Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Hạn chế rủi ro trong cho vay cầm cố cổ phiếu tại ngân hàng No&PTNT Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294 KB, 64 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Tháng 7/2000 đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng của nền kinh tế Việt
Nam đó là việc trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh chính
thức thực hiện phiên giao dịch đầu tiên, mở ra một thời kì phát triển mạnh mẽ cho
cả nền kinh tế, thời kì hội nhập kinh tế quốc tế. Kể từ đó đến nay thị trường chứng
khoán Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc ngoài sức tưởng tượng, từ
một thị trường sơ khai với vài mã cổ phiếu đến nay thị trường đã có trên 200 mã cổ
phiếu được giao dịch chính thức với tổng giá trị giao dịch hàng nghìn tỷ đồng.
Người dân Việt Nam cũng đã trở nên quen thuộc với các khái niệm đầu tư chứng
khoán, cổ phiếu, cổ phần…Và thị trường chứng khoán cũng không còn cái cảnh cứ
mua cổ phiếu là lãi như thời gian đầu mới hoạt động. Cùng với việc thị trường
chứng khoán dần đi vào quy luật thì nhà đầu tư cũng phải dần chuyên nghiệp hơn.
Sự xâm chiếm tất yếu của các tổ chức tài chính vào mảnh đất màu mỡ - thị trường


chứng khoán đang diễn ra một cách nhanh chóng và mạnh mẽ, đặc biệt là ngân
hàng – trung gian tài chính khổng lồ của nền kinh tế. Bên cạnh việc thành lập ra các
công ty chứng khoán thực hiện các nghiệp vụ chuyên môn về chứng khoán, bảo
lãnh phát hành chứng khoán, ngân hàng còn triển khai một nghiệp vụ quan trong
không kém đó là cho vay cầm cố chứng khoán, đây là một nghiệp vụ cho vay bình
thường có tính thông lệ quốc tế về hoạt động ngân hàng. Các ngân hàng trên thế
giới đã triển khai nghiệp vụ này từ rất lâu song đối với các ngân hàng Việt Nam thì
đây là một hoạt động hoàn toàn mới. Nhu cầu vay vốn đầu tư của các nhà đầu tư
Việt Nam là rất lớn do khả năng tài chính hạn hẹp vì vậy đây là một thị trường béo
bở cho các ngân hàng thu lợi.
Tuy vậy do có ít kinh nghiệm về nghiệp vụ này nên những rủi ro cho ngân
hàng là không thể tránh khỏi, đặc biệt là mức độ rủi ro của thị trường chứng khoán

1
Việt Nam là rất cao, tính quy luật còn thấp, đầu tư mang tính bày đàn, những ngân
hàng nào coi thường các biện pháp quản trị rủi ro sẽ phải chịu hậu quả, có thể dẫn
đến hậu quả to lớn cho ngân hàng như: phá sản và ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh
tế. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề quản trị rủi ro đối với nghiệp vụ cho
vay cầm cố như vậy, trong quá trình thực tập tại ngân hàng No&PTNT Hà Nội em
đã chọn đề tài: “Hạn chế rủi ro trong cho vay cầm cố cổ phiếu tại ngân hàng
No&PTNT Hà Nội” làm mục tiêu nghiên cứu trong khoá luận tốt nghiệp của
mình.
Kết cấu chuyền đề gồm 3 phần:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về rủi ro trong cho vay cầm cố cổ phiếu tại
ngân hàng thương mại.

Chương 2: Thực trạng hạn chế rủi ro trong cho vay cầm cố cổ phiếu tại ngân
hàng No&PTNT Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro trong cho vay cầm cố cổ phiếu tại ngân
hàng No&PTNT Hà Nội thời gian tới.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS.TS. Nguyễn Thị Bất, cùng toàn
thể cán bộ công nhân viên ngân hàng No&PTNT Hà Nội đã hướng dẫn và chỉ
bảo tận tình để em có thể hoàn thành chuyên đề của mình. Do thời gian có hạn và
hiểu biết có thể còn hạn chế nên chuyên đề của em không thể không tránh khỏi
những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ các thầy cô giáo,
ban lãnh đạo và các cô chú trong ngân hàng No&PTNT Hà Nội để chuyên đề của
em được hoàn thiện hơn.
2

