Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Giải pháp phát triển thanh toán quốc tế tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.44 KB, 90 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo
LỜI NÓI ĐẦU
Trong bối cảnh kinh tế thế giới đang diễn ra hiện nay với xu thế toàn
cầu hoá, hoạt động ngoại thương đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với
sự phát triển kinh tế thế giới nói chung hay nền kinh tế mỗi quốc gia nói
riêng. Tuy nhiên, để có thể phát triển được hoạt đông ngoại thương thì đi kèm
với phát triển hoạt động ngoại thương cấn có một hệ thồng thanh toán quốc tế
phát triển để có thể đáp ứng nhu cầu phát triển cao của ngoại thương.
Có thể nói, thanh toán quốc tế là một mắt xích quan trọng trong hoạt
động ngoại thương của mỗi quốc gia, nó đảm bảo quá trình lưu thông hàng
hoá một cách thông suốt cũng như những dòng vốn luân chuyển liên tục
không ngừng giữa các quốc gia song vẫn đáp ứng nhu cầu lợi ích của các bên
tham gia.
Nền kinh tế Việt Nam cũng không đứng ngoài xu thế này, trong bối cảnh
nền kinh tế Việt Nam mới gia nhập WTO trong thời gian gần đây, có thể dễ
dàng thấy được nền kinh tế nước ta đang phát triển không ngừng trong lĩnh
vực ngoại thương mà bằng chứng là tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng lên
không ngừng qua các năm cùng với tổng nguồn vốn vào và ra cũng gia tăng
một cách đáng kể. Đứng trước thực tế đó, các NHTM ở Việt Nam cũng đang
không ngừng cải tiến kỹ thuật, áp dụng các nghiệp vụ thanh toán quốc tế để
có thể đáp ứng nhu nhu cầu của nền kinh tế. Và giờ đây thanh toán quốc tế đã
trở thành một nghiệp vụ quan trọng của các NHTM và cũng đem lại một
nguồn thu nhập đáng kể cho các NHTM.
Nhận thức được điều đó, trong thời gian vừa qua, trong quá trình thực
tập tại Ngân hàng Công Thương Việt Nam chi nhánh Hoàn Kiếm, em nhận
thấy rằng mặc dù là một ngân hàng lâu đời, có bề dày lịch sử cùng với đội
ngũ nhân viên được đào tạo chuyên môn cao song hoạt động thanh toán quốc
tế còn kém phát triển, làm cho ngân hàng kém đi tính cạnh tranh và chưa đáp
ứng đầy đủ nhu cầu của nền kinh tế, cùng với đó là ngân hàng đang làm mất
SV: Đoàn Lương Phong Lớp: TCQT 48
1


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo
đi một khoản chi phí dịch vụ đáng kể mà ngân hàng có thê tạo ra từ hoạt động
thanh toán quốc tế.
Chính từ nhứng điều cảm nhận trên, em đã chon đề tài “Giải pháp phát
triển thanh toán quốc tế tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn
Kiếm”.
Bố cục chuyên đề bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn dề cơ bản về phát triển thanh toán quốc tế của
NHTM.
Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân
hàng Công thương Hoàn Kiếm.
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại chi nhánh
Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm.
Thanh toán quốc tế là một phạm trù rất phức tạp, chuyên đề chỉ là sự
nghiên cứu trên giác độ hiểu biết của em, chính vì điều đó cho nên chuyên đề
sẽ có rất nhiều thiếu sót, em kính mong thầy cô có những chỉ bảo nhiệt tình để
em có thể hoàn thiện chuyên đề cũng như là bổ sung thêm kiến thức cho bản
thân.
Để có thể hoàn thiện chuyên đề, em xin cảm ơn sự nhiệt tình chỉ bảo từ
phía giáo viên hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo đã giúp đỡ em trong
thời gian làm chuyên đề cũg như trong quá trình học tập tiếp thu kiến thức để
có thể hoàn thành chuyên đề. Em cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo trong
khoa Tài chính - Ngân hàng đã nhiệt tình dạy dỗ chúng em trong suốt 4 năm
học vừa qua.
Hà Nội, tháng 4 năm 2010
Sinh viên
Đoàn Lương Phong
SV: Đoàn Lương Phong Lớp: TCQT 48
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN
THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI NHTM
1.1 Sự cần thiết của thanh toán quốc tế qua NHTM.
1.1.1 Khái niềm về thanh toán quốc tế.
Trong lịch sử phát triển và hình thành loài người, các quốc gia quan hệ với
nhau bao gồm trên nhiều lĩnh vực, như kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hoá,
khoa học kỹ thuật... mà trong đó, quan hệ kinh tế (ở đây chủ yếu là ngoại
thương) chiếm vị trí chủ đạo, là cơ sở cho các quan hệ quốc tế khác tồn tại và
phát triển. Quá trình tiến hành các hoạt động quốc tế dẫn đến nhu cầu thanh
toán giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau, từ đó hình thành và phát triển
hoạt động thanh toán quốc tế, trong đó ngân hàng đóng vai trò là cầu nối
trung gian giữa các bên.
Từ các phân tích trên, ta có khái niệm về thanh toán quốc tế: Thanh toán
quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả và quyền hưởng lợi về tiền tệ
phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân quốc gia
này với tổ chức, cá nhân quốc gia khác, hay giữa một quốc gia với tổ chức
quốc tế, thông qua các mối quan hệ giữa các ngân hàng của các quốc gia liên
quan.
1.1.2. Sự cần thiết của thanh toán quốc tế qua Ngân hàng thương mại.
Trong buôn bán trao đổi quốc tế mà nói chung là hoạt động ngoại thương,
không phải lúc nào các nhà xuất nhập khẩu cũng có thể thanh toán tiền hàng
trực tiếp cho nhau mà thông thường phải qua ngân hàng thương mại với mạng
lưới chi nhánh và hệ thông ngân hàng đại lý rông khắp. Khi thay mặt khách
SV: Đoàn Lương Phong Lớp: TCQT 48
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo
hàng thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế, các ngân hàng đóng vai trò là
trung gian thanh toán giữa hai bên mua bán.
Với vị trí trung gian thanh toán, các ngân hàng tiến hành thanh toán theo

