Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

TIỂU LUẬN: BIỆN CHỨNG XÃ HỘI VÀ CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (726.53 KB, 87 trang )






TIỂU LUẬN:

BIỆN CHỨNG XÃ HỘI VÀ CÔNG
CUỘC ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY









Mối quan hệ giữa biện chứng xã hội và công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay được
thể hiện ở chỗ, công cuộc đổi mới vì chủ nghĩa xã hội làm bộc lộ biện chứng khách
quan của sự phát triển xã hội; đường lối đổi mới là kết quả của sự vận dụng tổng
hợp những quan điểm phương pháp luận cơ bản của triết học mácxít, của phép biện
chứng xã hội vào giai đoạn phát triển mang tính bước ngoặt; bản thân quá trình đổi
mới là quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn, có tính quy luật. Đó là biện chứng giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng xã hội
dân sự; giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hoá với thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội; giữa tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc với sự đa dạng hoá ngày
một tăng lên về cơ cấu xã hội; giữa việc giữ vững độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế
quốc tế, đẩy mạnh giao lưu hợp tác trên nhiều lĩnh vực.



I. MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
ĐẤT NƯỚC - MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
Sau khi đọc những thư từ trao đổi giữa C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin rút ra kết
luận: Nội dung trung tâm của các bức thư đó là phép biện chứng cách mạng - phép
biện chứng mà ông coi là linh hồn sống của toàn bộ chủ nghĩa Mác nói chung, của
triết học Mác nói riêng. Bởi vậy, khi đề cập tới mối quan hệ giữa triết học Mác và
công cuộc đổi mới đất nước, điểm trung tâm chú ý là mối quan hệ giữa phép biện
chứng và công cuộc đổi mới, nói hẹp hơn, trực tiếp hơn là mối quan hệ giữa biện
chứng xã hội và công cuộc đổi mới. Tựu trung lại, mối quan hệ đó được biểu hiện

như sau:
Một là, công cuộc đổi mới vì chủ nghĩa xã hội làm bộc lộ biện chứng khách quan
của sự phát triển xã hội mà trước đó đã bị che khuất.
Tự nó, tự nhiên và xã hội tồn tại một cách biện chứng. Biện chứng khách quan là
khái niệm dùng để khát quát thực tế đó. Trong biện chứng khách quan, nhân tố quan
trọng nhất là quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự vật, hiện tượng
sẽ như thế nào, điều đó hoàn toàn do quy luật khách quan của chính sự vật, hiện
tượng này quy định. Đương nhiên, sự phát triển xã hội bao giờ cũng là sự thống nhất
giữa khách quan và chủ quan. Song, hoạt động chủ quan của con người chỉ góp phần
thúc đẩy phát triển xã hội khi lấy biện chứng khách quan, quy luật khách quan làm
tiền đề. Trong thời kỳ trước đổi mới, như Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã chỉ rõ,
bên cạnh những thành công không thể phủ nhận, từ cuối những năm 70 - đầu những
năm 80 của thế kỷ XX, đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội mà
một nguyên nhân là bệnh chủ quan duy ý chí; một số chủ trương, chính sách được đề
ra không dựa trên cơ sở tất yếu khách quan, trái lại, từ mong muốn chủ quan, muốn
đốt cháy giai đoạn (như chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá khi chưa có đủ tiền đề
cần thiết, đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa với mục tiêu nhanh chóng xác lập chế
độ kinh tế xã hội chủ nghĩa đơn nhất dưới hai hình thức toàn dân và tập thể ). Để
khắc phục sai lầm đó, Đại hội VI của Đảng đã nêu một trong những bài học kinh

nghiệm là: "Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo
quy luật khách quan"(1).
Quán triệt bài học nêu trên vào việc hoạch định, từng bước hoàn thiện đường lối đổi
mới, chúng ta đã có một loạt chủ trương đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan
của bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện, hoàn cảnh mới của thế giới và
trong nước: phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở
đa dạng hoá về sở hữu, về thành phần kinh tế; trong đó, phải làm cho kinh tế nhà
nước nắm vai trò chủ đạo, kinh tế toàn dân và tập thể tạo thành nền tảng của nền kinh
tế quốc dân; chấp nhận nhiều hình thức và quy mô thu nhập; đổi mới hệ thống chính
trị theo hướng dân chủ hoá hệ thống đó, xác lập nhà nước pháp quyền, lấy mức độ
bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân làm thước đo đánh giá đổi mới hệ thống chính
trị nói chung, đổi mới nhà nước nói riêng; đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối

ngoại; trong khi xem nội lực là quyết định, cũng không xem nhẹ ngoại lực, phải biến
ngoại lực thành nội lực cho sự phát triển đất nước
Những đổi mới đó, một mặt, xuất phát từ biện chứng khách quan của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện của đất nước và thời đại ngày nay; mặt khác,
làm bộc lộ biện chứng khách quan đó.
Hai là, đường lối đổi mới vì chủ nghĩa xã hội là kết quả vận dụng tổng hợp những quan
điểm phương pháp luận cơ bản của triết học mácxít nói chung, của phép biện chứng xã
hội nói riêng vào giai đoạn phát triển mang tính bước ngoặt ở nước ta hiện nay.
Bằng việc khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân
văn, thực tiễn nhân loại, triết học mácxít khẳng định rằng, để nhận thức và hoạt
động thực tiễn có hiệu quả, chúng ta phải quán triệt quan điểm về tính khách quan
của sự xem xét, quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm phát
triển và quan điểm thực tiễn. Trong quá trình hoạch định, từng bước hoàn
thiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã vận dụng các quan điểm phương pháp luận đó để
phân tích tình hình đất nước và thời đại, từ đó, ngày càng nhận thức sâu sắc hơn, đúng
đắn hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Ở
đây, chỉ xin minh chứng cho nhận định đó bằng việc làm rõ sự thể hiện quan điểm toàn

diện trong đường lối đổi mới của Đảng.
Trước hết, cần khẳng định rằng, toàn diện không đồng nhất với dàn đều, mà có sự
kết hợp chặt chẽ giữa "điểm" và "diện", giữa "chính sách dàn đều" và "chính sách có
trọng tâm, trọng điểm". Nói đúng hơn, đây không phải là kết hợp hai chính sách, mà
trong một chính sách đúng đắn tất yếu phải bao hàm hai mặt đó.
Trong đường lối đổi mới đất nước, ngay từ đầu, Đảng ta đã khẳng định: phải đổi mới
toàn diện, từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ chức bộ máy, đổi mới phương thức lãnh
đạo, phong cách hoạt động, đổi mới công tác cán bộ; từ đổi mới kinh tế đến đổi mới
chính trị, tư tưởng - văn hoá; từ đổi mới đường lối đối nội đến đổi mới đường lối đối
ngoại Trong tổng thể đổi mới toàn diện đó, Đảng ta khẳng định đổi mới kinh tế,
phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, phát
triển văn hoá, làm cho văn hoá thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội. Sự kết hợp
"dàn đều" với "có trọng tâm, trọng điểm" trong tổng thể đường lối đổi mới cũng như
trong từng chính sách đổi mới và trong việc tổ chức thực tiễn hiện thực hoá chúng đã

làm cho 20 năm đổi mới đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Ba là, bản thân quá trình đổi mới là quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn(2).
Đây là biện chứng khách quan của chính quá trình đổi mới.
Biện chứng trước hết là biện chứng về các mâu thuẫn. Xét từ giác độ đó, tính biện
chứng của đổi mới hiện nay thể hiện qua một loạt mâu thuẫn sau: mâu thuẫn giữa
yêu cầu tăng trưởng, phát triển kinh tế với sự bất cập của cơ chế, chính sách khai
thác nguồn lực hiện nay; mâu thuẫn giữa tính ưu việt của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với những hạn chế trong việc tìm ra quyết sách khắc phục
mặt trái của kinh tế thị trường; mâu thuẫn giữa tính tất yếu khách quan phải nâng cao
sự đồng thuận xã hội trong đổi mới đất nước với sự tấn công nhằm phá hoại khối đại
đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch trong và ngoài nước; mâu thuẫn giữa
yêu cầu nâng cao tính tích cực chính trị với lối sống thực dụng trong một bộ phận
cán bộ, đảng viên và nhân dân; mâu thuẫn giữa yêu cầu đẩy mạnh đổi mới hệ thống
chính trị với sự thiếu hụt trong những biện pháp mang tính đột phá trên lĩnh vực này;
mâu thuẫn giữa quá trình phát triển dân chủ với tình trạng thiếu giá đỡ về lý luận cho