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TRONG CHO VAY CẦM
CỐ CỔ PHIẾU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
1.1.1. Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất trong nền
kinh tế. Ngân hàng là người cho vay hầu hết các thành phần trong nền kinh tế. Đối
với các hộ tiêu dùng thì khoản vay từ ngân hàng giúp cho họ trang trải chi phí cho
những nhu cầu trong cuộc sống: xây mới, sửa nhà, mua ôtô… Đối với doanh
nghiệp thì những khoản vay giúp doanh nghiệp mở rộng sản xuất, tăng khả năng
cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trên thị trường. Khi doanh nghiệp và người
tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hóa và dịch vụ thì họ thường sử

dụng séc, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử... Ngoài ra, ngân hàng cũng là địa chỉ
tin cậy để mọi người gửi tiền hay nhận được lời tư vấn về lĩnh vực đầu tư cho
khoản tiết kiệm.
Trong mọi thời kỳ, ngân hàng là một trong những thành viên quan trọng nhất
trên thị trường tín phiếu và trái phiếu do chính quyền địa phương phát hành để tài
trợ cho các công trình công cộng như trường học, bệnh viện, các công trình giao
thông.
Để tránh sự nhầm lẫn giữa ngân hàng và các tổ chức tài chính khác, cách tiếp
cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại
hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Theo cách này thì ngân hàng là loại hình tổ chức
tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín
dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất

so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
3
Theo cách tiếp cận này thì hoạt động cơ bản của ngân hàng bao gồm 3 hoạt
động chính: cho vay, nhận tiền gửi và cung cấp các dịch vụ khác.
* Cho vay:
Khi mới ra đời, ngân hàng thực thiện chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho
vay với các doanh nhân địa phương (họ bán các khoản phải thu cho ngân hàng để
lấy tiền mặt). Sau đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay
trực tiếp với các khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng hóa dự trữ, mua sắm
thiết bị nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
* Nhận tiền gửi:
Cho vay được cho là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng tìm kiếm mọi

cách để huy động được nguồn vốn cho vay. Một trong những nguồn quan trọng là
các khoản tiền gửi của khách hàng (bao gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh
toán). Ngân hàng nhận tiền gửi của khách hàng với cam kết hoàn trả đúng hạn phần
gốc cộng thêm một phần tiền lãi theo lãi suất trong hợp đồng coi như phí sử dụng
khoản tiền gửi của ngân hàng.
* Cung cấp các dịch vụ khác: Ngoài nhận tiền gửi và cho vay, ngân hàng còn cung
cấp các dịch sau:
+ Kinh doanh ngoại tệ: là một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được
thực hiện để đáp ứng nhu cầu buôn bán giữa các vùng hay các quốc gia với nhau.
Ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí
dịch vụ. Hiện nay, hoạt động kinh doanh ngoại tệ thường được thực hiện bởi những
ngân hàng lớn vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu

phải có trình độ chuyên môn cao.
+ Cung cấp các tài khoản giao dịch: khi khách hàng mở một tài khoản giao
dịch tại ngân hàng, ngân hàng sẽ thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng khi họ
có nhu cầu. Thanh toán qua ngân hàng mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt.
4
Những hình thức chủ yếu của thanh toán không dùng tiền mặt hiện nay là séc, ủy
nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thẻ thanh toán… Tiện ích của thanh toán không dùng tiền
mặt là nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí. Điều này khuyến khích các doanh
nhân mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng.
+ Bảo quản vật có giá: ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có
giá trị cho khách hàng trong kho bảo quản.
+ Quản lý ngân quỹ: các doanh nghiệp và cá nhân mở tài khoản tại ngân

hàng, nhờ đó ngân hàng có mối quan hệ với nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệm
trong việc quản lý ngân quỹ, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ
quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý việc quản lý thu và chi cho một công
ty kinh doanh.
+ Tài trợ các hoạt động của Chính phủ: do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là
cấp bách của Chính phủ, vì vậy Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các
khoản cho vay của ngân hàng. Trong điều kiện các ngân hàng tư nhân không muốn
tài trợ cho Chính phủ vì rủi ro cao, Chính phủ thường dùng một số đặc quyền trao
đổi lấy các khoản vay của ngân hàng. Ngày nay, Chính phủ dành quyền cấp phép
hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được cấp phép hoạt động với
điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của Chính
phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các ngân hàng phải mua trái phiếu Chính phủ theo