yêu cầu của khách hàng, bảo vệ quyền lợi của khách hàng trong giao dịch
thanh toán, tư vấn, hướng dẫn khách hàng những biện pháp kỹ thuật nghiệp
vụ thanh toán quốc tế nhằm hạn chế rủi ro, tạo lòng tin cho khách hàng trong
quan hệ giao dịch mua bán với đối tác nước ngoài. Mặt khác, trong quá trình
thực hiện các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, khách hàng không đủ năng lực về
vốn sẽ cần sự trợ giúp từ phía ngân hàng, ngân hàng sẽ thực hiện tài trợ xuất
nhập khẩu cho khách hàng một cách chủ động và tích cực. Tựu chung lại,
ngân hàng là người cung cấp hoàn hảo các loại hình dịch vụ kỹ thuật và tài
chính nhằm hỗ trợ cho khách hàng thực hiện các hoạt động thương mại quốc
tế. Nếu không có hệ thống ngân hàng thương mại hiện đại như thời đại ngày
nay, hoạt đông thương mại quốc tế không những không phát triển mà còn rất
khó tồn tại theo đùng nghĩa của nó. Do đó hoạt động thương mại quốc tế ngày
nay luôn đòi hỏi sự tham gia, hỗ trợ về kỹ thuật nghiệp vụ, tài chính của ngân
hàng thương mại. Ngân hàng thương mại cung cấp các phương án lựa chọn
phương thức thanh toán quốc tế, tài trợ xuất nhập khẩu, đảm bảo lợi ích và an
toàn cho cả hai bên tham gia trao đổi, thông qua đó sẽ thúc đẩy ngoại thương
phát triển và mở rộng quan hệ với các nước khác trong khu vực và thế giới.
Tóm lại, trong quy trình hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi quốc qia,
hệ thông ngân hàng tham gia và giữ vai trò trung tâm trong hầu hết các khâu
như: thanh toán quốc tế, tài trợ xuất nhập khẩu, mua bán ngoại tệ, bảo lãnh
ngân hàng trong ngoại thương... Thanh toán giữa các nước sẽ được thực hiện
thông qua cầu nối ngân hàng và ngân hàng thương mại trong thanh toán quốc
tế đóng vai trò là chất xúc tác, là điều kiện đảm bảo an toàn và hiệu quả cho
SV: Đoàn Lương Phong Lớp: TCQT 48
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo
các bên tham gia hoạt động xuất nhập khẩu đồng thời tài trợ cho các doanh
nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh XNK.
1.1.3 Vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế đối với nền kinh tế, với
khách hàng và với ngân hàng.

*Với nền kinh tế.
Trước xu thế kinh tế thế giới ngày càng được phát triển theo hướng quốc
tế hoá, các quốc gia đều cố gắng phát triển kinh tế thị trường, mở cửa, hội
nhập sâu và rộng hơn với thế giới, trong tình hình đó, thanh toán quốc tế nổi
lên với vai trò là chiếc cầu trung gian giữa kinh tế trong nước và kinh tế thế
giới, có tác dụng làm chất xúc tác bôi trơn và thúc đẩy hoạt động thương mại
quốc tế của mỗi quốc gia, kèm theo đó là các hoạt động đầu tư, thu hút kiều
hối và các hoạt động tài chính tín dụng khác. Vai trò của hoạt động thanh toán
quốc tế ngày càng được khẳng định trong hoạt động của nền kinh tế quốc dân
nói chung và trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại nói riêng. Đặc biệt trong bối
cảnh hiện nay, các quốc gia đều coi hoạt động kinh tế đối ngoại là trung tâm,
coi hoạt động kinh tế đối ngoại là con đường tất yếu để có thể phát triển kinh
tế quốc gia.
Thanh toán quốc tế là mắt xích quan trọng trong quá trình mua bán trao
đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các tổ chức, cá nhân thuộc các nền kinh tế khác
nhau. Nếu không có hoạt động thanh toán quốc tế tồn tại, các hoạt động kinh
tế đối ngoại khó có thể phát triển được. Nếu hoạt động thanh toán quốc tế
được diễn ra một cách nhanh chóng, chính xác, an toàn, thì sẽ giải quyết được
quan hệ lưu thông hàng hóa - tiền tệ giữa người mua và người bán một cách
có hiệu quả. Về giác độ kinh tế, người mua trả tiền, người bán giao hàng thể
hiện chất lượng của chu kỳ kinh doanh, phản ánh hiệu quả kinh tế và tài chính
trong hoạt động của từng doanh nghiệp.
SV: Đoàn Lương Phong Lớp: TCQT 48
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo
Tóm lại, với nền kinh tế, hoạt động thanh toán quốc tế đóng vai trò quan
trọng thể hiện ở các mặt: Bôi trơn và thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế
của nền kinh tế như một tổng thể. Bôi trơn và thúc đẩy hoạt động đầu tư nước
ngoài gián tiếp và trực tiếp. Thúc đẩy và mở rộng hoạt động dịch vụ như hợp
tác quốc tế, du lịch, ngoại giao. Tăng cường và thu hút kiều hối và các nguồn

lực tài chính quan trọng khác. Thúc đẩy hội nhập thị trường tài chính quốc gia
với thị trường tài chính quốc tế.
*Đối với khách hàng.
Vai trò trung gian của ngân hàng trong hoạt động thanh toán quốc tế giúp
cho quá trình thanh toán theo yêu cầu của khách hàng được tiến hành một
cách chính xác, an toàn, tiện lợi, và tiết kiệm tối đa chi phí. Trong quá trình
thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế, nếu khách hàng không có đủ khả
năng về tài chính, cần đến sự trợ giúp từ phía ngân hàng thì ngân hàng sẽ
chiết khấu bộ chứng từ, hoặc có thể có những sự trợ giúp cho khách hàng như
tín dụng, bảo lãnh..... . Qua việc thực hiện thanh toán, khách hàng còn được
nhận sự tư vấn của ngân hàng để có chiến lực kinh doanh phù hợp với điều
kiện của mình.
*Với ngân hàng.
Trong một số năm trở lại đây, hoạt động thanh toán quốc tế tại các ngân
hàng thương mại Việt Nam được quan tâm chú ý đầu tư và phát triển hơn bao
giờ hết, từ việc đầu tư đào tạo cán bộ chuyên gia thanh toán quốc tế đến đầu
tư rất lớn cho hệ thống công nghệ đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế... Chính
vì vậy, dịch vụ thanh toán quốc tế của các ngân hàng thương mại Việt Nam đã
thu được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, một thực tế vẫn còn đang
tồn tại, đó là hầu hết các ngân hàng thương mại mới chỉ tập trung chủ yếu vào
khâu làm thế nào để mở rộng và hạn chế rủi ro trong hoạt động thanh toán
quốc tế mà chưa quan tâm đến khâu phân tích, đánh giá hiệu quả kinh tế của
SV: Đoàn Lương Phong Lớp: TCQT 48
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo
hoạt động này. Chính vì lẽ đó, chúng ta cần phải xem xét lại lợi ích của hoạt
động thanh toán quốc tế đối với ngân hàng thương mại.
Ngày nay, hoạt động thanh toán quốc tế là một dịch vụ ngày càng trở nên
quan trọng đối với ngân hàng thương mại, nó đem lại thu nhập đáng kể không
chỉ về mặt số lượng tuyệt đối mà còn trong tỷ trọng thu nhập của ngân hàng

