Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

TIỂU LUẬN: Quan điểm lịch sử cụ thể với công cuộc đối mới kinh tế ở Việt Nam hiện này pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.33 KB, 14 trang )












TIỂU LUẬN:

Quan điểm lịch sử cụ thể với
công cuộc đối mới kinh tế ở
Việt Nam hiện này









A.Đặt Vấn Đề


Bước vào thiên niên kỷ mới, loài người đã và đang có những bước
tiến quan trọng trong công cuộc trinh phục thế giới. Những thành tựu
trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật nói riêng và trong mọi mặt của đời


sống xã hội nói chung đã nâng dần loài người lên một tầm cao mới. Trong
sự chuyển biến mạnh mẽ đó, Việt Nam chúng ta cũng không ngừng biến
đổi vận động. Tính đến nay nước ta đã thực hiện công cuộc đổi mới được
hơn một thập kỷ, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, những vấn đề của
nền kinh tế luôn đặt ra những thách thức cho các nhà kinh tế. So với thế
giới, nước ta vẫn là một nước nghèo, nền kinh tế còn yếu kém, chậm phát
triển, những tàn dư của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp vẫn còn
tồn tại đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Chính vì thế chúng ta
phải nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế, phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh đất nước, phù hợp với khu vực thế giới và thời đại.
Điều đó cũng có nghĩa là phải phân tích các yếu tố kinh tế trong tổng thể
các mối quan hệ, trong sự vận động, phát triển không ngừng. Do vậy việc
vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể của triết học Mác - Lênin vào qúa trình
đối mới kinh tế ở Việt Nam là rất cần thiết.
Quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình đối mới kinh tế ở
Việt Nam sẽ giúp cho nền kinh tế nước ta có được hướng đi đúng đắn. Vì
vậy, trong bài viết tiểu luận triết học của mình em đã chọn đề tài: “Quan
điểm lịch sử cụ thể với công cuộc đối mới kinh tế ở Việt Nam hiện này”.










B. Nội dung
I. Quan điểm lịch sử cụ thể

1. Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là
cơ sở hình thành quan điểm lịch sử cụ thể. Mọi sự vật hiện tượng của thế
giới đều tồn tại, vận động và phát triển trong những điều kiện không gian
và thời gian cụ thể xác định. Điều kiện không gian và thời gian có ảnh
hưởng trực tiếp tới tính chất, đặc điểm của sự vật. Cùng một sự vật nhưng
nếu tồn tại trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể khác
nhau thì tính chất, đặc điểm của nó sẽ khác nhau, thậm trí có thể làm thay
đổi hòan toàn bản chất của sự vật.
2. Yêu cầu của quan điểm lịch sử cụ thể
Quan điểm lịch sử có 3 yêu cầu:
Thứ nhất: Khi phân tích xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt nó
trong điều kiện không gian và thời gian cụ thể của nó, phải phân tích xem
những điều kiện không gian ấy có ảnh hưởng như thế nào đến tính chất,
đặc điểm của sự vật, hiện tượng. Phải phân tích cụ thể mọi tình hình cụ
thể ảnh hưởng đến sự vật, hiện tượng.
Thứ hai: Khi nghiên cứu một lý luận, một luận điểm khoa học nào
đó cần phải phân tích nguồn gốc xuất xứ, hoàn cảnh làm nảy sinh lý luận
đó. Có như vậy mới đánh giá đúng giá trị và hạn chế của lý luận đó. Việc
tìm ra điểm mạnh và điểm yếu có tác dụng trực tiếp đến quá trình vận
dụng sau này.
Thứ ba: Khi vận dụng một lý luận nào đó vào thực tiễn phải tính
đến điều kiện cụ thể của nơi được vận dụng. Điều kiện này sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến kết quả của sự vận dụng đó.