quá trình đó; mâu thuẫn giữa tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với khả
năng giữ vững độc lập tự chủ trong hội nhập và khắc phục những tác động tiêu cực
của hội nhập; mâu thuẫn giữa việc giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng
- nhân tố quyết định thành công sự nghiệp đổi mới - với tình trạng một số mặt của
Đảng chưa thật ngang tầm trước đòi hỏi của tình hình; thực tiễn đổi mới đang đặt ra
nhiều vấn đề lý luận phải giải đáp với sự chưa ngang tầm trong năng lực tư duy lý
luận của chủ thể lãnh đạo công cuộc đổi mới
Việc giải quyết có hiệu quả những mâu thuẫn và những vấn đề có tính mâu thuẫn trên
đây là một điều kiện căn bản để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Bốn là, đổi mới và phát triển là một vấn đề có tính quy luật của quá trình phát triển
nói chung, của đổi mới vì chủ nghĩa xã hội nói riêng.
Như trên đã đề cập, trong biện chứng khách quan, cái quan trọng nhất là quy luật
khách quan - nhân tố nội tại quy định một cách căn bản sự vận động và phát triển của
sự vật. Việc xác định đổi mới và phát triển là một vấn đề có tính quy luật cũng có

nghĩa khẳng định bộ phận quan trọng nhất trong biện chứng khách quan của sự phát
triển xã hội nói chung, của đổi mới ở Việt Nam hiện nay nói riêng.
Phân tích tình hình đất nước trong những năm cuối thập niên 70 - đầu thập niên 80
của thế kỷ XX, Đại hội VI của Đảng đã nhấn mạnh: đổi mới là vấn đề có ý nghĩa
sống còn.
Trong 20 năm qua, nhận thức về "đổi mới ở Việt Nam" cũng không ngừng phát triển.
Thời kỳ đầu, "đổi mới" được hiểu như là những suy nghĩ, những hành động riêng lẻ,
cụ thể nhằm thay đổi một nhận thức, một cách làm nhất định nào đó có tính tình thế;
càng về sau, càng nhận thức đầy đủ hơn về "đổi mới" - đó là vấn đề chiến lược lâu
dài trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; nó bao quát toàn diện, không trừ lĩnh
vực nào của quá trình đó. Đổi mới là quá trình loại bỏ những gì kìm hãm và cản trở
sự phát triển, tổ chức lại xã hội, đưa vào cơ chế vận hành của xã hội một hệ thống
đồng bộ các yếu tố vật chất và tinh thần, tạo nên lực lượng cho sự phát triển vượt

bậc. "Đổi mới" - đó là quá trình giải phóng mang ý nghĩa toàn diện của từ đó - giải
phóng về tư tưởng, giải phóng lực lượng sản xuất, giải phóng mọi tiềm năng sáng tạo
của con người, giải phóng khả năng trí tuệ của nhân dân, để phục vụ cho sự phát
triển con người, bảo đảm tự do, sáng tạo của nhân dân(3). "Đổi mới" còn là quá trình
sửa lại những nhận thức không đúng về "cái cũ", nhưng "cái cũ" ấy lại là cái đúng,
để hiểu đúng nó hơn, vận dụng có hiệu quả hơn vào thực tiễn mới. "Đổi mới" còn là
làm rõ cái gì là đúng của ngày hôm qua, nhưng do hoàn cảnh đã thay đổi, ngày hôm
nay không còn thích hợp, cần từ tổng kết thực tiễn để khái quát lý luận nhằm bổ
sung, phát triển nhận thức, phát triển nền tảng tư tưởng của chúng ta. Nhờ vậy, nền
tảng tư tưởng đó thực hiện có hiệu quả hơn chức năng là cơ sở hoạch định và triển
khai đường lối của Đảng, thúc đẩy đất nước phát triển…
"Đổi mới" mà chúng ta đang tiến hành nhằm thay đổi căn bản mô hình phát triển đất
nước đi lên chủ nghĩa xã hội(4). Trong nhiều năm trước đây, mọi quan niệm chính
thống đã được lan truyền rộng rãi trong các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa là
chỉ có một mô hình duy nhất về chủ nghĩa xã hội - mô hình Xô viết mà về thực chất,
là mô hình "chủ nghĩa xã hội nhà nước", tập trung quan liêu, bao cấp. Những khuyết
tật của mô hình này ngày càng trở thành nhân tố cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội
ở các nước xã hội chủ nghĩa nói chung, ở nước ta nói riêng. Đại hội VI của Đảng đã

đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước; trong đó, về kinh tế, dứt khoát chuyển
sang mô hình hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Sự thay đổi đó động chạm tới
toàn bộ các lĩnh vực khác của xã hội, mà việc thực hiện những thay đổi tương ứng sẽ
tạo thành bước ngoặt mang tính cách mạng hết sức sâu sắc.
Sự đổi mới toàn diện, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, có liên quan tới vấn
đề điều chỉnh cơ cấu lợi ích; do vậy, sẽ không tránh khỏi những mâu thuẫn, gặp
nhiều khó khăn phức tạp. Thêm vào đó, đổi mới về chính sách đối ngoại, tích cực và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng giao lưu, hợp tác trên nhiều lĩnh vực
khác cũng có nhân tố phát sinh ngoài mong đợi của chúng ta - đó là sự thâm nhập
của một số quan niệm về văn hoá, xã hội, đạo đức, lối sống đã lỗi thời của phương
Tây, đụng chạm tới nền văn hoá dân tộc, truyền thống đạo đức tốt đẹp của nhân dân.

Tình hình đó có thể biến thành các nhân tố gây mất ổn định trong tiến trình đổi mới,
ảnh hưởng tới sự phát triển ổn định của xã hội. Không có môi trường chính trị, xã hội
ổn định thì không thể có bước tiến nào trong đổi mới, thậm chí có thể làm cho thành
quả đổi mới bị mất đi. Rõ ràng đổi mới, ổn định,phát triển có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Ổn định là tiền đề cho đổi mới và phát triển. Nhưng chỉ có kiên trì đổi mới,
đẩy nhanh phát triển mới có thể tạo ra cơ sở cho môi trường xã hội ổn định. Ổn định
là tiền đề, đổi mới là động lực, phát triển là mục tiêu.
Để tiếp tục đổi mới và phát triển với hiệu quả cao hơn, chúng ta không thể chỉ dừng
ở việc nhận thức đúng tính quy luật đó, mà điều quan trọng hơn là phải hoàn thiện
những điều kiện để tính quy luật này phát huy tác động của mình. Trong vấn đề
này, đổi mới và phát triển chính đường lối đổi mới là điều kiện có tính tiền đề; đổi
mới và phát triển trong tổ chức thực tiễn hiện thực hoá đường lối đólà điều kiện có
tính quyết định sự phát triển tiến bộ trong thực tế xã hội.
II. PHÉP BIỆN CHỨNG TRONG ĐỔI MỚI MỘT SỐ LĨNH VỰC CƠ BẢN
CỦA ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1. Biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
Nhìn lại 20 năm đổi mới, hầu hết mọi người trong chúng ta đều cho rằng, nhờ giải
quyết đúng mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, chúng ta đã giữ
vững được định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước hoà bình, ổn định, tạo điều kiện
thuận lợi cho phát triển kinh tế và các mặt khác của đời sống xã hội; mặt khác, chính