thương mại. Thanh toán quốc tế còn giữ vai trò là mắt xích quan trọng trong
việc chắp nối và thúc đẩy phát triển các hoạt động kinh doanh khác như kinh
doanh ngoại tệ, tài trợ xuất nhập khẩu, bảo lãnh ngân hàng trong ngoại
thương, tăng cuờng nguồn vốn huy động đặc biệt là nguồn vốn ngoại tệ.
Việc hoàn thiện và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế có vai trò hết
sức to lớn đối với hoạt động của ngân hàng, nó không đơn thuần chỉ là một
dịch vụ thanh toán thuần tuý mà còn là mắt xích trung tâm trong dây chuyền
hoạt động kinh doanh, bổ sung và hỗ trợ cho các hoạt động kinh doanh khác
của ngân hàng.
Ngày nay, do nghiệp vụ ngân hàng quốc tế phất triển ngày càng mạnh
mẽ hơn, thuận tiện hơn, an toàn hơn và cũng hiệu quả hơn, hầu hết các họat
động thanh toán quốc tế đều diễn ra thông qua ngân hàng, đồng thời hoạt
động thanh toán quốc tế đã phát triển dựa trên một tấp quán thông nhất trên
quy mô toàn cầu thông qua các phương thức thanh toán quốc tế khác nhau.
Thông qua cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế cho khách hàng, ngân
hàng thu một khoản phí nhằm bù đắp cho các chi phí của ngân hàng và tạo ra
một khoản lợi nhuận kinh doanh cần thiết. Tuỳ theo từng phương thức thanh
toán, môi trường cạnh tranh và độ tín nhiệm của khách hàng mà khoản thu phí
dịch vụ này có khác nhau cho các khách hàng khác nhau song thu nhập từ
hoạt động này cũng đóng vai trò đáng kể trong tổng thu nhập của ngân hàng.
Các ngân hàng thương mại ngày nay hoạt động đa năng , tạo ra một quy
trình kinh doanh khép kín, mỗi nghiệp vụ tạo ra một mắt xích không thể thiếu,
SV: Đoàn Lương Phong Lớp: TCQT 48
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo
trong đó hoạt động thanh toán quốc tế được xác định như là một nghiệp vụ
căn bản, làm tiền đề cơ sở cho các nghiệp vụ khác phát triển như kinh doanh
ngoại tệ, tài trợ xuất nhập khẩu, bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động ngoại
thương..... Chính từ lẽ đó, việc các ngân hàng chú trọng mở rộng hoạt động
thanh toán quốc tế là hiển nhiên và dễ hiểu. Bên cạnh phát triển hoạt động

thanh toán quốc tế, việc phân tích đánh giá hiệu quả hoạt động này cũng quan
trong không kém và để làm được điều đó phải cần đế một hệ thông chỉ tiêu
đánh giá hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng thuơng mại.
1.2 Các phương thức thanh toán quốc tế.
Phương thức chuyển tiền.
Phương thức chuyển tiền là phương thức mà trong đó khách hàng
(người chuyển tiền) yêu cầu Ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất
định tới cho một người khác (người thụ hưởng) tại một địa điểm nhất định và
trong một thời gian nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng
yêu cầu.
Có thể nói, chuyển tiền là phương thức thanh toán đơn giản, trong đó
người chuyển tiền và người nhận tiền tiến hành thanh toán với nhau trực tiếp.
Ngân hàng khi thực hiện nghiệp vụ này chỉ đóng vai trò trung gian, thanh toán
theo uỷ nhiệm để hưởng hoa hồng và không bị ràng buộc bất cứ trách nhiệm
gì với với người chuyển tiền và người người nhận tiền.
Các bên tham gia.
- Người yêu cầu trả tiền (Remitter): Là người yêu cầu ngân hàng
chuyển tiền cho đối tác nước ngoài.
- Người thụ hưởng (Beneficiary): Là người được nhận số tiền do ngân
hàng chuyển tới do người chuyển tiền chỉ định.
- Ngân hàng chuyển tiền (Remitting bank): Là ngân hàng phục vụ cho
người chuyển tiền, nhận yêu cầu từ người chuyển tiền.
SV: Đoàn Lương Phong Lớp: TCQT 48
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo
- Ngân hàng uỷ nhiệm (Paying bank): là ngân hàng trả tiền cho người
thụ hưởng, là ngân hàng đại lý hay chi nhánh của ngân hàng chuyển
tiền.
Sơ đồ 1.1 Quy trình nghiệp vụ chuyển tiền.
1- Người xuất khẩu giao hàng và chuyển bộ chứng từ cho người nhập

khẩu
2- Người nhập khẩu kiểm tra hàng hoá – bộ chứng từ. Nếu phù hợp lập
thủ tục chuyển tiền.
3- Ngân hàng nhận chuyển tiền lập thủ tục chuyển tiền qua ngân hàng
đại lý (hoặc chi nhánh) nhận trả tiền.
4- Ngân hàng trả tiền- thanh toán tiền cho người thụ hưởng.
Thanh toán chuyển tiền thường có thể thực hiện theo 2 hình thức.
- Chuyển tiền bằng điện (Telegraphic Transfer – T/T).
Chuyển tiền bằng điện là hình thức chuyển tiền trong đó lệnh thanh
toán của ngân hàng chuyển tiền được thể hiện trong nội dung một bức điện
gửi cho ngân hàng trả tiền thông qua telex hay mạng swift. Chuyển tiền bằng
điện có chi phí cao nhưng lại có ưu điểm ở chỗ tốc độ cao.
- Chuyển tiền bằng thư (Mail Transfer – M/T).
SV: Đoàn Lương Phong Lớp: TCQT 48
Người yêu cầu chuyển tiền Người thụ hưởng
Ngân hàng nhận chuyển tiền Ngân hàng trả tiền
(1)
(2) (3)
(4)
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo
Chuyển tiền bằng thư là hình thức chuyển tiền, trong đó lệnh thanh
toán của ngân hàng chuyển tiền được chuyển bằng thư cho ngân hàng thanh
toán. Chuyển tiền bằng thư thì chi phí thấp hơn chuyển tiền bằng điện, song
tốc độ lại chậm hơn. Chính nhờ lẽ đó mà chuyển tiền bằng điện thì người
chuyển tiền không bị đọng vốn lâu ngày.
Nhận xét:
Có thể thấy trong thanh toán bằng chuyển tiền, việc có trả tiền hay không
phụ thuộc vào thiện chí của người mua. Người mua sau khi nhận hàng có thể
không tiến hành chuyển tiền hoặc cố tình dây dưa, kéo dài thời gian chuyển