3. Tại sao phải vận dụng quan điểm lịch sử vào quá trình xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam?

Trước tiên cần phải khẳng định rằng KTTT định hướng XHCN cũng
là một dạng vật chất. Nền kinh tế Việt Nam là một dạng vật chất xã hội
theo sự phân loại của triết học Mác-Lênin. Chính vì thế nền KTTT định
hướng XHCN Việt Nam cũng tồn tại, vận động và phát triển theo những
nguyên lý, quy luật của triết học Mác-Lênin, mà cụ thể là trong những
điều kiện không gian thời gian theo quan điểm lịch sử cụ thể.
Sự ra đời và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hơn 10
năm qua đã góp phần thay đổi bộ mặt đất nước, nâng cao đời sống nhân
dân. Tuy nhiên đó chưa phải là cái đích cuối cùng của Đảng ta và nhân
dân ta, bởi nền kinh tế nước ta vẫn còn chậm phát triển. Khi chúng ta vừa
chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường,
từ một nền kinh tế yếu kém lạc hậu với hệ thống sản xuất, hệ thống quản
lý kinh tế với những cán bộ mang nặng tư tưởng ỷ lại sang nền KTTT
năng động, do đó khó có thể tránh khỏi những vấp váp sai lầm. Thêm nữa,
thời điểm chúng ta bắt đầu đổi mới, chuyển sang nền KTTT là quá muộn
so với các nước trên thế giới và khu vực khi mà các nước tư bản như Mỹ,
Nhật, Tây Âu, đã tiến hành cơ chế thị trường và phát triển vượt xa ta
mấy trăm năm. Nhờ sử dụng triệt để KTTT, CNTB đã đạt được những
thành tựu về kinh tế - xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng
suất lao động, quản lý xã hội đã đạt được những thành tựu về văn minh
hành chính, văn minh công cộng, con người nhậy cảm tinh tế với khả năng
sáng tạo và có cả những tiêu cực: sự gay gắt dẫn đến tình trạng “cá lớn
nuốt cá bé” sự phân cách giàu nghèo ngày càng lớn, ô nhiễm môi trường,
tài nguyên cạn kiệt, tệ nạn xã hội Tuy nhiên, là nước đi sau và theo
CNXH, chúng ta có cơ hội kế thừa và phát triển những thành tựu của nhân
loại mà trước hết là sử dụng văn minh cuả KTTT, loại bỏ những khuyết tật
của nó để xây dựng CNXH có hiệu quả hơn.





Chính vì những lẽ đó, chúng ta cần phải vận dụng quan điểm lịch sử
cụ thể vào việc nghiên cứu quá trình xây dựng nền KTTT định hướng
XHCN ở Việt Nam.
II. Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa dưới góc nhìn của quan điểm lịch sử cụ thể
1. Những điều kiện cụ thể ảnh hưởng đến quá trình xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
a. Những điều kiện trong nước
Đầu tiên chúng ta cần tìm hiểu xuất phát điểm về kinh tế của nước
ta khi bắt đầu đổi mới. Bức tranh chung của kinh tế Việt Nam năm trước
đổi mới là tăng trưởng thấp 3,7%/năm, làm không đủ ăn và dựa vào nguồn
viện trợ bên ngoài rất lớn. Thu nhập quốc dân trong nước, sản xuất chỉ
đáp ứng được 80-90% thu nhập quốc dân sử dụng. Đến năm 1985 tỷ trọng
thu từ bên ngoài chiếm 10,2% thu nhập quốc dân sử dụng, nợ nước ngoài
lên tới 8,5 tỷ rúp và 1,9 tỷ USD. Cũng vào các năm đó nền kinh tế rơi vào
tình trạng khủng khoảng trầm trọng, siêu lạm phát ở mức 774,7% vào
năm 1986 kéo theo giá cả leo thang và vô phương kiểm soát.
Sự tàn phá của chiến tranh và nền kinh tế bao cấp yếu kém kéo dài
đã để lại nhiều hậu quả nặng nề: cơ sở vật chất thấp kém với nền KH -
CN, kỹ thuật lạc hậu, hầu hết các hệ thống máy móc trong các xí nghiệp
đều do Liên Xô cũ giúp đỡ từ trong chiến tranh nên năng suất thấp, chất
lượng kém.
Điều kiện địa lý cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng mạnh
mẽ đến nền kinh tế. Về địa hình, nước ta trải dài trên nhiều vĩ tuyến, bề
ngang hẹp, địa hình phức tạp mang đậm nét của sự phân dị sâu sắc về điều
kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội. Các đặc điểm này chi phối sự phân công lao
động xã hội theo lãnh thổ và phát triển các vùng kinh tế. Nằm ở Tây Thái
Bình Dương và Đông Nam á, khu vực phát triển cao, ổn định, nơi cửa ngõ
của giao lưu quốc tế, Việt Nam có nhiều khả năng để phát triển nhiều loại