đổi mới kinh tế đã đặt ra nhiều vấn đề bức xúc phải đổi mới về chính trị. Sự kết hợp
tương đối hài hoà giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một thành công lớn của
Đảng, của dân tộc ta. Song, bên cạnh những luồng ý kiến chủ đạo trên, lại có một số
người cho rằng, trong 20 năm qua, chúng ta mới tập trung đổi mới kinh tế, không
quan tâm đúng mức tới đổi mới chính trị; sự lạc hậu của thượng tầng chính trị đang là
lực cản cơ bản của đổi mới đất nước nói chung, đổi mới mạnh mẽ hơn trên lĩnh vực kinh
tế nói riêng. Để minh chứng cho nhận định đó, người ta cho rằng, chúng ta vẫn duy trì
chế độ một Đảng duy nhất cầm quyền, nhất nguyên về chính trị, trong khi kinh tế là đa
thành phần - đa nguyên. Sự không ăn khớp đó là "đi ngược lại quan điểm duy vật

mácxít, theo đó, chính trị là sự phản ánh của kinh tế, chính trị do kinh tế quyết định".
Phù hợp với nền kinh tế đa nguyên, theo họ, cần có chế độ chính trị đa nguyên.
Liên quan tới ý kiến vừa nêu, trước hết, về mặt lý luận, cần khẳng định rằng, chính
trị không phải là sự phản ánh của kinh tế một cách giản đơn, mà là sự biểu hiệntập
trung của kinh tế. Chúng tôi nhấn mạnh chữ "tập trung" nhằm lưu ý rằng, chính trị
không phải là gương soi đời sống kinh tế, mà là sự phản ánh khái quát, làm nổi bật
nhân tố chủ đạo trong đời sống kinh tế. Chính nhân tố chủ đạo đó quy định nội dung
căn bản của chính trị thuộc giai cấp cầm quyền. Ở nước ta hiện nay, nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa lấy kinh tế nhà nước làm chủ đạo, kinh tế nhà
nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Sự
nhất nguyên về chính trị, một Đảng duy nhất cầm quyền - Đảng Cộng sản Việt Nam
- chính là "sự biểu hiện tập trung" của nền kinh tế đó.
Ngoài ra, lịch sử chính trị thế giới chứng minh rằng, hình thức tổ chức quyền lực
chính trị còn bị quy định bởi truyền thống chính trị của đất nước, bởi bối cảnh lịch sử
- cụ thể của mỗi quốc gia, bởi mối tương quan lực lượng trên chính trường Xét từ
tất cả các nhân tố đó, sự lựa chọn chế độ chính trị nhất nguyên, một Đảng duy nhất
cầm quyền là một tất yếu lịch sử, phù hợp với nhu cầu phát triển đất nước ta, đáp ứng
đúng đòi hỏi của tuyệt đại đa số nhân dân và đã được thực tiễn kiểm chứng. Trong 20
năm qua, sự ổn định của thể chế chính trị nhất nguyên đã tạo điều kiện vô cùng thuận
lợi cho sự phát triển kinh tế và mọi mặt khác của xã hội. Nhờ vậy, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, với sự nỗ lực to lớn của toàn dân, chúng ta đã đạt được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử như trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội X của Đảng đã nêu.

Hơn nữa, cả về lý luận lẫn thực tiễn, 20 năm qua, chúng ta không chỉ đổi mới kinh tế,
mà đã từng bước đổi mới về chính trị, thậm chí, chính những đổi mới về chính trị
còn đóng vai trò là màn dạo đầu cho đổi mới kinh tế. Nền kinh tế nhiều thành phần
không thể ra đời, nếu không có tư duy chính trị mới về tính biện chứng đầy mâu
thuẫn của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội, nếu vẫn giữ mãi quan niệm cũ kỹ cho
rằng, để có chủ nghĩa xã hội, phải nhanh chóng loại bỏ sở hữu tư nhân dưới mọi hình
thức, vẫn xem cải tạo xã hội chủ nghĩa để nhanh chóng xác lập một cách phổ biến

chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa đơn nhất dưới hình thức toàn dân và tập thể là công
việc phải làm càng nhanh bao nhiêu càng tốt, nhờ vậy mà xoá bỏ được tình trạng
người bóc lột người - mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế cũng
không thể phát triển mạnh mẽ như đã thấy, nếu chúng ta vẫn giữ tư duy chính trị cũ
về công nghiệp hoá bằng việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý,
vẫn cho rằng phải công nghiệp hoá rồi mới đi vào hiện đại hoá, trong công nghiệp
hoá thì lấy công nghiệp hoá để thay thế nhập khẩu làm nhiệm vụ trọng tâm. Kinh tế
cũng không thể phát triển, nếu vẫn giữ quan niệm độc lập tự chủ theo nghĩa bảo đảm
tự cung tự cấp mọi sản phẩm tiêu dùng thiết yếu, vẫn "tự lực cánh sinh" trong sự đối
lập với hội nhập quốc tế Kinh tế chắc chắn không thể phát triển được, nếu trong tư
tưởng chính trị vẫn kỳ thị bóc lột, vẫn xem mọi hình thức bóc lột đều là tiêu cực, cản
trở sự phát triển, mọi người giàu trước (dù do tài năng làm ăn của mình một cách
chính đáng) cũng bị lên án, vẫn duy trì mãi một quan niệm đã lỗi thời: "Mọi người
phải dàn hàng ngang mà tiến", "xấu đều hơn tốt lỏi", "chết một đống còn hơn sống
một người". Những tư duy chính trị cũ kỹ đó đã là lực cản lớn đối với việc giải
phóng con người, kìm hãm phát triển kinh tế.
Mọi hoạt động của con người đều bị chi phối bởi nhận thức nhất định. Xét trên quy
mô xã hội và vì sự tiến bộ của chế độ chính trị - xã hội trong giai đoạn hiện nay của
thời đại - khi các vấn đề chính trị đang thâm nhập ngày càng sâu vào mọi mặt đời
sống xã hội, thì nhận thức chính trị, ý thức chính trị có vai trò chi phối cực kỳ to lớn.
Nhận thức chính trị của chủ thể cầm quyền có tác động sâu sắc tới sự vận động, phát
triển của mọi lĩnh vực khác trong xã hội, trong đó có lĩnh vực kinh tế. Ở Việt Nam,
sự phát triển tiến bộ của xã hội ta từ khi có Đảng đến nay đã hình thành tính tất yếu
lịch sử về vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tư duy chính trị

của Đảng in đậm nét lên lịch sử phát triển đất nước hơn 75 năm qua, càng đậm nét
hơn khi nói về 20 năm đổi mới.
2. Biện chứng giữa phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng xã hội dân
sự (hay xã hội công dân?)

Ngày nay, hầu như mọi người đều thừa nhận kinh tế thị trường, Nhà nước pháp
quyền, xã hội dân sự như cái kiềng ba chân của nền dân chủ. Trước khi đi vào đổi
mới, sự đối lập chủ nghĩa xã hội với kinh tế thị trường là một cách nhìn phổ quát. Đi
vào đổi mới. chúng ta từng bước khắc phục nhận thức phiến diện cực đoan đó: từ chỗ
đối lập kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội đã đi tới thấy rõ sự cần thiết phải kết
hợp cả hai cái đó với nhau, và ngày nay đã khẳng định rằng, kinh tế thị trường là nhân
tố nội tại, vốn có của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như
của chính xã hội xã hội chủ nghĩa.
Việc thừa nhận sự cần thiết phải xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta được
thừa nhận muộn màng hơn. Trải qua nhiều hội nghị, hội thảo, đến tháng 1 - 1994,
khái niệm này mới chính thức được đưa vào văn kiện của Đảng. Từ đó, bằng nghiên
cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, chúng ta ngày càng thấy rõ rằng, để có dân chủ, việc
tổ chức quyền lực nhà nước không có cách nào tốt hơn là tuân thủ những nguyên tắc
của Nhà nước pháp quyền.
Việc thừa nhận sự cần thiết phải thiết lập, củng cố, hoàn thiện "xã hội công dân" có
sự thận trọng hơn rất nhiều. Mãi gần đây, một số cơ quan khoa học mới được giao
nhiệm vụ nghiên cứu vấn đề này. Tin chắc rằng, những kết quả nghiên cứu sẽ mang
lại lời khẳng định cho khái niệm đó để định hướng cho thực tiễn thiết định và từng
bước hoàn thiện xã hội công dân. Một xã hội được xây dựng trên nền tảng kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, một xã hội công dân mạnh mẽ dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ thực sự là xã hội vì con người, vì nhân dân, một nền
dân chủ rộng rãi sẽ nở hoa kết trái. Bởi lẽ, bản thân nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa chỉ ra đời và phát triển được, khi thừa nhận đa dạng hoá về
sở hữu, về thành phần kinh tế, về cơ cấu lợi ích, thừa nhận người sản xuất - kinh
doanh có vị thế tự chủ, độc lập và tự chịu trách nhiệm trên thương trường; mọi thành