một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được; hoặc
phải cho vay với các điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp của chính phủ.
+ Bảo lãnh: Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất
lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng, nên ngân hàng có uy tín
trong bảo lãnh cho khách hàng. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của
mình mua hàng hóa, trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn tổ chức tín
dụng khác…
5
+ Dịch vụ thuê mua thiết bị: Ngân hàng cho khách hàng kinh doanh quyền
lựa chọn mua các thiết bị máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong
đó khách hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Cuối hợp đồng khách hàng có
thể mua lại tài sản. Hợp đồng thuê mua thường phải bảo đảm yêu cầu khách hàng

phải trả tới hơn 2/3 giá trị của tài sản cho thuê.
+ Dịch vụ ủy thác và tư vấn: các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia trong
lĩnh vực quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân
hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ ủy thác phát triển
sang cả ủy thác vây hộ, ủy thác phát hành, ủy thác đầu tư… Nhiều khách hàng tìm
đến ngân hàng để nhận được lời tư vấn về quản lý tài chính, thành lập, mua bán hay
sáp nhập doanh nghiệp.
+ Dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: ngân hàng bán các dịch vụ môi giới
chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các
chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong
một vài trường hợp, các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty
môi giới chứng khoán.

+ Dịch vụ bảo hiểm: các ngân hàng bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó
đảm bảo việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro
mất khả năng thanh toán.
+ Các dịch vụ đại lý: các ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết
lập các chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng lớn cung cấp
dịch vụ đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng
chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ…
1.1.2. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm hoạt động cho vay
Cho vay là một trong những hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng,
6
theo đó tổ chức tín dụng sẽ chuyển giao cho bên vay (khách hàng) một khoản vốn

tiền tệ, bên vay sẽ sử dụng khoản vốn tiền tệ đó trong một khoảng thời gian nhất
định, sau đó sẽ hoàn trả cho tổ chức tín dụng cả gốc và lãi theo thoả thuận.
Cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng – để tài trợ chi tiêu
của các doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan của Chính phủ. Đối với hầu hết các
ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị trổng tài sản và tạo ra từ 1/2
đến 2/3 nguồn thu của ngân hàng. Tuy nhiên, rủi ro trong hoạt động của ngân hàng
có xu hướng tập trung vào các khoản cho vay phát sinh từ các khoản cho vay khó
đòi.
1.1.2.2. Phân loại cho vay
* Căn cứ theo thời hạn cho vay
+ Cho vay ngắn hạn: thời hạn của khoản vay dưới 12 tháng và mục đích chủ
yếu là để bù đắp sự thiếu hụt vốn tạm thời như tài trợ vốn lưu động cho doanh

nghiệp hay hộ sản xuất.
+ Cho vay trung hạn: là những khoản vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Những
khoản vay này thường sử dụng để đổi mới trang thiết bị, mua sắm máy móc có thời
gian khấu hao không quá dài, xây dựng dự án có quy mô nhỏ, thời gian thu hồi vốn
nhanh.
+ Cho vay dài hạn: là những khoản cho vay có thời hạn trên 5 năm, thời hạn
có thể lên đến 20 – 30 năm. Những khoản vay này đáp ứng các nhu cầu dài hạn như
mua nhà đối với cá nhân, xây dựng nhà xưởng mới, đầu tư vào những dự án lớn đối
với các doanh nghiệp.
* Căn cứ vào mục đích khoản vay
+ Cho vay kinh doanh bất động sản: bao gồm các khoản cho vay liên quan
đến lĩnh vực đầu tư bất động sản như xây dựng nhà, trung tâm thương mại, giải

phóng mặt bằng...
7
+ Cho vay sản xuất: bao gồm các khoản cho vay đối với các hãng sản xuất
kinh doanh và hộ gia đình nhằm tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của họ.
+ Cho vay tiêu dùng: giúp tài trợ cho nhu cầu mua sắm của cá nhân hay hộ
gia đình như mua ô tô, nhà ở, trang thiết bị... hoặc trang trải cho các chi phí khác
như viện phí, học tập...
+ Các khoản cho vay khác: gồm các khoản cho vay không được xếp loại ở
trên và các khoản cho vay kinh doanh chứng khoán.
* Căn cứ vào khách hàng vay vốn
+ Cho vay đối với các tổ chức tài chính: bao gồm các khoản cho vay dành
cho các ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính

khác.
+ Cho vay các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
+ Cho vay cá nhân, hộ gia đình: bao gồm những khoản cho vay sản xuất
hoặc tiêu dùng.
* Căn cứ theo phương thức cho vay
+ Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay phổ biến của ngân hàng
đối với các khách hàng không có nhu cầu vốn thường xuyên. Một số khách hàng sử
dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ,
hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng. Vốn ngân hàng chỉ tham gia vào
một giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng
vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác định quy

mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu
cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ khác nhau.
Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá
trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả sử
8
dùng vốn, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn,
hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hay thả nổi theo thời điểm tính lãi.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm soát
từng món vay tách biệt. Tiền cho vay dựa vào giá trị tài sản đảm bảo.
+ Cho vay theo hạn mức: là hình thức cho vay mà theo đó ngân hàng thỏa
thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả
kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính.

Cho vay theo hạn mức cả kỳ: trong kỳ khách hàng có thể vay trả nhiều lần,
song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng.
Cho vay theo hạn mức cuối kỳ: dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức. Tuy
nhiên đến cuối kỳ, khách hàng phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kỳ
không vượt quá hạn mức.
Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp
các chứng từ chứng minh đã mua hàng hóa dịch vụ. Sau khi kiểm tra tính chất hợp
pháp của chứng từ, ngân hàng sẽ cho khách hàng vay.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay thường
xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong
nghiệp vụ này ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ. Khi khách hàng có thu
nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động cho khách hàng trong việc quản lý

ngân quỹ. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên
ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay.
* Căn cứ theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
+ Cho vay không có bảo đảm: Cho vay không có tài sản bảo đảm là loại cho
vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự đảm bảo của người thứ ba, mà việc
cho vay chỉ dựa vài uy tín của bản thân khách hàng.
Đối với những khách hàng tốt, có quan hệ gắn bó lâu dài với ngân hàng,
9
trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì
ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không
cần có một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
+ Cho vay có bảo đảm: Cho vay có bảo đảm là loại cho vay dựa trên cơ sở

các bảo đảm như thế chấp, cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Lý do là
khách hàng luôn phải đối đầu với rủi ro trong kinh doanh, có thể mất khả năng trả
nợ cho ngân hàng. Nhưng biến cố không mong đợi như vậy có thể gây cho ngân
hàng những tổn thất lớn. Vì vậy, đối với những khách hàng không có uy tín cao đối
với ngân hàng thì khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm. Bảo đảm này là nguồn trả
nợ thứ hai khi khách hàng gặp phải rủi ro mất khả năng thanh toán cho ngân hàng.
* Căn cứ theo hình thức cho vay
+ Cho vay trực tiếp: ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho người đi vay, đồng thời
người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ cho ngân hàng. Đây là hình thức cho vay phổ
biến của các ngân hàng.
+ Cho vay gián tiếp: đây là hình thức ngân hàng cho vay qua các tổ chức
trung gian.

Ngân hàng cho vay qua các tổ, đội, hội, nhóm như Hội Cựu chiến binh, Hội
Phụ nữ, Hội Nông dân… Các tổ chức này thường liên kết các thành viên theo lại
với nhau nhằm mục đích phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Ngân hàng có thể
chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian như thu
nợ, phát tiền vay… Tổ chức trung gian cũng có thể đứng ra bảo lãnh cho các thành
viên vay. Điều này rất thuận tiện khi người vay không có hoặc không đủ tài sản thế
chấp.
Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua người bản lẻ sản phẩm đầu vào
của quá trình sản xuất. Việc cho vay này sẽ hạn chế người vay sử dụng tiền sai mục
đích.
10
Cho vay gián tiếp thường áp dụng với thị trường có nhiều món vay nhỏ,