hình kinh tế khác nhau dựa trên những lợi thế về vận tải biển, dịch vụ viễn
thông, du lịch. Tài nguyên khoáng sản phân bố không đều trên các vùng,
ngay ở mỗi vùng cũng phân tán và thiếu đồng bộ không gắn với nhau gây
khó khăn cho việc khai thác sử dụng chúng và ảnh hưởng đến việc bố chí
kinh tế của các vùng. Về dân số, nước ta có dân số đông, nguồn lao động
dồi dào nhưng phân bố cũng không đồng đều.
Về chế độ chính trị: Quan hệ giữa kinh tế và chính trị là một trong
những vấn đề cơ bản của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Theo các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì kinh tế quyết định chính trị “
chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, chính trị không phải là mục
đích mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế.” Lênin đã chỉ
rõ: “để thoả mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử
dụng làm phương tiện đơn thuần.” Khẳng định đó của Lênin không có
nghĩa là phủ nhận vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị mà muốn
nhấn mạnh tác động của chính trị đối với kinh tế. Vấn đề kinh tế không
thể tách rời vấn đề chính trị mà nó được xem xét giải quyết theo một lập
trường chính trị nhất định. Như vậy chúng ta có thể khẳng định rằng kinh
tế và chính trị thống nhất biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định
của kinh tế.
Sau khi miền Bắc giải phóng và từ sau năm 1975 thống nhất đất
nước, cả nước ta đã kiên quyết đi theo con đường XHCN - đây là lựa chọn
tất yếu và đúng đắn. Tuy nhiên, vì không qua giai đoạn TBCN, chúng ta
đã gặp nhiều khó khăn và bỡ ngỡ trong công cuộc xây dựng một hệ thống
chính trị vững mạnh. Thêm vào đó, khi ta đang trong tình trạng ban đầu
của công cuộc đổi mới, một giai đoạn quan trọng mà chính trị là yếu tố
định hướng dẫn đường thì CNXH ở Liên Xô cũ và các nước Đông Âu sụp

đổ hàng loạt đã gây nhiều hoang mang cho Đảng và nhân dân ta. Điều này
cũng chứng tỏ rằng đang có rất nhiều thế lực phản động không ngừng tìm
cách phá hoại, lật đổ chế độ CNXH ở nước ta.
b. Những điều kiện thế giới và khu vực




Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, mặc dù thế giới còn nhiều diễn
biến phức tạp nhưng hoà bình và hợp tác là xu thế chủ đạo, là đòi hỏi bức
xúc của các dân tộc và các quốc gia. Các cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ đạt được những bước tiến vượt bậc đặc biệt trong lĩnh vực tin
học, viễn thông, sinh học, vật liệu mới và năng lượng mới đang đẩy mạnh
quá trình quốc tế hoá cao độ các lực lượng sản xuất dẫn đến sự phân công
lao động quốc tế ngày càng sâu sắc. Như vậy có nghĩa là ngày nay, không
một nền kinh tế nào có thể đứng tách ra khỏi cộng đồng quốc tế. Tình hình
đó đòi hỏi một sự hợp tác ngày càng rộng tạo nên thế tuỳ thuộc lẫn nhau
giữa các nước dù lớn hay nhỏ, phát triển hay đang phát triển. Trong lịch
sử phát triển của xã hội có lẽ chưa bao giờ có một sự hợp tác để phát triển
rộng rãi đan xen lồng ghép và nhiều tầng lớp như hiện nay với sự hình
thành nhiều tổ chức kinh tế như ASEAN (Hiệp hội các nước Đông Nam
á), WTO (tổ chức thương mại thế giới) AFTA, EU,
Đối với các khu vực, Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam á,
Châu á Thái Bình Dương, một khu vực được coi là có nền kinh tế năng
động và có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới trong những năm gần đây.
Hầu hết các nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan, Inđônêsia đều
đã tiến hành nền KTTT được mấy thập kỷ và một số nước đã trở thành các
nước công nghiệp mới (NIC).
Như vậy thế giới và khu vực đã phát triển vượt ta khá xa về mọi
mặt đặc biệt là về kinh tế. Vì thế đã đặt ra cho Việt Nam nhiều thách thức

trong qúa trình phấn đấu xây dựng và cải tiến nền KTTT định hướng
XHCN.
2. Thực trạng quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở
Việt Nam dưới tác động của những điều kiện cụ thể
2.1 Giai đoạn 1986 - 1991
Đây là giai đoạn đầu chúng ta chuyển sang nền KTTT. Do chưa
nhận thức được đầy đủ những yếu tố cụ thể ảnh hưởng đến nền kinh tế nên
ta đã có một số chính sách chưa đúng.