phần kinh tế hoạt động đúng pháp luật đều được bình đẳng trước pháp luật và đều là
bộ phận hợp thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta Những nội dung dân chủ về kinh tế do kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa mang lại vừa tạo tiền đề kinh tế - vật chất cho dân chủ hoá về chính trị, vừa đòi
hỏi phải có dân chủ về chính trị. Muốn có dân chủ trên lĩnh vực này, ngoài tiền đề
tiên quyết là bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, nhất thiết phải có Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong Nhà nước đó,
pháp luật được xem là tối thượng, tổ chức và hoạt động của mọi thiết chế quyền lực
(kể cả Nhà nước) và của mọi công dân trên tất cả các lĩnh vực cơ bản của xã hội đều
phải tuân thủ pháp luật; Nhà nước phải bảo đảm quyền công dân, quyền con người.
Những quan hệ và thiết chế xã hội ngoài nhà nước sẽ ngày càng phong phú, đa dạng;
những thiết chế mang tính độc lập, tự chủ, tự nguyện của các cộng đồng dân cư thể
hiện nhu cầu, lợi ích đa dạng của con người sẽ ngày càng được xem trọng, vai trò của
các tổ chức này ngày càng tăng lên. Sự phát triển của nền dân chủ là sản phẩm tự
nhiên của những thay đổi đó.

3. Biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hoá với thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội
Bảo đảm mối quan hệ hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hoá với thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội là một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của
định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở nước ta, là nơi thể hiện rõ nhất
tính ưu việt của chế độ xã hội ta, làm rõ sự khu biệt chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư
bản.
Chủ nghĩa xã hội là xã hội có sứ mệnh lịch sử cao cả: tạo lập những điều kiện cần
thiết cho việc hiện thực hoá đầy đủ mục tiêu giải phóng toàn diện và triệt để con
người, để làm cho mục tiêu "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự
phát triển tự do của mọi người" không dừng lại ở khẩu hiệu, mà là một hiện thực.
Muốn vậy, sự phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng đòi hỏi một tiền
đề không thể thiếu là có nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao, bền vững trong
trong hệ thống quan hệ sản xuất tiến bộ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân ngay từ
lĩnh vực kinh tế. Không có một nền kinh tế phát triển cao mà muốn không có sự chênh
lệch trong đời sống kinh tế thì sẽ tái hiện tình trạng chia đều sự nghèo khổ. Có kinh tế


phát triển cao mà không có kiểu quan hệ sản xuất tiến bộ, cho phép nhân dân làm chủ
trong sản xuất - kinh doanh sẽ tái lập trở lại chế độ người bóc lột người, của cải dồn
vào tay một thiểu số, đại đa số sống trong bần cùng (cả theo nghĩa tương đối và tuyệt
đối, phần nhiều là theo nghĩa tương đối). Cả hai tình trạng đó đều xa lạ với bản chất
của chủ nghĩa xã hội. Phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng xã hội là
con đường duy nhất để khắc phục tình hình nêu trên.
Phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng xã hội phải được tiến hành ngay
trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển kinh tế. Không thể quan niệm rằng,
phải đến khi đất nước đạt tới trình độ phát triển kinh tế cao mới có điều kiện thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội; trái lại, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của phát triển kinh tế. Song, thực tiễn xã hội lại phức tạp hơn rất
nhiều so với khái quát lý luận. Chẳng hạn, để có phát triển bền vững, sự phát triển
kinh tế phải đi đôi với bảo vệ môi trường. Trong thực tế, không hiếm trường hợp để
kinh tế phát triển, lại phải tạm thời hy sinh một phần môi trường sống. Không thể vì
khả năng có hạn (cả về khách quan lẫn chủ quan) trong việc tái sản xuất giản đơn (chứ
chưa nói tái sản xuất mở rộng) diện tích rừng mà chúng ta không được khai thác rừng;
không vì công nghệ làm sạch của ta còn quá hạn chế mà đình chỉ khai thác quặng, xử
lý quặng. Có một hồi người ta làm rùm beng tình trạng dùng phoócmôn để bảo quản
bánh phở đến mức suýt mất đi món ăn đặc sản của Hà Nội, nay không nói nữa không
phải vì người ta thôi dùng phoócmôn để xử lý bánh phở Nhiều cái tuy không cho
phép nhưng Nhà nước cũng không xử lý nghiêm, điều đó không chỉ do hữu khuynh,
mà đôi khi còn vì sự phát triển của sản xuất, của kinh tế. Tuy không nhiều, nhưng đó
cũng là những bằng chứng cho thấy, cuộc sống đôi khi phải chấp nhận có sự vi phạm
nào đó nguyên tắc nêu trên để có kinh tế phát triển. Vấn đề chỉ ở chỗ không thể lạm
dụng tình trạng bức xúc đó để vi phạm tràn lan, thành hệ thống.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, tiến bộ xã hội đòi hỏi: kinh tế
tăng trưởng nhanh, có chất lượng cao và bền vững trên cơ sở lực lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quyền làm chủ
của nhân dân đối với mọi mặt đời sống xã hội được bảo đảm. Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong sạch, vững mạnh. Văn

hoá, giáo dục, khoa học được mở mang, trình độ dân trí phát triển, quan hệ giữa con

người với con người lành mạnh; những thói hư, tật xấu bị đẩy lùi. Môi trường sinh
thái được cải thiện. Con người có cuộc sống ngày càng ấm no, tự do, hạnh phúc; có
điều kiện tiến tới phát triển toàn diện cá nhân.
Công bằng xã hội bao quát tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trên lĩnh
vực kinh tế, công bằng xã hội đòi hỏi bảo đảm sự công bằng trong phân bổ các nguồn
lực cho phát triển kinh tế, công bằng trong phân phối và phân phối lại kết quả lao
động và một chính sách điều tiết thu nhập hợp lý
Công bằng nhưng không cào bằng, không bình quân. Mỗi người có năng lực thể chất và
tinh thần khác nhau và hoạt động trong những điều kiện cụ thể không hoàn toàn như
nhau, nên họ được hưởng những lượng khác nhau về giá trị vật chất và tinh thần của xã
hội. Khi sự chênh lệch đó không dẫn đến đối cực, không dẫn đến phân cực xã hội sẽ là
một động lực cho phát triển.
4- Biện chứng giữa tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc với sự đa dạng hoá
ngày một tăng lên về cơ cấu xã hội
Qua 20 năm đổi mới, cơ cấu xã hội nước ta đã có những thay đổi đáng kể theo chiều
hướng tiến bộ. Một xã hội mở đang dần dần hình thành và phát triển, tạo ra nhiều cơ
hội và điều kiện để cho mỗi cá nhân có tính cơ động xã hội ngày càng cao. Cùng với
quan niệm truyền thống thường chỉ quy giản cơ cấu xã hội vào cơ cấu xã hội - giai
cấp, dần dần đã hình thành quan niệm mới, theo đó, xã hội được hiểu và thừa nhận là
một hệ thống đa cơ cấu tự nhiên, một hệ thống xã hội cơ cấu nhiều chiều, nhiều khía
cạnh, nhiều cấp độ. Cơ cấu xã hội - giai cấp tuy vẫn được coi là giữ vị trí then chốt,
song các phân hệ cơ cấu xã hội khác cũng đã được chú trọng: cơ cấu xã hội - nghề
nghiệp, cơ cấu xã hội - dân số, cơ cấu xã hội - dân tộc và cơ cấu xã hội - lãnh thổ.
Nhìn tổng thể, cơ cấu xã hội nước ta hiện nay bao gồm: giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân, tầng lớp trí thức, tầng lớp doanh nhân, tiểu chủ, chủ trang trại và các nhóm
xã hội khác. Các giai cấp, tầng lớp xã hội đã và đang đóng góp rất tích cực vào công
cuộc đổi mới và phát triển đất nước.
Ngay trong từng phân hệ tạo thành cơ cấu xã hội ở nước ta cũng ngày càng có cấu trúc

phức tạp. Cùng với quá trình đổi mới cơ chế và cơ cấu kinh tế, giai cấp công nhân có
sự chuyển đổi cơ cấu khá rõ nét, theo hướng tăng số lượng công nhân trong sản xuất
công nghiệp, với con số tuyệt đối là 2,56 triệu (57%); trong thương nghiệp, dịch vụ là