tiền nhằm chiếm dụng vốn của người bán, do đó, quyền lợi của người bán
không đảm bảo. Do đó trong ngoại thương, chuyển tiền chỉ áp dụng trong
trường hợp các bên mua bán có uy tín và tin cậy lẫn nhau.
Phương thức ghi sổ (open account)
Là phương thức thanh toán, trong đó nhà xuất khẩu sau ghi Nợ tài khoản
cho bên nhập khẩu sau khi đã giao hàng vào một cuốn sổ theo dõi và việc
thanh toán các khoản nợ này được thực hiện thông thường theo định kì như đã
thoả thuận.
Đặc điểm của phương thức thanh toán mở tài khoản.
- Không có sự tham gia của ngân hàng với vai trò là người mở tài
khoản và thực hiện thanh toán.
- Chỉ có sự tham gia thanh toán của hai bên là người xuất khẩu và
người nhập khẩu.
- Không mở tài khoản song biên, chỉ mở tài khoản đơn biên. Nếu
người nhập khẩu mở tài khoản này chỉ là tài khoản theo dõi, không có
hiệu lực quyết toán
Hai bên mua bán phải thực sự tin tưởng nhau.
SV: Đoàn Lương Phong Lớp: TCQT 48
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo
Sơ đồ 1.2.Qquy trình nghiệp vụ phương thức ghi sổ.
1- Người bán giao hàng hoá và dịch vụ cùng với chứng từ.
2- Báo nợ trực tiếp.
3- Người mua dùng hình thức chuyển tiền để trả tiền khi đến hạn.
Một số lưu ý khi thực hiện phương thức thanh toán ghi sổ.
Khi thực hiện theo phương thức này, cần quy định rõ đồng tiền ghi trên tài
khoản: thoả thuận giữa bên nhập khẩu và xuất khẩu loại tiền được sử dụng
trong thanh toán, đồng thời đưa ra biện pháp đẩm bảo hối đoái cho đồng tiền
đó, nhằm né tránh tổn thất cho cả hai bên khi tỷ giá đồng tiền thanh toán có
biến động.

Căn cứ để ghi nợ của người xuất khẩu là hoá đơn giao hàng, căn cứ để
nhận nợ của người nhập khẩu dựa vào giá trị của hoá đơn giao hàng và dựa
vào thực hàng đã nhận
Thanh toán trả tiền cho nhau dưới hình thức chuyển tiền bằng thư hay
bằng điện phải được thoả thuận hai bên.
SV: Đoàn Lương Phong Lớp: TCQT 48
Người mua
Ngân hàng bên mua
Người bán
Ngân hàng bên bán
(1)
(3)
(2)
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo
Phương thức thanh toán này giúp cho bên mua được sử dụng hàng hoá
thường xuyên, thâm chí cả lúc bên mua chưa đủ tiền, ngược lại thuận lợi cho
bên bán tiêu thụ được hàng hoá và giữ được thị trường truyền thống.
Nhận xét:
Trong giao dịch thương mại quốc tế, ghi sổ là phương thức thanh toán
thuận tiện nếu người mua có một mối quan hệ tín nhiệm về thanh toán đối với
người bán. Bằng việc mửo sổ, nhà xuất khẩu chỉ cần viết biên lai thu tiền của
khách hàng với kỳ vọng khách hàng sẽ thanh toán tiền hàng tại một thời điểm
nhất định trong tương lai.
Song, đây cũng là phương thức thanh toán chứa đựng nhiều rủi ro nhất.
Do không có chứng từ hay sự tham gia của ngân hàng làm đảm bảo,nhà xuất
khẩu giao hàng trước khi nhận được thanh toán và không thể kiểm soát được
hàng hoá cũng như việc thu tiền hàng. Nhà xuất khẩu hoàn toàn tin tưởng
người mua và trong trường hợp người mua từ chối thanh toán, giải pháp duy
nhất là đưa ra toà án. Khi ấy nhà xuất khẩu sẽ phải rất mất công sức cũng như

chi phí mà không hề được đảm bảo sẽ thu được tiền.
Phương thức thanh toán nhờ thu( Collection of payment).
Phương thức thanh toán nhờ thu là một phương thức thanh toán quốc tế
trong đó người bán (nhà xuất khẩu) sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng,
hoặc cung ứng dịch vụ cho người mua (nhà nhập khẩu), uỷ thác cho Ngân
hàng phục vụ mình xuất trình bộ chứng từ trông qua ngân hàng đại lý cho bên
mua để được thanh toán, chấp nhận hối phiếu hay chấp nhận các điều kiện và
điều khoản khác.
Trong thanh toán quốc tế, khi sử dụng phương thức này các bên tham gia
thường vận dụng “ Bản quy tắc thông nhất về nhờ thu chứng từ thương mại –
ICC 522” do phòng thương mại quốc tế Paris ban hành, bản sửa đổi năm 1995
và được viết tắt là URC 522.
SV: Đoàn Lương Phong Lớp: TCQT 48
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo
Trong thương mại quốc tế, nhờ thu thực chất là quy trình thu hộ tiền từ
người mua trả cho người bán. Phân loại nhờ thu phụ thuộc vào tính chất
chứng từ mà người mua yêu cầu làm căn cứ trả tiền. Căn cứ vào tính chất
chứng từ yêu cầu, nhờ thu bao gồm hai loại:
- Nhờ thu phiếu trơn (Clean collection)
- Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary collection)
Sơ đồ 1.3. Quy trình nhờ thu phiếu trơn.
(1)

(2) (7) (4) (5)

(3)
(6)
1- Bên bán (xuất khẩu) giựa trên hợp đồng đã thoả thuận, giao hàng hoá
đồng thời chuyển toàn bộ chứng từ hàng hoá cho bên mua (nhập khẩu).

2- Bên bán (xuất khẩu) ký phát hối phiếu đòi tiền bên mua, uỷ nhiệm thông
qua ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền từ người mua (nhập khẩu).
3- Ngân hàng phục vụ bên bán (nhà xuất khẩu) chuyển hối phiếu qua ngân
hàng phục vụ bên mua nhờ thu tiền từ người mua (nhà nhập khẩu).
4- Ngân hàng phục vụ bên mua (nhà nhập khẩu) đòi tiền người mua hoặc
yêu cầu kí chấp nhân hối phiếu.
5- Bên mua thanh toán tiền.
6- Chuyển tiền trả qua ngân hàng phục vụ bên bán.
7- Thanh toán tiền cho bên bán.
SV: Đoàn Lương Phong Lớp: TCQT 48
13
Người bán
Người mua
Ngân hàng nhận
uỷ thác thu
Ngân hàng thu hộ
Ngân hàng xuất trình
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo
Nhận xét:
Phương thức nhờ thu trơn không đảm bảo quyền lợi cho bên bán, giữa
sự trả tiền và nhận hàng tách rời, không có sự ràng buộc lẫn nhau một cách rõ
ràng. Người mua có thể nhận hàng nhưng không trả tiền hoặc trì hoãn việc
thanh toán. Ngược lại, đối với người mua, họ cũng có thể bị tổn thất khi họ
phải trả tiền trước, khi chưa nhận được hàng hoá và không biết hàng hoá có
giao đúng theo hợp đồng hay không.
Như vậy, phương thức nhờ thu trơn chỉ áp dụng trong các trường hợp
người bán và người mua tin tưởng lẫn nhau hoặc có quan hệ mật thiết với
nhau. Hoặc trong trường hợp thanh toán các dịch vụ liên quan đến xuất nhập
khẩu như tiền cước phí vận tải, bảo hiểm....
Quy trình nghiệp vụ nhờ thu kèm chứng từ giống như quy trình nhờ thu