Một chính sách sai lầm trong giai đoạn này là tập trung công nghiệp
hoá - hiện đại hoá theo hướng ưu tiên cho công nghiệp nặng. Đây là một
sai lầm nghiêm trọng đã làm mất rất nhiều thời gian, tốn rất nhiều tiền bạc
bởi lúc này với xuất phát điểm và kinh tế rất thấp, cơ sở vật chất, công
nghệ còn quá lạc hậu thêm vào đó là thiếu vốn và thiếu đội ngũ các nhà
khoa học tài giỏi.
Trong khi đó ta có đầy đủ điều kiện để phát triển công nghiệp nhẹ.
Sự khéo léo cần cù của người dân Việt Nam, sự ưu đãi của thiên nhiên khí
hậu tạo nên một danh mục nông sản đa dạng phong phú và nhiều loại hình
sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Với những điều kiện đó ta hoàn toàn có
thể phát triển những ngành công nghiệp nhẹ mà chỉ cần ít vốn như công
nghiệp chế biến thực phẩm, đồ mỹ nghệ,
Chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhưng trong
giai đoạn này lượng hàng hoá của chúng ta còn ít và chất lượng còn chưa
tốt. Chính vì thế, hàng hoá sản xuất ra không có sức cạnh tranh trên thị
trường vì số lượng hàng hoá ít nên phần lớn vẫn phải nhập khẩu và chưa
xuất khẩu được hàng hoá ra thị trường thế giới.
Với điều kiện địa lý địa hình phức tạp, hệ thống giao thông vận tải

yếu kém như trên chưa có những chính sách phát triển kinh tế phù hợp với
từng vùng, từng miền, chúng ta đã rơi vào tình trạng đầu tư phát triển kinh
tế tràn lan, không tập trung, gây nên sự bất hợp lý giữa các vùng.
Cơ cấu giữa các thành phần kinh tế cũng là một vấn đề đáng quan
tâm. Trong giai đoạn này các thành phần kinh tế mới như kinh tế tư bản tư
nhân, kinh tế tư bản Nhà nước chưa phát triển, chủ yếu vẫn là thành phần
kinh tế Nhà nước. Nguyên nhân của vấn đề này là do ta vẫn còn chậm đổi
mới các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất đã có trong nền kinh tế bao cấp
cũ và chưa có được những chính sách phù hợp để kinh tế tư bản tư nhân
và tư bản Nhà nước phát triển.
Tóm lại, trong giai đoạn này mặc dù đã đạt được một số thành tựu,
nền kinh tế đã từng bước ổn định và phát triển, các cơn sốt do hậu quả của




cơ chế quan liêu bao cấp đã dần dà vơi đi nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn
chưa bước hẳn ra sự khủng hoảng của những năm trước đổi mới.
2.2Giai đoạn 1991 đến nay
Giai đoạn này, do đã dần điều chỉnh phù hợp với những điều kiện,
nhân tố cụ thể ảnh hưởng đến nền KTTT nên kinh tế Việt Nam đã đạt
được một số thành tựu đáng kể:
Điều đầu tiên cần nói đến là tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và tương
đối ổn định. Giai đoạn 1986 - 1990, GDP tăng trung bình 3,9% thì đến
giai đoạn này GDP tăng bình quân 8,2%. Cơ cấu giữa các thành phần kinh
tế và các ngành cũng hợp lý hơn. Hàng loạt các công ty, doanh nghiệp tư
nhân hoạt động trong mọi lĩnh vực đã ra đời. Dịch vụ thương mại phát
triển tương đối mạnh đã tạo điều kiện cho việc sản xuất hàng hoá, làm cho
số lượng hàng hoá phong phú hơn và chất lượng không ngừng được cải
tiến. Giao thông vận tải được chú trọng sửa chữa và xây mới nên hàng hoá

