượng, mà nó
cịn quy định cả phương thức và phong cách tư duy về đối tượng. Căn cứ vào chức năng tri nhận, ẩn dụ
chia thành hai loại: loại cơ sở và loại thứ yếu. Khác với loại thứ yếu, những ẩn dụ cơ sở quy định
phương thức tư duy về thế giới (bức tranh thế giới) hoặc về những bình diện nền tảng của nó.
Những ẩn dụ mà trước kia chủ yếu do các nhà dân tộc học và văn hoá học nghiên cứu đã trở thành sự
quan tâm của các chuyên gia về tâm lí học tư duy và phương pháp luận khoa học. Những sự tương tự
dựa trên ẩn dụ cơ sở đã được đưa thành hệ thống thuộc lí thuyết khung (kịch bản) do M. Minsky chủ
xướng. Những sự tương tự như thế tạo khả năng nhìn thấy sự vật hoặc tư tưởng "với những chất lượng"
của vật thể hoặc tư tưởng khác, điều đó cho phép áp dụng sự hiểu biết và kinh nghiệm thu được trong
lĩnh vực này để giải quyết những vấn đề thuộc lĩnh vực khác. Theo Minsky, ẩn dụ thúc đẩy sự hình thành
những mối liên hệ giữa các khung tạo ra những tri thức mới.
Ẩn dụ tri nhận (hay còn gọi là ẩn dụ ý niệm – cognitive/conceptual metaphor) – đó là một trong những
hình thức ý niệm hố, một q trình tri nhận có chức năng biểu hiện và hình thành những ý niệm mới và
khơng có nó thì khơng thể nhận được tri thức mới. Về nguồn gốc, ẩn dụ tri nhận đáp ứng năng lực của

con người nắm bắt và tạo ra sự giống nhau giữa những cá thể và những lớp đối tượng khác nhau.
Ần dụ là một cơ chế tri nhận nhờ đó những tri giác liên tục, tương tự đã trải qua quá trình phạm trù hố
được đánh giá lại trong những bối cảnh ý niệm mới.


Với cách tiếp cận chung nhất, ẩn dụ được xem như là cách nhìn một đối tượng này thơng qua một đối
tượng khác, và với ý nghĩa đó, ẩn dụ là một trong những phương thức biểu tượng tri thức dưới dạng
ngơn ngữ. Ẩn dụ thường có quan hệ khơng phải với những đối tượng cô lập riêng lẻ, mà với những
không gian tư duy phức tạp (những miền kinh nghiệm cảm tính và xã hội). Trong q trình nhận thức,
những không gian tư duy không thể quan sát trực tiếp này thông qua ẩn dụ xác lập mối tương quan với
những không gian tư duy đơn giản hơn hoặc với những khơng gian tư duy có thể quan sát được cụ thể
(chẳng hạn, cảm xúc của con người có thể so sánh với lửa, các lĩnh vực kinh tế và chính trị có thể so
sánh với các trị chơi, với các cuộc thi thể thao v.v.). Trong những biểu tượng ẩn dụ tương tự diễn ra việc
chuyển ý niệm hố khơng gian tư duy khơng thể quan sát trực tiếp được sang khơng gian có thể quan sát
trực tiếp được. Trong q trình này, khơng gian khơng thể quan sát trực tiếp được ý niệm hoá và nhập
vào trong một hệ thống ý niệm chung của một cộng đồng ngôn ngữ nhất định. Đồng thời cùng một không
gian tư duy có thể được biểu tượng nhờ một hoặc một số ẩn dụ ý niệm (G. Lakoff, M. Johnson 1980, G.
Lakoff 1987, M. Reddy 1979, R. Langacker 1991).
Ẩn dụ tri nhận trong ngôn ngữ. G. Lakoff đã biến vấn đề truyền thống này thành một trong những
phạm vi nghiên cứu rất phổ biến của ngôn ngữ học và một loạt những khoa học kế cận. Lí thuyết của
ơng được trình bày trong quyển sách Metaphors We Life by (Ẩn dụ chúng ta đang sống) xuất bản cùng
với nhà triết học M. Johnson năm 1980. Ở đây ẩn dụ được xem là công cụ tạo nghĩa cho những phạm vi
khái niệm mới gần với kinh nghiệm trực tiếp của con người. Ví dụ, việc sử dụng thuần t hình học định
ngữ "cao" trong cụm từ người cao, cây cao và việc chuyển nghĩa ẩn dụ sang các lĩnh vực cơ học (tốc độ
cao), nhiệt học (nhiệt độ cao) và điện năng (điện thế cao), đạo đức học (trách nhiệm cao), mĩ học (nghệ
thuật cao), các quan hệ xã hội (địa vị cao), hoạt động lao động (tay nghề cao) v.v. Lakoff cùng với các
đồng nghiệp của mình ngay từ năm 1989 đã soạn một danh sách cơ sở những ẩn dụ trong tiếng Anh
theo phương pháp nghiên cứu rất độc đáo của ngôn ngữ học tri nhận.
Bản chất của ẩn dụ