phiếu trơn song tại bước 2, bên bán lập hối phiếu đòi tiên người mua đồng
thời chuyển bộ chứng từ hàng hoá uỷ nhiệm qua ngân hàng phục vụ mình thu
hộ tiền từ người mua.
Trong phương thức Nhờ thu kèm chứng từ, nhà xuất khẩu và nhà nhập
khẩu phải thoả thuận cụ thể điều kiện trao chứng từ quy định trong lệnh nhờ
thu là như thế nào. Trong thực tế có 2 phương thức để trao chứng từ, đó là
phương thức D/P (Documents against Payment) hay D/A (Documents against
Acceptance).
Theo điều kiện D/P thì bên mua chỉ được ngân hàng trao bộ chứng từ
nhận hàng khi họ đã thanh toán hối phiếu (D/P: Người mua thanh toán ngay
khi nhận chứng từ)
Theo điều kiện D/A thì bên mua được ngân hàng trao bộ chứng từ nhận
hàng khi họ đã kí chấp nhận hối phiếu kỳ hạn (D/A: Người mua phải chấp
nhận thanh toán khi nhận chứng từ).
SV: Đoàn Lương Phong Lớp: TCQT 48
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo
Nhận xét:
Trong nhờ thu kèm chứng từ, người bán uỷ thác cho Ngân hàng phục vụ
ngoài việc thu hộ tiền còn khống chế chứng từ hàng hóa đối với nguời mua.
Đây là điểm khác nhau cơ bản giữa nhờ thu kèm chứng từ và nhờ thu phiếu
trơn. Với cách khóng chế theo bộ chứng từ,quyền lợi của bên bán được đảm
bảo vì sự ràng buộc giữa trả tiền và nhận hàng của người mua.
Tuy nhiên, phương thức này có một số hạn chế như:
- Người bán thông qua ngân hàng, giữ bộ hồ sơ hàng hoá chỉ mới đảm
bảo được quyền sở hữu hàng hoá chứ chưa đảm bảo việc được thanh
toán từ phía người mua.
- Người mua có thể kéo dài việc thanh toán bằng cách chưa cần nhận
chứng từ hàng hoá, không thanh toán trong trường hợp thị trường biến
động bất lợi cho họ

- Mặc dù người bán vẫn có quyền sở hữu đối với hàng hoá, có thể bán
hàng cho người khác nếu người mua không thanh toán, song việc giải
toả hàng vẫn có thể gặp nhiều khó khăn, rủi ro trong tiêu thụ hàng.
- Trong phương thức thanh toán này, ngân hàng chỉ có vai trò trung gian
thu tiền hộ người bán, không có trách nhiệm đến việc trả tiền của người
mua.
Phương thức tín dụng chứng từ (Letter of credit – L/C).
Tại điều 2, UCP600 (Bản điều lệ và cách thức thực hành thống nhất về
tín dụng chứng từ), Tín dụng chứng từ được định nghĩa:
“Tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận bất kỳ, cho dù được gọi tên hoặc mô
tả như thế nào, thể hiện một cam kết chắc chắn và không huỷ ngang của ngân
hàng phát hành về việc thanh toán khi xuất trình phù hợp”.
Được hình thành trên cơ sở hợp đồng ngoại thương, song sau khi được
thiết lập, thư tín dụng lại độc lập hoàn toàn với hợp đồng ngoại thương, khi
SV: Đoàn Lương Phong Lớp: TCQT 48
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo
đó phương thức thanh toán này đã được thiết lập. Tính chất độc lập của thư
tín dụng thể hiện ở chỗ nghĩa vụ của ngân hàng với người hưởng lợi L/C
không phụ thuộc vào mối quan hệ giữa người mua và người bán. Ngân hàng
mở LC chỉ căn cứ dựa trên bộ chứng từ mà nhà xuất khẩu trình và nội dung
của LC đã được mở để trả tiền cho người bán. Việc thanh toán của ngân hàng
không phụ thuộc vào hàng hoá, chỉ phụ thuộc vào chứng từ. Trong trương
hợp người mua không thanh toán cho ngân hàng, ngân hàng vẫn phải thực
hiện nghĩa vụ trả tiền cho người bán, thực hiện đầy đủ và đúng với các điều
khoản quy định trong LC.
Tham gia nghịệp vụ thanh toán bằng thư tín dụng có thể bao gồm nhiều
bên, song thông thường có các bên sau:
- Người yêu cầu mở thư tín dụng (The applicant for the credit) là người
nhập khẩu (Người mua), là bên mà L/C được phát hành theo yêu cầu của họ.

- Người thụ hưởng thư tín dụng (The beniftciary) là người xuất khẩu
(Người bán), là bên được hưởng số tiền thanh toán hay sở hữu hối phiếu đã
vhấp nhận thanh toán theo LC.
Các ngân hàng liên quan: Ít nhất phải có hai Ngân hàng tham gia: Ngân
hàng mở L/C hay còn được gọi là Ngân hàng phát hành L/C (The issuing
bank), ngân hàng này chịu trách nhiệm trả tiền cho người xuất khẩu khi họ
xuất trình bộ chứng từ phù hợp với L/C; Ngân hàng thông báo L/C (Advising
Bank) là ngân hàng thông báo L/C cho người thụ hưởng theo yêu cầu của
ngân hàng phát hành. Ngân hàng thông báo thường là ngân hàng đại lý hay
một chi nhánh của ngân hàng phát hành ở nước bên xuất khẩu.
Tuỳ từng L/C cụ thể, còn có thể có các Ngân hàng khác tham gia như:
- Ngân hàng thanh toán, chiết khấu (The Negotiating Bank) : Ngân hàng
này chịu trách nhiệm trực tiếp trả tiền cho L/C. Trên thực tế Ngân hàng thanh
SV: Đoàn Lương Phong Lớp: TCQT 48
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo
toán L/C chính là Ngân hàng L/C hoặc Ngân hàng thông báo, hoặc một ngân
hàng nào đó do Ngân hàng phát hành L/C chỉ định.
- Ngân hàng xác nhận L/C (The confirming Bank). Là ngân hàng bổ sung
sự xác nhận của mình vào L/C theo yêu cầu hoặc sự uỷ quyền của NHPH.
- Ngân hàng được chỉ định (Nominated bank): Là ngân hàng mà tại đó L/
C có giá trị thanh toán hoặc chiết khấu. Đối với L/C có giá trị tự do, thì bất
kỳ ngân hàng nào đều có thể trở thành ngân hàng được chỉ định. Trách nhiệm
kiểm tra chứng từ của ngân hàng được chỉ định là giống như NHPH khi nhận
được bộ chứng từ.
Qui trình thanh toán L/C:
1. Người nhập khẩu dựa trên hợp đồng ngoại thương đã ký với bên phía xuất
khẩu làm đơn xin mở L/C gửi đến ngân hàng của mình, yêu cầu Ngân hàng
này mở L/C cho người thụ hưởng là người xuất khẩu.
2. Theo đơn xin mở L/C, ngân hàng phục vụ người nhập khẩu (ngân hàng