đã đến được các vùng sâu, vùng xa và miền núi.
Một thành tựu quan trọng nữa là trong điều kiện nền kinh tế thế
giới với sự cạnh tranh rất khốc liệt gây ra sự phân cực giàu nghèo mạnh
mẽ với nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, Đảng ta kịp thời rút
kinh nghiệm và đã có những đường lối, chính sách định hướng cho nền
kinh tế phát triển theo đúng định hướng XHCN, hướng thị trường hàng
hoá vào ưũy đạo cạnh tranh lành mạnh cùng phát triển. Chính vì vậy nền
KTTT của ta chẳng những không xảy ra khủng hoảng mà còn tránh được
ảnh hưởng tiêu cực từ những cuộc khủng hoảng kinh tế ở các nước trong
khu vực và thế giới mà cụ thể là cuộc khủng hoảng tiền tệ vào năm 1997. Tuy
nhiên nền kinh tế nước ta so với khu vực và thế giới vẫn là một nền kinh tế kém
phát triển, cần có nhiều biện pháp để phát triển theo kịp các quốc gia khác.
KTTT đã ra đời và phát triển qua nhiều gia đoạn và cho đến bây giờ
nó vẫn là kiểu kinh tế xã hội tiến bộ nhất. Trải qua các giai đoạn phát
triển, KTTT ngày càng được hoàn thiện và được áp dụng trên nhiều quốc
gia. Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam mặc dù mới ra đời cách




đây hơn một thập kỷ nhưng cũng đã trải qua nhiều thăng trầm, không
ngừng vận động và luôn biến đổi dưới sự tác động của nhiều yếu tố cả bên
ngoài lẫn bên trong bản thân nền kinh tế. Các yếu tố này vừa không ngừng
có ảnh hưởng đến sự phát triển của nền KTTT vừa chịu sự tác động của
chính nền KTTT đó. Như vậy, trải qua mỗi giai đoạn lại hình thành nên
những yếu tố mới khiến cho công cuộc xây dựng và phát triển nền KTTT
định hướng XHCN Việt Nam ngày càng phức tạp, đòi hỏi phải có sự phân
tích kỹ lưỡng chi tiết kịp thời từng yếu tố. Chính vì vậy quan điểm lịch sử
cụ thể luôn là quan điểm gắn liền với quá trình xây dựng nền KTTT định
hướng XHCN Việt Nam.

III. Một số giải pháp nhằm xây dựng nền KTTT theo định hướng
XHCN
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang từng bước xây dựng cơ sở
vật chất để đẩy mạnh quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN
nhanh chóng đưa đất nước trở thành nước công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Và việc nghiên cứu tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng để tìm ra các giải pháp
nhằm khắc phục những mặt yếu kém phát huy những mặt mạnh đang là vấn
đề bức thiết. Cụ thể :
Đẩy mạnh việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trước mắt
cần tiếp tục cải tiến hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài với
những qui định rõ ràng thông suốt và đơn giản. Về lâu dài cần tiến tới xây
dựng một hành lang pháp lý chung cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng
như trong nước để tạo một sân chơi bình đẳng.
Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong nước.
Trong lĩnh vực này, huy động tiết kiệm là mục tiêu hàng đầu, từ đó sẽ phát
huy được hết các nguồn nội lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Tiếp tục cân đối lại các thành phần kinh tế và các ngành; chú trọng phát
triển kinh tế giữa các vùng hợp lý hơn. Tăng cường hội nhập hợp tác với các nền
kinh tế trong khu vực và thế giới; giữ vững vai trò của Nhà nước trong việc điều
tiết vĩ mô, định hướng nền KTTT theo định hướng XHCN, lấy công bằng xã hội




làm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, bảo đảm nguồn nhân lực thông qua hệ thống
giáo dục đào tạo, bảo đảm y tế, nâng cao trình độ văn hoá cho người lao động.
Giữ vững an ninh, trật tự xã hội, củng cố sự nghiệp quốc phòng an ninh nhằm
ngăn chặn mọi thế lực phản động phá hoại trong và ngoài nước; Tích cực cải tạo
xã hội, xoá bỏ các tệ nạn xã hội như tham nhũng, nghiện hút, mại dâm, ma tuý,
hạn chế ô nhiễm môi trường, giữ vững sự cân bằng sinh thái. Muốn vậy cần nâng

cao nhận thức con người trong việc bảo vệ giữ gìn cuộc sống của chính họ; vận
dụng sáng tạo, không rập khuôn các mô hình KTTT trên thế giới; Có phương
hướng kết hợp định hướng XHCN với tăng trưởng kinh tế trong những năm tới.