Ẩn dụ là cơ chế chính thơng qua đó chúng ta hiểu những khái niệm trừu tượng và thực hiện tư
duy trừu tượng.



Nhiều đối tượng kể từ những điều đơn giản nhất, đời thường nhất đến những lí thuyết khoa học
thâm sâu nhất chỉ có thể hiểu được thơng qua ẩn dụ.



Ẩn dụ về bản chất là mang tính ý niệm, chứ khơng mang tính ngơn ngữ.



Ngơn ngữ ẩn dụ là sự thể hiện lên bề mặt ẩn dụ ý niệm.



Mặc dù phần lớn hệ thống ý niệm của chúng ta mang tính ẩn dụ, song cách hiểu ẩn dụ dựa trên
cơ sở cách hiểu phi ẩn dụ.



Ẩn dụ cho phép chúng ta hiểu đối tượng tương đối trừu tượng hoặc đối tượng phi cấu trúc hóa
thơng qua đối tượng cụ thể hơn hoặc ít ra thơng qua đối tượng đã được cấu trúc hóa cao hơn.



Ẩn dụ ánh xạ qua các miền ý niệm: miền nguồn và miền đích.




Sự ánh xạ phi đối xứng và mang tính bộ phận. Ý niệm ẩn dụ không phản ánh và cũng không thể
phản ánh được tất cả các bình diện của ý niệm xuất phát. Khi chúng ta nói rằng một ý niệm nào
đó được xếp đặt làm ẩn dụ là có ý nói nó chỉ được xếp đặt một bộ phận thơi và có thể được sử
dụng mở rộng bằng phương thức khơng phải võ đốn mà là hồn tồn xác định.



Ánh xạ là một q trình chuyển tập hợp những thơng tin từ các thực thể ở miền nguồn sang các
thực thể ở miền đích.



Ánh xạ ẩn dụ theo nguyên tắc một hướng: sơ đồ hình ảnh của miền nguồn được ánh xạ lên miền
đích chứ khơng ngược lại.




Sự ánh xạ khơng võ đốn, mà có cơ sở trong cơ thể con người, trong kinh nghiệm thường nhật
và trong tri thức.



Có hai loại ánh xạ: ánh xạ ý niệm và ánh xạ hình ảnh, cả hai đều phục tùng nguyên tắc bất biến.




Hệ thống ý niệm chứa đựng hàng nghìn lần ánh xạ ẩn dụ quy ước làm hình thành tiểu hệ thống
cấu trúc hóa cao của hệ thống ý niệm.



Hệ thống ẩn dụ ý niệm quy ước chủ yếu là vô thức, tự động và được sử dụng dễ dàng, thoải
mái, khơng địi hỏi phải cố gắng nhiều.



Ẩn dụ ý niệm không dựa trên cơ sở so sánh tương đồng.



Ánh xạ ẩn dụ thay đổi theo mức độ phổ qt: một số có tính phổ qt, một số khác được phổ
biến rộng rãi, một số nữa thì bị quy định bởi văn hóa.