phát hành) mở một L/C (phát hành L/C) cho người xuất khẩu hưởng. Ngân
hàng này chuyển bản chính L/C cho ngân hàng xuất khẩu (Ngân hàng thông
báo).
3. Ngân hàng xuất khẩu xác nhận L/C bằng văn bản và gửi bản chính L/C cho
phía nhà xuất khẩu.
4. Căn cứ vào nội dung L/C, nhà xuất khẩu giao hàng cho nhà nhập khẩu theo
các điều khoản của L/C.
5. Sau khi việc giao hàng được thực hiện hoàn tất, người xuất khẩu phải hoàn
tất ngay các bộ chứng từ hàng hoá và hối phiếu gửi cho ngân hàng phục vụ,
và đồng thời yêu cầu ngân hàng này thanh toán tiền cho bộ chứng từ đã hoàn
chỉnh đó.
6. Ngân hàng thông báo sau khi nhận được bộ chứng từ, thực hiện kiểm tra
kỹ nội dung các chứng từ đó, nếu thấy phù hợp với các điều khoản của L/C
SV: Đoàn Lương Phong Lớp: TCQT 48
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo
thì ngân hàng thanh toán (hoặc là chấp nhận chiết khấu bộ chứng từ theo các
điều khoản quy định trong L/C).
7. Ngân hàng thông báo chuyển bộ chứng từ thanh toán cho Ngân hàng phục
vụ nhà nhập khẩu (Ngân hàng phát hành).
8. Ngân hàng phục vụ phía người nhập khẩu (Ngân hàng phát hành L/C) sau
khi nhận đựơc các bộ chứng từ do Ngân hàng thông báo chuyển đến (Ngân
hàng xuất khẩu), triển khai kiểm tra kỹ các bộ chứng từ này, nếu thấy đáp ứng
được những yêu cầu quy định trong L/C thì chuyển tiền thanh toán cho Ngân
hàng thông báo để ngân hàng thông báo trả tiền cho nhà xuất khẩu.
9. Ngân hàng phát hành L/C (Ngân hàng phát hành) thông báo cho người
nhập khẩu biết đã thực hiện thanh toán tiền cho phía bên người xuất khẩu,
đồng thời yêu cầu nhà nhập khẩu hoàn lại số tiền này, sau đó Ngân hàng phát
hành trao cho người nhập khẩu bộ chứng từ đã được kiểm tra hoàn chỉnh để
làm cơ sở nhận hàng.

Sơ đồ 1.4. Quy trình thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ (L/C)
(2)
(7)
(8)
(3) (5) (6) (1) (9)
(4)

Đặc điểm của thư tín dụng chứng từ L/C.
- Ngân hàng và các bên tham gia liên quan chỉ giao dịch trên cơ sở
chứng từ mà không dựa vào hàng hoá và dịch vụ.
SV: Đoàn Lương Phong Lớp: TCQT 48
18
Ngân hàng thông báo L/C
(Ngân hàng xuất khẩu)
Ngân hàng mở L/C
(Ngân hàng nhập khẩu)
Bên bán
(Nhà xuất khẩu)
Bên mua
(Nhà nhập khẩu)
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo
- L/C phải được chỉ rõ là huỷ ngang hay không huỷ ngang, nếu không
chỉ ra như vậy thì L/C sẽ được coi như là L/C không huỷ ngang.
- Chứng từ được coi như là không phù hợp với các điều khoản quy
định trong L/C nếu: chúng mâu thuẫn với các điều khoản đã được
quy định trong L/C hay các chứng từ mâu thuẫn nhau.
- Ngân hàng phát hành có một khoảng thời gian hợp lý không quá 7
ngày làm việc sau khi nhận được chứng từ để kiểm tra chứng từ và
xác định chứng từ có phù hợp hay không, nếu quá thời hạn ngân hàng
không có quyền thông báo sai sót

- Ngân hàng không chịu trách nhiệm kiểm tra các chứng từ không có
quy định trong L/C.
- Nếu ngân hàng từ chối chứng từ thì phải thông báo bằng phương tiện
truyền thống trước lúc đóng cửa của ngày làm việc thứ 7 tính từ ngày
tiếp nhân bộ hồ sơ.
- Ngân hàng không chịu bất cứ trách nhiệm nào về sự chậm trễ do
truyền tin, về lỗi chính tả phát sinh trong quá trình chuyển giao hoặc
truyền tin.
Chính do các đặc đểm trên mà thanh toán bằng L/C tuy có phức tạp
về mặt thủ tục, song các nguyên tắc thanh toán lại rất chặt chẽ, rõ ràng, nên
việc nhận hàng và trả tiền luôn luôn được đảm bảo. Vì thế, hình thức này
được sử dụng rất rộng rãi nhất trong ngoại thương hiện đại ngày nay.
Hiện nay trong thanh toán quốc tế có nhiều loại thư tín dụng được
sử dụng:
- Thư tín dụng có thể huỷ ngang (Revocable L/C): Với loại này, sau khi L/
C được mở, nội dung của L/C có thể được sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ bất
cứ lúc nào mà không cần đến sự đồng ý của người hưởng lợi. Nó chứa đựng
SV: Đoàn Lương Phong Lớp: TCQT 48
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo
rủi ro đối với người bán vì việc sửa đổi hoặc huỷ ngangcó thể xay ra ngay khi
hàng hoá đang vận chuyển hoăc trước khi trả tiền.
- Thư tín dụng không thể huỷ ngang (Irrevocable L/C): Khi loại L/C này
được mở thì người yêu cầu mở L/C sẽ không được sửa đổi, bổ sung hay huỷ
ngang những nội dung của nó mà chưa có sự đồng ý của người hưởng lợi.
Như vậy, tính bảo đảm của L/C này rất cao, do đó nó được dùng phổ biến
trong thanh toán ngoại thương. Loại L/C này là tiền đề cơ sở cho các loại L/C
khác.
- Thư tín dụng xác nhận (Confirming L/C): Đây là loại thư tín dụng không
thể huỷ ngang, đồng thời kèm theo có sự xác nhận trả tiền của một Ngân hàng