0,89 triệu (20%); trong xây dựng, giao thông vận tải, bưu điện là 0,79 triệu (17%);
trong các ngành nông, lâm, thuỷ sản là 0,28 triệu (6%); công nhân thuộc các doanh
nghiệp nhà nước giảm, trong khi ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng và
các doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng nhanh
Giai cấp nông dân có sự thay đổi khá rõ theo hướng tiến bộ. Hiện nay không còn
nông dân tập thể theo kiểu hình thức, số lao động thuần nông ngày càng giảm. Cơ cấu
tổng thể hiện nay gồm có: chủ trang trại, nông dân sản xuất cá thể (theo kinh tế hộ gia
đình), nông dân làm thuê, xã viên kiểu mới của các hợp tác xã kiểu mới.
Tính đến giữa năm 2005, tầng lớp trí thức có khoảng gần 2 triệu người có trình độ cao
đẳng, đại học trở lên; trong đó có gần 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, 531 giáo sư,
2.544 phó giáo sư và khoảng 16 nghìn cán bộ khoa học có trình độ thạc sĩ
Tầng lớp doanh nhân là lực lượng kinh tế - xã hội quan trọng của đất nước, được hình
thành và phát triển khá mạnh trong 20 năm đổi mới. Lực lượng này chính là "con đẻ"
của đường lối đổi mới, được thúc đẩy mạnh mẽ bởi chủ trương thực hiện nhất quán
chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trực tiếp là chính sách khuyến
khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh
doanh mà pháp luật không cấm.
Cùng với quá trình hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, tầng lớp doanh nhân đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc
đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, tham gia tích cực vào việc thực hiện các chủ trương xã hội hoá y tế,
văn hoá, giáo dục (5).
Tầng lớp tiểu chủ và những người kinh doanh nhỏ là một bộ phận cấu thành của xã
hội nước ta hiện nay. Sự tồn tại tất yếu của họ được quy định bởi cấu trúc đa sở hữu
của nền kinh tế, là sự phản ánh khách quan quá trình vận động và phát triển của lực
lượng sản xuất; hơn nữa, hoàn toàn phù hợp với tính chất đa dạng xét về phương diện

cầu tiêu dùng của xã hội trong nền kinh tế thị trường nước ta về lâu dài, và cũng hoàn
toàn phù hợp với trật tự tự nhiên của nền kinh tế thị trường mang tính nhân loại nói
chung.

Những người có công là một bộ phận mang tính đặc thù trong cơ cấu xã hội nước ta.
Trước đổi mới, tuy điều kiện kinh tế của đất nước còn rất khó khăn, bộ phận này đã
được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta quan tâm chăm sóc.
Số đồng bào theo đạo gia tăng; số tôn giáo ngày càng đa dạng.
Sự phức tạp hoá cơ cấu xã hội gắn liền với sự phức tạp hoá cơ cấu lợi ích đã có tác
động thuận – nghịch tới vấn đề tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự thống
nhất trong đa dạng là nguồn sinh lực mới cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mặt khác,
sự khác nhau về nhu cầu, lợi ích cục bộ, trực tiếp của các cộng đồng dân cư khác nhau
cũng dễ dẫn tới sự phân ly. Trong vấn đề này, để tăng cường đại đoàn kết toàn dân
tộc, phải lấy điểm tương đồng làm trọng. Ở giai đoạn hiện nay, điểm tương đồng đó là
phấn đấu vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
5. Biện chứng giữa giữ vững độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy
mạnh giao lưu hợp tác trên nhiều lĩnh vực khác
Hiện nay, không ít cán bộ, đảng viên còn nhận thức chưa đầy đủ, thấu đáo mối quan
hệ giữa độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế, từ đó trong hành động còn ngập
ngừng, thiếu nhất quán. Có tâm lý lo ngại đẩy mạnh hội nhập sẽ mất độc lập tự chủ hoặc
ngược lại là hội nhập tràn lan, vô nguyên tắc. Vậy làm sao vừa đẩy mạnh hội nhập quốc
tế, vừa giữ vững độc lập tự chủ của quốc gia? Hiểu thế nào là độc lập tự chủ và thế nào là
hội nhập quốc tế trong thế giới toàn cầu hoá ngày nay? Cần phải đổi mới quan niệm về
độc lập tự chủ như thế nào cho phù hợp với tình hình quốc tế và phù hợp với yêu cầu, lợi
ích của đất nước?
Độc lập tự chủ trong thời đại ngày nay phải bao hàm sự mở cửa với thế giới, tranh thủ
sức mạnh thời đại, nếu không, không thể có độc lập tự chủ được. Trong xu thế toàn
cầu hoá kinh tế và các nước đều tùy thuộc lẫn nhau, độc lập tự chủ là giữ vững chủ
quyền dân tộc, lợi ích quốc gia, bản sắc văn hoá, an ninh chính trị - xã hội bằng cách
khẳng định dân tộc mình, vị thế của mình, làm tăng thêm sự tuỳ thuộc của các nước

khác vào mình; mặt khác, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta phải đồng
thời là quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Việc giải quyết mối quan hệ
giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế tùy thuộc vào điều kiện cụ thể trong từng thời
kỳ, tuỳ thuộc vào từng lĩnh vực, từng quốc gia, thậm chí vào từng dự án, chương trình
hợp tác cụ thể.r

______________________
(*) Chúng tôi có sử dụng một số kết quả của đề tài mà tác giả bài viết là Thư ký. Kết
quả nghiên cứu của đề tài đã xuất bản thành sách: Đổi mới và phát triển ở Việt Nam -
một số vấn đề lý luận và thực tiễn (GS.TS. Nguyễn Phú Trọng chủ biên), Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.
(**) Giáo sư, tiến sĩ, Hội đồng Lý luận Trung ương.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII,
VIII, IX). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.29.
(2) Xem: Phạm Ngọc Quang. Công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay - nhìn từ giác
độ mâu thuẫn của quá trình phát triển. Tạp chí Triết học, số 10, 2005.
(3) Xem: Trần Nhâm. Đổi mới và phát triển bền vững dưới ngọn cờ tư tưởng của giai
cấp công nhân. Nxb Lao động, Hà Nội, 1999, tr.103 - 104.
(4) Xem: Trần Nhâm. Sđd., tr.145.
(5)
Xét riêng trong hoạt động đầu tư ở nước ta từ năm 2001 đến cuối năm 2004 và đầu
2005, có thể thấy rõ hơn vai trò của tầng lớp doanh nhân: đầu tư của khu vực dân
doanh tăng lên nhanh chóng về tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, từ 22,6%
năm 2001 lên đến 28,7% năm 2004 (trong khi đó, tỷ trọng đầu tư từ ngân sách của
Nhà nước giảm nhẹ trong 3 năm liền, trừ năm 2004 tăng chút ít; tỷ trọng tín dụng đầu
tư có xu hướng giảm, năm 2001: 18,3%, đến năm 2004 còn 10,3%; đầu tư trực tiếp
nước ngoài năm 2001 chiếm tỷ lệ 18,5%, năm 2004 chỉ còn 14%; các nguồn vốn khác
thì không ổn định và phụ thuộc nhiều vào các nhà tài trợ ).