Ẩn dụ thi ca phần lớn là sự mở rộng hệ thống quy ước thường nhật của tư duy ẩn dụ của chúng
ta. Các ý niệm ẩn dụ có thể vượt ra khỏi phạm vi của phương thức tư duy thông thường để bước
vào lĩnh vực tư duy và ngôn ngữ tu từ, thơ ca, mĩ tự pháp.

Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình; lớn lên
ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định trong một gia đình theo đạo Cơng giáo. Hàn Mặc Tử có dun với 4
chữ Bình: sinh tại Quảng Bình, làm báo Tân Bình, có người u ở Bình Thuận và mất tại Bình
Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ơng cố là Phạm Chương vì liên quan đến
quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên Huế
đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy ( con cụ
Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), sinh hạ được 8 người con: 1-Nguyễn Bá Nhân

( tức nhà thơ Mộng Châu) cũng là người dìu dắt Hàn Mặc Tử trên con đường thơ văn. 2- Nguyễn
Thị Như Lễ. 3- Nguyễn Thị Như Nghĩa. 4- Nguyễn Trọng Trí (tức nhà thơ Hàn Mặc Tử). 5Nguyễn Bá Tín ( người dời mộ Hàn Mặc Tử từ Quy Hòa về Ghềnh Ráng vào ngày 13-02-1959).
6- Nguyễn Bá Hiếu ; 2 người em út: Nguyễn Văn Hiền và Nguyễn Văn Thảo.
Hàn Mặc Tử mang vóc mình ốm yếu, tính tình hiền từ, giản dị, hiếu học và thích giao du bè bạn
trong lĩnh vực văn thơ. Do thân phụ là ông Nguyễn Văn Toản làm thông ngôn, ký lục nên thường
di chuyển nhiều nơi, nhiều nhiệm sở, nên Hàn Mặc Tử cũng đã theo học ở nhiều trường khác
nhau như Sa Kỳ (1920), Qui Nhơn, Bồng Sơn (1921-1923), Pellerin Huế (1926).
Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ơng. Ơng có tài năng làm thơ từ
rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông cũng đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
chí sỹ này. Ơng được Phan Bội Châu giới thiệu bài thơ Thức khuya của mình lên một tờ báo. Sau
này, ông nhận một suất học bổng đi Pháp nhưng vì quá thân với Phan Bội Châu nên đành đình
lại. Ơng quyết định vào Sài Gịn lập nghiệp, năm ơng 21 tuổi; lúc đầu làm ở Sở Đạc Điền.


Đến Sài Gịn, ơng làm phóng viên phụ trách trang thơ cho tờ báo Công luận. Khi ấy, Mộng Cầm
ở Phan Thiết cũng làm thơ và hay gửi lên báo. Hai người bắt đầu trao đổi thư từ với nhau, và ông
quyết định ra Phan Thiết gặp Mộng Cầm. Một tình yêu lãng mạn, nên thơ nảy nở giữa hai
người[3].
Theo gia đình Hàn Mặc Tử, thì vào khoảng đầu năm 1935, họ đã phát hiện những dấu hiệu của
bệnh phong trên cơ thể ông. Tuy nhiên, ông cũng không quan tâm vì cho rằng nó là một chứng
phong ngứa gì đó khơng đáng kể. Cho đến năm 1936, khi ơng được xuất bản tập "Gái quê", rồi
đi Huế, Sài Gòn, Quảng Ngãi, vào Sài Gòn lần thứ hai, được bà Bút Trà cho biết đã lo xong giấy
phép cho tờ Phụ nữ tân văn, quyết định mời Hàn Mặc Tử làm chủ bút, bấy giờ ông mới nghĩ đến
bệnh tật của mình. Nhưng ý ơng là muốn chữa cho dứt hẳn một loại bệnh thuộc loại “phong
ngứa” gì đấy, để n tâm vào Sài Gịn làm báo chứ khơng ngờ đến một căn bệnh nan y. Năm
1938 - 1939, Hàn Mặc Tử đau đớn dữ dội. Tuy nhiên, ở bên ngồi thì khơng ai nghe ơng rên rỉ
than khóc. Ơng chỉ gào thét ở trong thơ mà thôi. Trước ngày Hàn Mặc Tử vào trại phong Quy
Hịa, Nguyễn Bá Tín, em ruột của nhà thơ cho biết tình trạng bệnh tật của anh mình như sau: Da
anh đã khơ cứng, nhưng hơi nhăn ở bàn tay, vì phải vận dụng sức khỏe để kéo các ngón khi cầm
muỗng ăn cơm. Bởi vậy, trông như mang chiếc “găng” tay bằng da thơ. Tồn thân khơ cứng.