xác nhận, mà ngân hàng này có thể là ngân hàng thông báo hoặc là một ngân
hàng thứ 3 tuỳ theo thoả thuận giữ người mua,người bán và ngân hàng phát
hành L/C. Dùng thư tín dụng loại này thì việc nhận tiền của người xuất khẩu
là rất chắc chắn.
Đối với nhà nhập khẩu khi mở loại L/C này thì ngoài việc phải ký vốn
mở L/C tại Ngân hàng, trả thủ tục phí mở L/C, bên cạnh đó để được xác nhận
còn phải chịu thêm phí xác nhận và đặt cọc tiền xác nhận cho Ngân hàng xác
nhận L/C. Đó là những bất lợi cho nhà nhập khẩu.
- L/C trả ngay (L/C Payable by draft at sight): Là loại L/C không thể huỷ
ngang và phải thanh toán ngay khi các hối phiếu được xuất trình. Rủi ro trong
loại thư tín dụng này là thường phải thanh toán trước khi nhận hàng, vì hối
phiếu này thường đến trước khi hàng dến nơi.
-L/C trả chậm (L/C available by Deffered Payment): Là loại L/C trong đó
ngân hàng phát hành cám kết thanh toán cho người hưởng lợi số tiền của thư
tín dụng một vài ngày sau khi bộ chứng từ hoàn hảo được xuất trình hoặc sau
khi giao hàng.
SV: Đoàn Lương Phong Lớp: TCQT 48
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo
-L/C có kỳ hạn: Là loại L/C không huỷ ngang mà trong đó ngân hàng phát
hành sẽ chấp nhận hối phiếu có kỳ hạn do người hưởng lợi lập khi họ xuất
trình bộ chứng từ hoàn hảo. Những hối phiếu này nhà xuất khẩu có thể giữ lại
cho đến thời hạn thanh toán và lúc ấy xuất trình phù hợp cho ngân hàng để có
thể lấy lại tiền hoặc chuyển nhượng trên thị trường: các ngân hàng phát hành
có thể mua hối phiếu có dấu chấp nhận thanh toán cho chính mình.
-L/C trả dần: Là loại L/C không huỷ ngang trong đó có quy định người
hưởng lợi sẽ được trả dần toàn bộ số tiền của thư tín dụng theo những thời
hạn quy định rõ trong L/C. Khác với loại thư tín dụng có kì hạn, loại L/C này
không đòi hỏi hối phiếu do người bán lập. Do vậy người bán không có quyền
lợi pháp lý đối với hối phiếu, và quyền truy đòi liên quan đến hối phiếu đó.

-L/C chấp nhận (L/C Available by acceptance): Là loại thư tín dụng trong
đó ngân hàng phat hành L/C thực hiện chấp nhận hối phiếu hoặc chỉ định bên
thứ ba chấp nhận hối phiếu, với điều kiện người thụ hưỏng xuất trình bộ
chứng từ phù hợp theo quy định chung của L/c. Ngân hàng phát hành L/C
trong bất cứ trường hợp nào cũng phải thanh toán hối phiếu đã được chấp
nhận, khi các điều kiện của L/C được đáp ứng hoàn hảo.
Một số loại L/C đặc biệt:
-L/C có điều khoản đỏ: Là loại L/C, trong đó có ghi rõ điều khoản đặc
biệt ngân hàng phát hành sẽ chuyển tiền hoặc uỷ quyền cho ngân hàng thông
báo (hay ngân hàng xác nhận, ngân hàng thông báo) để thực hiện ứng trước
cho người hưởng lợi một số tiền nhất định trước lúc giao hàng, thường thì số
tiền ứng trước tính theo tỷ lệ % giá trị toàn bộ L/C và phải xuất trình chứng từ
tại ngân hàng mà họ đã nhận tiền ứng trước và phải bồi hoàn lại số tiền này
nếu không xuất trình đủ chứng từ hợp lệ trong thời hạn quy định.
-L/C chuyển nhượng đựơc (Transferable L/C): Đây là loại thư tín dụng
không thể huỷ bỏ mà ngưòi hưởng lợi đầu tiên (first beneficiary) có thể đòi
SV: Đoàn Lương Phong Lớp: TCQT 48
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo
hỏi ngân hàng phục vụ chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần giá trị L/C gốc
(prime L/C) cho một hoặc nhiều người hưởng lợi thức hai. Mục đích của loại
L/C này nhằm giúp cho nhà xuất khẩu tiến hành dịch vụ xuất khẩu mà không
cần đến vốn của mình. Trong L/C chuyển nhượng thì người hưởng lợi thứ
nhất không tự động cung cấp được hàng hoá, mà chỉ là trung gian môi giới
giữa người cung cấp hàng hoá và người mua cuối cùngvà L/C chỉ được
chuyển nhượng một lần.
- Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C): L/C này thường dùng
trong trường hợp mua bán qua trung gian.Sau khi nhận được L/C do người
nhập khẩu mở cho mình, thì người hưởng lợi nếu không thể cung cấp hàng
hoá dùng L/C này để mở một L/C khác cho người có thể cung cấp hàng hoá

hưởng với những nội dung gần giống như L/C ban đầu (L/C gốc), L/C sau gọi
là L/C giáp lưng.
- Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C): Loại L/C này thường được sử
dụng trong trao đổi quốc tế hàng đổi hàng hoặc trong gia công quốc tế. Thư
tín dụng đối ứng bắt đầu có hiệu lực khi một thư tín dụng đối ứng với nó đã
được mở.
- Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C): Là loại thư tín dụng không
huỷ ngang mà sau khi sử dụng xong hoặc khi hết hạn hiệu lực L/C thì sẽ tự
động khôi phục lại giá trị như cũ mà không cần mở L/C mới. Quy trình giống
như L/C không huỷ ngang, sau khi thực hiện bước 9 thì lặp lại từ bước thứ 3
cho tới khi hết tổng giá trị L/C. Loại L/C tuần hoàn thường được sử dụng
trong thanh toán với các bạn hàng quen biết, có quan hệ lâu dài, với số lượng
hàng, chủng loại hàng mua bán ổn định trong thời gian dài.
- Thư tín dụng dự phòng (Stand-by L/C): Thực chất đây là một cam kết
bảo lãnh của ngân hàng, là một loại tín dụng chứng từ hoặc một thoả thuận
SV: Đoàn Lương Phong Lớp: TCQT 48
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo
tương tự, dù được gọi hay miêu tả theo cách nào, theo đó ngân hàng phát
hành L/C cam kết với người hưởng lợi:
Trả khoản tiền mà người yêu cầu mở thư tín dụng đã vay hoặc nhận ứng
trước.
Bồi hoàn về những thiệt hại do người yêu cầu mở không thực hiện được
nghĩa vụ của chính mình.
Nhận xét:
Có thể thấy, ngày nay thì trong trao đổi mua bán hàng hoá quốc tế, thanh
toán theo phương thức tín dụng chứng từ chiếm một vị trí chủ đạo trong các
phương thức thanh toán.
Thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ chiếm vị trí chủ đạo
trong thanh toán quốc tế do thanh toán theo phương thức này đảm bảo lợi ích