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯ

ỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN VÀ VÌ NHÂN DÂN

NGUYỄN ĐÌNH HOÀ (*)
Ngay từ khi còn đang trong quá trình tìm tòi con đường giải phóng dân tộc, Hồ Chí
Minh đã có những nhận thức sâu sắc về vai trò, ý nghĩa của nhà nước pháp quyền
đối với việc tổ chức và quản lý xã hội. Người chủ trương sau khi Việt Nam giành
được độc lập, chúng ta phải xây dựng một nhà nước kiểu mới – Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Tính nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân thể hiện ở
cả mục đích, nguyên tắc tổ chức lẫn phương thức hoạt động của nhà nước. Nhà nước
đó phải được tổ chức một cách hợp hiến, hợp pháp; hoạt động trong khuôn khổ pháp
luật và quản lý xã hội bằng pháp luật, thể hiện sự kết hợp giữa đức trị và pháp
trị… Nó phải thực sự là công cụ quyền lực của nhân dân lao động; phản ánh, thực
hiện và bảo vệ lợi ích của nhân dân.

Trong Nhà nước và cách mạng, V.I.Lênin coi nhà nước là một trong những vấn đề
phức tạp nhất, khó khăn nhất, nhưng lại là vấn đề rất cơ bản và rất mấu chốt trong
toàn bộ chính trị mà giai cấp vô sản không thể không giải quyết trong cuộc đấu tranh
cách mạng nhằm thiết lập một chế độ xã hội mới về chất. Tiếp thu và vận dụng sáng
tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước; đồng thời, kế thừa và phát
huy những giá trị nhân loại và truyền thống dân tộc về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đưa ra những tư tưởng sâu sắc về xây dựng nhà nước kiểu mới - Nhà nước
pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Do vậy, có thể nói, việc trở
lại nghiên cứu, làm rõ những giá trị lý luận và thực tiễn trong tư tưởng của Người về
nhà nước là hết sức cần thiết, nhất là trong bối cảnh Đảng và nhân dân ta đang đẩy
mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, coi đó là
một nội dung trọng tâm của quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện
nay.

Chúng ta đều biết, sau khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã duy trì bộ máy nhà
nước phong kiến từ trung ương đến các làng xã. Sự cai trị hà khắc của nhà nước thực
dân phong kiến theo kiểu chuyên chế, không có luật pháp dân chủ ở Đông Dương đã
đặt nhân dân ta trước nỗi cơ cực vô bờ bến. Với tư cách đại diện, thay mặt cho nhóm
người Việt Nam yêu nước ở Pháp, trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi Hội
nghị Vécxây năm 1919, Hồ Chí Minh đòi hỏi chính phủ Pháp và các nước đồng
minh phải tiến hành “cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản
xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu
châu; xoá bỏ hoàn toàn các toà án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và đàn áp
bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng
chế độ ra các đạo luật”(1). Những tư tưởng này, một mặt, thể hiện sự đấu tranh của

Hồ Chí Minh vì quyền lợi của nhân dân lao động; mặt khác, thể hiện những nhận
thức sâu sắc, ngay từ rất sớm của Người về vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng của
nhà nước pháp quyền đối với việc tổ chức và quản lý xã hội khi mà sự nghiệp cách
mạng còn chưa đi đến thành công.
Dưới chế độ thực dân, phong kiến quân chủ chuyên chế, nhân dân lao động không
được hưởng một chút quyền lợi nào, dù chỉ là nhỏ nhất; ngược lại, họ bị vắt kiệt về
sức lực và của cải, bị đè nén nặng nề cả về tinh thần lẫn thể xác trong cảnh “một cổ
hai tròng”. Thay vì thực hiện những lý tưởng nhân đạo “tự do, bình đẳng, bác ái” mà
chính cách mạng tư sản Pháp nêu ra, thực dân Pháp đã vi phạm nghiêm trọng nhân
quyền, không cho những người dân thuộc địa được hưởng quyền tối thiểu về bảo
đảm luật pháp. Do vậy, để thực sự giải phóng nhân dân, Hồ Chí Minh chủ trương sau
khi đất nước giành được nền độc lập, tự do, chúng ta phải thiết lập, xây dựng một
nhà nước kiểu mới - nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân với nhiệm
vụ trọng yếu nhất là đoàn kết toàn dân, lo làm lợi cho nhân dân, trước hết là nhân dân
lao động; làm cho trong xã hội không còn tình trạng người bóc lột người và quan hệ
giữa người với người là quan hệ thân ái, bình đẳng…
Luôn có ý thức và quan điểm rõ ràng về việc thiết lập quyền lực của nhân dân, Hồ
Chí Minh cho rằng, chỉ có nhà nước do nhân dân bầu ra mới là một nhà nước hợp

hiến, hợp pháp. Bởi vậy, đối với Người, việc sớm xây dựng Hiến pháp của nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà là đặc biệt cần thiết và quan trọng. Ngay trong phiên họp đầu
tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng, chúng ta
phải có một hiến pháp dân chủ; mục đích cao nhất mà hiến pháp đó hướng tới là “
bảo đảm được quyền tự do dân chủ cho các tầng lớp nhân dân, trên cơ sở công nông
liên minh và do giai cấp công nhân lãnh đạo. Nó phải thật sự bảo đảm nam nữ bình
quyền và dân tộc bình đẳng”(2). Hiến pháp dân chủ đó không những là cơ sở pháp lý
để xây dựng một nhà nước hợp hiến, hợp pháp, mà còn là nền tảng để ban hành các
đạo luật cụ thể nhằm thực hiện và bảo đảm bằng pháp luật các quyền dân chủ của
nhân dân - điều không thể có được dưới chế độ thực dân, quân chủ chuyên chế trước
đây.
Nhưng, để xây dựng được một hiến pháp như vậy, phải tiến hành Tổng tuyển cử trên
toàn quốc, bầu ra Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước, cơ quan duy

nhất có quyền lập pháp. Ở đây, những chính sách về quyền bầu cử, ứng cử, về
phương thức tổ chức bầu cử, ứng cử là vấn đề cốt lõi, quyết định tính hợp hiến của
bộ máy nhà nước. Coi nhân dân là những người chủ thực sự của đất nước, Người
khẳng định rằng, mọi người dân, không phân biệt đảng phái, tôn giáo, giàu nghèo,
gái trai đều có quyền bầu những người đại diện cho mình tham gia Quốc hội và có
quyền ứng cử. Trong tư tưởng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến quan
hệ về trách nhiệm giữa đại biểu Quốc hội với cử tri. Người cho rằng, nhân dân có
quyền kiểm soát, giám sát và bãi miễn đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân
dân khi những đại biểu ấy không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân; rằng,
với tư cách người đại diện cho nhân dân, những đại biểu của cơ quan dân cử các cấp
phải liên hệ mật thiết với quần chúng, lắng nghe ý kiến, nắm được yêu cầu và phản
ánh đúng nguyện vọng của nhân dân.
Dưới sự chỉ đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, lần đầu tiên trong lịch sử dân
tộc, một Quốc hội được thành lập bằng phương thức tổng tuyển cử theo nguyên tắc
phổ thông đầu phiếu và Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là “chính phủ hợp