C. kết luận
Với việc áp dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào công cuộc đổi mới
kinh tế ở Việt Nam, chúng ta đã có được một nền kinh tế thị trường năng
động, một nền kinh tế theo định hướng XHCN với những thành tựu hết
sức to lớn: Nhịp độ bình quân hàng năm về sản phẩm quốc nội trong 5
năm 1991 -1995 là 8,5%, nhịp độ tăng bình quân hàng năm về sản xuất
công nghiệp là 13,3%, sản xuất nông nghiệp là 4,5%, kim ngạch xuất khẩu
20%. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển đổi tích cực: tỷ trọng công nghiệp và
xây dựng trong GDP từ 22,7% năm 1990 lên 30,3% năm 1995, tỷ trọng
dịch vụ từ 38,6% lên 41,5%. Bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế.
Vốn đầu tư cơ bản toàn xã hội tăng từ 15,8% GDP năm 1990 lên 27,7%
năm 1995. Lạm phát bị đẩy lùi từ 67,1% năm 1991 xuống 12,4% đầu năm
1995. Quan hệ sản xuất được điều chỉnhphù hợp hơn với yêu cầu của lực
lượng sản xuất. Số hộ có thu nhập trung bình số hộ giàu tăng lên, tỷ lệ hộ
nghèo giảm.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế nước ta vẫn còn
những hạn chế nhất định, đất nước ta vẫn còn chậm phát triển so với khu
vực và thế giới. Chúng ta cần phải áp dụng các giải pháp hợp lý để cải
thiện tình hình, đặc biệt chú trọng đến sự vận dụng đến sự vận dụng sáng
tạo để có được một nền KTTT hoàn chỉnh, phát huy hết tính ưu việt của
nó và tránh được những sai lầm của nền KTTT của các quốc gia khác.
Từng bước thực hiện các giải pháp để đề ra, Việt Nam sẽ có thêm tự
tin bước vào thế kỷ 21 với những thách thức mới, cơ hội mới. Nền KTTT

định hướng XHCN Việt Nam sẽ ngày càng phát triển ổn định và nhanh
chóng đuổi kịp trình độ của thế giới, trở thành một nước công nghiệp phát
triển trong tương lai không xa.
d.Tài liệu tham khảo
1. Sách:
- Nguyễn Sinh Cúc “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa” - NXB Chính trị quốc gia TP - HCM, năm 1996.




- Giáo trình “Triết học Mác - Lênin” - Tập II, NXB Chính trị quốc
gia, 1997.
2. Tạp chí:
- Nghiên cứu trao đổi số 11 tháng 6 năm 1998.
- Triết học số 4 (110) - tháng 8 - 1998.
- Những vấn đề kinh tế thế giới số 1 (45) năm 1997.
- Cộng sản số 4 (2-2000).
- Triết học số 2 (96) tháng 4 - 1997.
- Triết học số 2 (108) tháng 4 - 1999.
- Triết học số 2 - 2001
Và một số tạp chí khác.







Mục lục

Trang
A. Đặt vấn đề
1

Nội dung 3

I. Quan điểm lịch sử cụ thể 3

1- Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể 3

2- Yêu cầu của quan điểm lịch sử cụ thể. 3

3- Tại sao phải vận dụng quan điểm lịch sử vào quá trình xây
dựng nền KTTT định hướng xhcn ở Việt Nam.

4

II.Quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN dưới góc
nhìn của quan điểm lịch sử cụ thể.

5

1-Những điều kiện cụ thể ảnh hưởng đến quá trình xây dựng nền
KTTT định hướng XHCN.

5

2- Thực trạng xây dựng nền KTTT
8


III. Một số giải pháp nhằm xây dựng nền KTTT theo định hướng
XHCN.
12

Kết luận 14

Tài liệu tham khảo 15



×