cho các bên, có thể giảm thiểu rui ro tới mức tối đa cho các bên tham gia
thanh toán.
- Đối với nhà xuất khẩu (bên bán): Lợi ích được đảm báo, được đảm bảo
thanh toán khi tuân thủ các điều khoản và điều kiện của L/C và nhận được
thanh toán mộ cách nhanh nhất. Được ngân hàng giúp đỡ tư vấn, giảm thiểu
rủi ro. Ngoài ra người bán có thể dùng bộ L/C như là một phương thức tài trợ
cho xuất khẩu như: chiết khấu bộ chứng từ, chuyển nhượng bộ chứng từ cho
ngân hàng hoặc có thể dùng L/C để thế chấp vay vốn ngân hàng. Song với
phương thức thanh toán này, nhà xuất khẩu phải chịu chi phí cao, đôi khi
không đáp ứng được các điều kiện của L/C làm cho việc thanh toán có thể bị
trì hoãn, thậm chí bị từ chối thanh toán.
- Đối với nhà nhập khẩu (bên mua): Chắc chắn nhà nhập khẩu phải đáp
ứng các quy định của L/C, người mua chỉ trả tiền trong trường hợp nhận được
bộ chứng từ phù hợp với các điều kiện của L/C để đi nhận hàng. Người mua
được sự trợ giúp của ngân hàng trong việc đảm bảo các điều kiện của L/C
SV: Đoàn Lương Phong Lớp: TCQT 48
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo
được thực hiện, dễ dàng được ngân hàng tài trợ về vốn. Tuy nhiên, theo
phương thức này, ngân hàng chỉ giao dịch trên cơ sở chứng từ do đó buộc
phải thanh toán bất kể trong trường hợp hàng hoá tốt hay xấu. Rủi ro thuộc về
phía người mua nếu người bán lập các chứng từ giả mạo, người mua sẽ phải
gánh chịu những thiệt hại lừa đảo do người bán gây ra.
- Đối với ngân hàng: Khi thực hiện nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng
từ, ngân hàng thu được lợi ích khá lớn từ các khoản thu phí dịch vụ, tạo điều
kiện mở rộng tín dụng, bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ.... Tuy nhiên khi thực
hiện phương thức này, ngân hàng cũng bị ràng buộc trách nhiệm của mình đối
với người mua và người bán với tư cách là một bên tham gia vào quy trình
thanh toán.
Có thể nói, thanh toán bằng L/C là phương pháp ưu việt hơn cả, phương

thức này dung hoà được quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng
mua bán ngoại thương. Những nghĩa vụ và trách nhiệm đan xen, ràng buộc
lẫn nhau tạo nên sự đảm bảo và chắc chắn hơn cả cho việc thanh toán hàng,
nâng cao quyền bình đẳng lợi ích trong quan hệ thanh toán giữa các bên tham
gia.
1.3 Phát triển thanh toán quốc tế tại các ngân hàng thương mại.
1.3.1 Khái niệm.
Như trên đã nói, thanh toán quôc tế là một nghiệp vụ cơ bản của thanh
toán quốc tế, làm cơ sở cho các nghiệp vụ khác phát triển như bảo lãnh hay
tín dụng xuất nhập khẩu. Do đó phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại
ngân hàng thương mại có thể hiểu là sự mở rộng phạm vi hoạt động, gia tăng
khả năng tham gia vào lĩnh vực thanh toán, gia tăng chất lượng dịch vụ thanh
toán, làm tăng giá trị gia tăng cho ngân hàng, nâng cao hiệu quả kinh tế từ
dịch vụ như là một dịch vụ thu được lợi nhuận trực tiếp cho ngân hàng hay
SV: Đoàn Lương Phong Lớp: TCQT 48
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo
làm gia tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng, cùng với đó là phát triển
doanh số thanh toán qua ngân hàng thương mại.
1.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển thanh toán quốc tế của ngân hàng
thương mại.
Từ vai trò của thanh toán quốc tế đối với NHTM, có thể thấy bên cạnh
mở rộng hay phát triển hoạt động thanh toán quốc tế,thì việc phân tích đành
giá hiệu quả của hoạt đọng này cũng không kém phần quan trọng và để làm
được điều này cần phải cần đến một hệ thống chỉ tiêu toàn diện.
Đối với ngân hàng thương mại, có hai nhóm chỉ tiêu, đó là nhóm chỉ
tiêu gián tiếp (chỉ tiêu đòn bẩy) và nhóm chỉ tiêu trực tiếp.
*Nhóm chỉ tiêu gián tiếp (chỉ tiêu đòn bẩy).
(1) Tăng cường và hỗ trợ nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ. Đối với chỉ tiêu
này cần đề cập đến mối quan hệ lượng hoá giữa doanh số TTQT với doanh số

kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng thương mại qua các thời gian là như thế
nào.
(2) Tăng cường và hỗ trợ nghiệp vụ tài trợ xuất nhập khẩu. Đối với chỉ
tiêu này cũng cần đề cập đến mối quan hệ lượng hoá giữa doanh số TTQT và
doanh số tài trợ xuất nhập khẩu là như thế nào.
(3) Tăng cường các hỗ trợ dịch vụ ngân hàng khác (chiết khấu hối phiếu,
bảo lãnh.....). Đối với chỉ tiêu này, cũng cần đề cập đến mối quan hệ lượng
hoá giữa doanh số chiết khấu hối phiếu, doanh số bảo lãnh của ngân hàng.
(4) Tăng cường và hỗ trợ nghiệp vụ tín dụng. Đối với chỉ tiêu này, cần
đề cập đến mối quan hệ lượng hoá giữa doanh số TTQT với dư nợ tín dụng
bình quân qua các thời kỳ.
(5) Tăng cường nguồn vốn (đặc biệt là nguồn vốn ngoại tệ). Đối với chỉ
tiêu này, cần đề cập đến mối quan hệ lượng hoá giữa doanh số TTQT với số
SV: Đoàn Lương Phong Lớp: TCQT 48
25

×