pháp duy nhất của toàn thể nhân dân Việt Nam”. Nhà nước đó được tổ chức và hoạt
động trên cơ sở những quy định của Hiến pháp, pháp luật với mục tiêu bao trùm,
xuyên suốt là “… làm theo đúng ba chính sách: Dân sinh, Dân quyền và Dân tộc”(3).
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp và pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện sâu
sắc ý chí của đại đa số nhân dân, phản ánh lợi ích và là công cụ bảo vệ lợi ích của
nhân dân. Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, phải là nhà nước thực hiện chức năng quản lý, điều hành xã hội
bằng một hệ thống pháp luật; các quyền làm chủ của nhân dân phải được thể chế hoá.
Bởi vậy, việc xây dựng Hiến pháp, pháp luật với những điều khoản, quy định cụ thể
và rõ ràng là hết sức cần thiết; tinh thần và nội dung của những đạo luật ấy phải “
thể hiện chủ trương mở rộng dân chủ, tăng cường chuyên chính”(4).
Mặt khác, thực tiễn cuộc sống luôn vận động và phát triển không ngừng; những yêu
cầu, nhiệm vụ của cách mạng cũng thay đổi trong từng giai đoạn cụ thể. Do đó, thiết
lập sự phù hợp của Hiến pháp, pháp luật với thực tiễn cuộc sống, với hoàn cảnh lịch
sử cụ thể là một tiêu chí quan trọng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Thực tế cho thấy, để tăng cường cơ
sở pháp lý (về mặt tổ chức và hoạt động) của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
cũng như để bảo đảm và thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân
trong điều kiện mới, việc tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, pháp luật cho phù
hợp với yêu cầu mới là cần thiết và phải được coi trọng. Khi trực tiếp chủ trì và chỉ
đạo việc sửa đổi Hiến pháp năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng, đó là
bản “Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước ta, thích hợp với tình hình và nhiệm vụ
cách mạng trong thời kỳ đó. Nó đã hoàn thành sứ mệnh của nó. Nhưng so với tình
hình mới và nhiệm vụ cách mạng mới hiện nay thì nó không thích hợp nữa. Vì vậy
mà chúng ta phải sửa đổi Hiến pháp ấy”(5). Tuy nhiên, Người cũng nhấn mạnh rằng,
để Hiến pháp và pháp luật đảm bảo tính khách quan, phù hợp và phản ánh đúng đắn
ý chí, nguyện vọng của nhân dân, Nhà nước phải thực hiện trưng cầu ý dân. Ý nghĩa
của trưng cầu ý dân là ở chỗ, thứ nhất, biểu hiện tính dân chủ; thứ hai, thông qua đó,
Nhà nước phát huy được trí tuệ của toàn dân tộc nhằm hoàn thiện Hiến pháp và pháp

luật, làm cho Hiến pháp và pháp luật luôn thật sự là của nhân dân, của chế độ dân
chủ mới.
Một vấn đề quan trọng khác của Nhà nước pháp quyền mà Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm là tính hiệu quả, tính nghiêm minh trong thực thi pháp luật xã hội chủ
nghĩa. Như chúng ta đã biết, trong lịch sử, không ít trường hợp trong đó pháp luật đã
được thiết lập nhưng xã hội vẫn trong trạng thái rối loạn, mất trật tự hoặc tiềm ẩn sự
bất ổn do pháp luật không nghiêm, do có một bộ phận người tự cho mình “quyền”
đứng trên pháp luật. Điều này có nghĩa là, sự hiện diện của pháp luật mới chỉ là điều
kiện cần, nhưng chưa đủ để bảo đảm ổn định xã hội. Một xã hội muốn ổn định và
phát triển không những phải có hệ thống pháp luật của mình, mà còn phải có cơ chế
thực hiện pháp luật bảo đảm tính nghiêm minh và công bằng. Nhận thức sâu sắc điều
đó, Hồ Chí Minh đòi hỏi pháp luật xã hội chủ nghĩa phải đủ mạnh, được thực hiện
nghiêm minh, việc xét xử phải khách quan, công bằng, không thiên vị. Chúng ta
đang phấn đấu đến một xã hội trong đó không có người bóc lột người, không có sự
xâm phạm và làm hại đến lợi ích chính đáng của người khác, mọi người sống và làm
việc theo Hiến pháp, pháp luật ; do vậy, đối với những kẻ bất liêm, theo quan điểm
của Người, dù kẻ đó ở địa vị nào và làm nghề gì, pháp luật cũng phải thẳng tay trừng

trị.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền, pháp luật, xét đến cùng, đều
là do con người và vì con người. Người luôn đề cao vai trò và tầm quan trọng của
pháp luật, song không vì thế mà tuyệt đối hoá pháp luật hoặc coi đó là biện pháp duy
nhất để tổ chức và quản lý xã hội. Khác với thuyết “Pháp trị” trong các xã hội phong
kiến coi pháp luật là công cụ bảo vệ lợi ích của thiểu số cầm quyền, hệ thống quan
điểm pháp luật theo tư tưởng Hồ Chí Minh luôn xoay quanh một “trục” là xây dựng
nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đồng thời hình thành pháp luật
phục vụ cho quyền lợi của nhân dân. Đó thực sự là một giá trị thấm đượm tính nhân
văn sâu sắc. Ý nghĩa nhân văn trong triết lý pháp luật của Hồ Chí Minh là ở chỗ, đối
với Người, tất cả mọi quyền lực nhà nước đều phải thuộc về nhân dân; nhân dân vừa
là mục đích mà nhà nước hướng tới phục vụ, vừa là chủ thể của nhà nước. Có thể

khẳng định rằng, sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa các yếu tố “lý” và “tình”, giữa đạo
đức và pháp luật là nét độc đáo, sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
và thực hiện Hiến pháp, pháp luật. Không phải ngẫu nhiên mà Người nhấn mạnh
rằng, trong vấn đề ở đời và làm người, điều căn bản, cốt lõi nhất là con người ta cần
phải sống với nhau sao cho có tình, có nghĩa. Ở đây, cùng với việc đề ra những
chuẩn mực đạo đức cách mạng, Người đã xây dựng được một hệ thống quan điểm
pháp luật phù hợp với quan điểm đạo đức mới, đảm bảo cho việc thực thi những
hành vi đạo đức cách mạng. Pháp luật là công cụ quản lý xã hội, điều chỉnh và định
hướng hành vi của mỗi người theo hướng ngày càng tốt hơn, ngày càng vươn tới các
giá trị chân, thiện, mỹ nhằm đáp ứng những yêu cầu, những tiêu chí mới về đạo đức
của xã hội. Giá trị to lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp giữa các yếu tố
đó chính là ở chỗ, nó chỉ ra triết lý phát triển xã hội hiện đại không phải chỉ dựa vào
một yếu tố thuần tuý - hoặc đạo đức, hoặc pháp luật, mà chính là ở mối quan hệ mật
thiết và biện chứng giữa đạo đức và pháp luật. Do đó, thấm nhuần và vận dụng sáng
tạo quan điểm về sự kết hợp đạo đức cách mạng với pháp luật theo tư tưởng Hồ Chí
Minh là cơ sở đảm bảo cho việc xây dựng, củng cố và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân mà chúng ta đang
tiến hành hiện nay.
Tính nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân thể hiện cả ở mục đích,
nguyên tắc tổ chức lẫn phương thức hoạt động của nhà nước. Đối với các cán bộ và
cơ quan nhà nước, Người đòi hỏi không những phải làm tốt công tác tuyên truyền,
phổ biến rộng rãi Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân, mà còn phải đặc biệt
“gương mẫu trong việc thi hành Hiến pháp và các luật lệ”(6). Có thể khẳng định
rằng, đây là một tư tưởng cực kỳ sáng suốt và quan trọng của Hồ Chí Minh. Trong
chế độ xã hội mới, Hiến pháp và pháp luật biểu hiện ý chí, quyền lực và bảo vệ lợi
ích của toàn dân; do vậy, tất cả mọi người đều có trách nhiệm thi hành nghiêm chỉnh.
Ngay cả hoạt động của các cơ quan nhà nước, của các cán bộ trong bộ máy nhà nước
cũng không được vượt ra ngoài, mà phải nằm trongkhuôn khổ quy định của Hiến