Ơng Nguyễn Bá Tín, trong một chuyến thăm Bệnh viện Quy Hịa, có đến thăm bác sĩ Gour Vile.
Bác sĩ nói rằng: Bệnh cùi rất khó phân biệt. Giới y học (thời đó) chưa biết rõ lắm. Tuy triệu
chứng giống nhau, nhưng lại có nhiều thứ. Ông bác sĩ quả quyết bệnh cùi không thể lây dễ dàng
được. Nhiều thông tin cho rằng, một hôm Hàn Mặc Tử đi dạo với bà Mộng Cầm ở lầu Ơng
Hồng (Phan Thiết), qua một cái nghĩa địa có một ngơi mộ mới an táng thì gặp mưa. Bỗng ơng
phát hiện ra từng đốm đỏ bay lên từ ngôi mộ. Sau đó ơng về nhà nghỉ, để rồi sớm mai ơng phát
hiện ra mình như vậy. Đó là căn bệnh do trực khuẩn Hansen gây nên.
Trước đây vì thành kiến sai lầm rằng đây là căn bệnh truyền nhiễm nên bao nhiêu bệnh nhân đã
bị hắt hủi, cách ly, xa lánh thậm chí bị ngược đãi , thì Hàn Mặc Tử cũng khơng là ngoại lệ. Lúc
này, gia đình ơng phải đối phó với chính quyền địa phương vì họ đã hay tin ơng mắc căn bệnh
truyền nhiễm, địi đưa ơng cách ly với mọi người. Sau đó gia đình phải đưa ông trốn tránh nhiều
nơi, xét về mặt hiệu quả chữa trị thì đúng là phản khoa học vì lẽ ra cần phải sớm đưa ơng vào nơi
có đầy đủ điều kiện chữa trị nhất lúc bấy giờ là Bệnh viện phong Quy Hòa.. Trong câu chuyện
với người em của thi sĩ Hàn Mặc Tử, bác sĩ Gour Vile cũng nói rằng kinh nghiệm từ các trại cùi,
khơng có bệnh nhân nào chỉ đau có từng ấy năm mà chết được. Ơng trách gia đình Hàn Mặc Tử
khơng đưa nhà thơ đi trại phong sớm. Và bác sĩ cho rằng, Hàn Mặc Tử chết là do nội tạng hư
hỏng quá nhanh do uống quá nhiều thuốc tạp nham của lang băm trước khi nhập viện phong Quy
Hịa.
Ơng bỏ tất cả quay về Quy Nhơn vào nhà thương Quy Hòa (20 tháng 9 năm 1940) mang số bệnh
nhân 1.134 và từ trần vào lúc 5 giờ 45 phút rạng sáng 11 tháng 11 năm 1940 tại nhà thương này
vì chứng bệnh kiết lỵ,[4] khi mới bước sang tuổi 28.[5].
Cuộc đời của ơng được biết đến với nhiều mối tình, với nhiều người phụ nữ khác nhau, đã để lại
nhiều dấu ấn trong văn thơ của ơng - có những người ông đã gặp, có những người ông chỉ giao
tiếp qua thư từ, và có người ơng chỉ biết tên như Hồng Cúc, Mai Đình, Mộng Cầm, Thương
Thương, Ngọc Sương, Thanh Huy, Mỹ Thiện





×