pháp và pháp luật. Tôn trọng và thực hiện nghiêm túc yêu cầu mang tính nguyên tắc
này cũng có nghĩa là sẽ ngăn chặn được nguy cơ lạm dụng, làm “tha hoá” quyền lực
nhà nước, hoặc khuynh hướng coi quyền lực nhà nước là thứ quyền năng vô hạn,
tuyệt đối và tách rời khỏi nhân dân.
Tựu trung lại, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân trước hết là công cụ quyền lực của nhân dân lao
động, phản ánh và bảo vệ lợi ích của nhân dân; nó được tổ chức trên cơ sở pháp luật,
hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng như việc chuyển sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay đòi hỏi Nhà
nước phải có sự đổi mới về phương pháp và tăng cường hiệu quả quản lý xã hội,
không thể chỉ bằng những chỉ thị, mệnh lệnh, mà quan trọng và căn bản hơn, phải
bằng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Điều đó quy định tính tất yếu của việc xây
dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại Đại hội lần
thứ IX, Đảng ta khẳng định: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội
bằng pháp luật”(7). Mới đây, tại Đại hội lần thứ X, khi khẳng định “Nhà nước ta là
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, Đảng ta nhấn mạnh: “Cần xây dựng cơ chế
vận hành của Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về

nhân dân… Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định
trong văn bản pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện thể chế giám sát, kiểm tra tính hợp
hiến và hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”(8).
Như vậy, có thể nói, với những giá trị khoa học to lớn, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
sâu sắc, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân chính là cơ sở, định hướng cho việc xây dựng, củng
cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà giờ đây, Đảng ta xác
định là một nhiệm vụ trọng tâm của quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta

hiện nay.r


(*) Tiến sĩ, Trưởng phòng Biên tập - Trị sự, Tạp chí Triết học, Viện Khoa học xã hội
Việt Nam .
(1) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.1. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 435 – 436.
(2) Hồ Chí Minh. Sđd., t.8, tr.322.
(3) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.440.
(4) Hồ Chí Minh. Sđd., t.8, tr.313.
(5) Hồ Chí Minh. Sđd., t.9, tr.585.
(6) Hồ Chí Minh. Sđd., t.10, tr. 30.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.131 –132.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.45.



VỀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG GIAI ĐO
ẠN TOÀN CẦU HOÁ
HIỆN NAY

NGUYỄN TRỌNG CHUẨN (*)
Trong giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay, cái giúp cho con người vượt qua những khó

khăn, thử thách, giải thoát con người khỏi những thách đố và vướng mắc của cuộc
sống, đáp ứng nhu cầu thường nhật và lâu dài của nhân loại không chỉ là kinh tế, kỹ
thuật hiện đại và công nghệ cao, mà còn là triết học. Triết học giúp cho con người
tìm ra lời giải không chỉ cho những thách đố muôn thuở, mà còn cho những vấn đề
hoàn toàn mới do quá trình toàn cầu hoá đặt ra. Triết học không chỉ giúp con người

nhận thức rõ địa vị của mình, lối sống xứng đáng với con người, mà còn giúp họ xác
định mục tiêu và lý tưởng sống để từ đó, góp phần biến đổi hiện thực nhằm phục vụ
cho chính mình. Không chỉ thế, trong giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay, triết học còn
giúp cho con người có được sự định hướng đúng đắn trong hành động và củng cố
quyết tâm hành động, đánh giá đúng những biến động đang diễn ra, gợi mở cách đi,
hướng giải quyết các vấn đề mà cuộc sống đang đặt ra. Trong công cuộc đổi mới ở
nước ta hiện nay, triết học cũng đang thực hiện chính những vai trò to lớn đó.
Nhân loại đang chứng kiến những biến động to lớn, phức tạp và có tác động sâu sắc,
nhiều mặt không chỉ đến con người và xã hội, mà còn đến cả giới tự nhiên. Các sự
biến trong xã hội dồn dập xảy ra làm cho có những cái tưởng như hết sức vững chắc
bỗng đột ngột sụp đổ; cái mới có khi chưa kịp phát huy tác dụng, thậm chí chưa định
hình rõ rệt, thì lại đã có những cái mới hơn nảy sinh bổ sung hoặc chực chờ để thay
thế.
Cùng với những biến động đó, sự tăng trưởng và phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế
toàn cầu, các thành tựu tuyệt vời của khoa học và công nghệ trong kỷ nguyên toàn
cầu hoá đang tạo nên những bước tiến mới trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống đương
đại, đang tác động mạnh đến tất cả các nền văn hoá dân tộc và đến văn minh nhân
loại nói chung. Công nghệ thông tin, các phương tiện liên lạc và giao thông hiện đại
cực kỳ thuận lợi và hiệu quả dường như đang thu nhỏ trái đất lại và biến nó thành
“ngôi làng toàn cầu”. Trong một bối cảnh như vậy đã có người nghĩ rằng, trong giai
đoạn hiện nay, chỉ có kinh tế, kỹ thuật hiện đại và công nghệ cao mới có thể là cứu
cánh giúp cho con người vượt qua những khó khăn, giải thoát con người khỏi những
thách đố và vướng mắc của cuộc sống, mới có thể đáp ứng được cả các nhu cầu
thường nhật lẫn lâu dài của nhân loại, còn triết học có lẽ đã hết thời(!).
Phải chăng đúng là như vậy?
Mọi người đều hiểu rằng, sẽ không thể có toàn cầu hoá hiện nay, trước hết là toàn

cầu hoá về kinh tế, còn bộ mặt của thế giới cùng với đời sống của từng cá nhân cũng
sẽ rất khác nếu như không có kỹ thuật hiện đại và công nghệ cao. Song, nếu tỉnh táo
mà xem xét thì chúng ta sẽ thấy nhận định trên là khá hời hợt và nông cạn. Rất dễ

dàng nhận ra rằng, trong kỷ nguyên toàn cầu hoá hiện nay, các thành tựu to lớn mà
nhân loại đạt được trong nhiều lĩnh vực khác nhau, nhất là trong khoa học và công
nghệ, trong kinh tế, một mặt, là những động lực cơ bản và quan trọng thúc đẩy xã hội
phát triển nhanh hơn, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau hơn, làm tăng khả năng
khám phá và khai thác giới tự nhiên của con người. Song, mặt khác, chính con người
và xã hội lại cũng đứng trước những sự bất thường, những mối đe doạ và những rủi
ro khó lường do hậu quả của việc chiếm dụng, sử dụng và nhất là sự lạm dụng những
thành tựu ấy của con người. Toàn cầu hoá, một mặt, là thắng lợi cực kỳ to lớn, không
thể chối bỏ của khoa học và công nghệ, của sự phát triển kinh tế; mặt khác, chính nó
cũng góp phần huỷ hoại nặng nề đối với thiên nhiên và ẩn chứa đầy nguy cơ đối với
con người.
Dựa vào những thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ, xuất phát từ thực tế
cuộc sống đương đại, con người đã có thể tự giải đáp được rất nhiều vấn đề mà họ
quan tâm. Song, đúng như Ph.Bêcơn (1561-1626) đã từng nhận xét, những điều mà
con người đã biết được chưa thấm vào đâu so với những điều mà con người còn chưa
biết. Vì vậy, con người vẫn vừa phải tiếp tục tìm kiếm lời giải cho những thách đố
muôn thuở, vừa phải trả lời cho những câu hỏi hoàn toàn mới do quá trình toàn cầu
hoá đặt ra. Đó là những câu hỏi đại loại như: thế giới này là gì? Vị trí của con người
trong thế giới đó ra sao? Ý nghĩa của cuộc sống con người trong thế giới đầy tính
cạnh tranh và rủi ro này là gì? Số phận con người do ai quyết định? Con người có thể
tránh được những tai hoạ thảm khốc do thiên nhiên đang bị chính con người tàn phá
nặng nề gây ra hay không? Liệu mỗi con người và các dân tộc có thể làm chủ được
vận mệnh của mình trong điều kiện toàn cầu hoá khi các nước phụ thuộc lẫn nhau
ngày càng chặt chẽ hơn hay không? Hạnh phúc trong thế giới đầy bất ổn này là gì?
Tại sao có nước quá giàu và có người lại quá nghèo? Có thể xoá bỏ được sự bất công
và thiết lập được sự công bằng xã hội và công lý có thể thực thi hay không? Cuộc
sống của con người trong tương lai sẽ như thế nào? Bằng cách nào để có thể ngăn
chặn được các loại bệnh lây lan rất nhanh trong kỷ nguyên toàn cầu hoá? Có phải cái

×