người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Trong trường hợp này, cho vay gián tiếp có
thể tiết kiệm được chi phí cho ngân hàng (phân tích, giám sát, thu nợ…).
1.2. Những vấn đề cơ bản về cho vay cầm cố cổ phiếu
1.2.1. Khái niệm cho vay cầm cố cổ phiếu
Thị trường chứng khoán Việt Nam đang phát triển một cách mạnh mẽ và
ngày càng khẳng định vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, cụ thể trong
năm 2007 giá trị trên thị trường chứng khoán đạt 40%GDP. Cùng với việc kết hợp
với các tổ chức kinh tế lớn đặc biệt là ngân hàng thương mại, thị trường chứng
khoán đã tìm được cho mình một kênh cung cấp vốn lớn và hiệu quả, đáp ứng được
nhu cầu phát triển ngày càng cao của mình. Ngân hàng thương mại là một trung
gian tài chính, là tổ chức kinh doanh tiền tệ, ngân hàng thương mại luôn trú trọng
phát triển các dịch vụ của mình một cách đa dạng và phong phú nhằm tìm kiếm các

nguồn tài chính hiệu quả, khi thị trường chứng khoán ra đời ngân hàng thương mại
đã nhìn thấy đây là một thị trường tiềm năng có thể đem lại lợi nhuận cao. Hai tổ
chức kinh tế này đã kết hợp với nhau một cách tất yếu và trở thành một kênh quan
trọng nhất cho hoạt động đầu tư.
Bên cạnh các hoạt động như bảo lãnh phát hành, thành lập công ty chứng
khoán, ngân hàng phát triển thêm một hình thức kinh doanh nữa đó là cho vay đầu
tư chứng khoán, hình thức này đang phát triển một cách mạnh mẽ và mang lại
khoản lợi nhuận cao cho ngân hàng. Các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán
ngày càng ưa chuộng hình thức tín dụng này, họ có thêm vốn để đầu tư và tài sản
đảm bảo lại có thể chính là lượng chứng khoán mà họ đã vay ngân hàng để mua.
Việc ra đời của hình thức này là một tất yếu phát triển của thị trường, nó là chiếc
cầu nối cho việc luân chuyển dòng vốn từ ngân hang sang thị trường chứng khoán

11
và ngược lại, nó cung cấp vốn cho thị trường chứng khoán phát triển và mang lại
lợi nhuận cho ngân hàng, hình thức này còn buộc nhà đầu tư phải có kế hoạch
chiến lược đầu tư hiệu quả, đầu, lựa chọn những cổ phiếu tốt, qua đó giảm thiểu
những rủi ro cho nhà đầu tư và đảm bảo kế hoạch trả nợ đầy đủ, đúng hạn. Mặc dù
cho đến hiện tại hình thức kinh doanh này là khá an toàn cho các ngân hàng, tuy
nhiên hình thức này luôn chứa đựng những rủi ro cao do vay đòi hỏi các ngân hàng
phải có chiến lựợc quả trị rủi ro hợp lý, nhằm giảm thiểu những rủi ro cho ngân
hàng. Biện pháp ngăn ngừa rủi ro hữu hiệu nhất mà ngân hàng dùng vẫn là sử dụng
các đảm bảo tín dụng. Chỉ trừ một số khách hàng có uy tín cao còn lại hầu hết các
khoản tín dụng ngân hàng đều yêu cầu phải có đảm bảo. Tuy nhiên hình thức cho
vay đầu tư chứng khoán có khác các hình thức khác một chút đó là tài sản đảm bảo

có thể chính là các cổ phiếu, song không phải cổ phiếu nào cũng được là tài sản
đảm bảo, chỉ những cổ phiếu có chất lượng tốt rủi ro ít mới được ngân hàng chấp
nhận. Cổ phiếu như thế nào là tốt là ít rủi ro điều này phụ thuộc vào trình độ đánh
giá của từng ngân hàng, ngoài ra còn phụ thuộc và chiến lược cho vay của ngân
hàng đó. Tuy nhiên không thể phủ định rằng cho vay chứng chứng khoán là một
hình thức đầy tiềm năng và mang lại những khoản lợi nhuận cao cho ngân hàng.
Trong tương lai cùng với việc phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán đây
chắc chắn sẽ trở thành một hoạt động tín dụng chính của ngân hàng thương mại.
Vấn đề đầu tiên phải làm rõ đó là khái niệm cho vay cầm cố chứng khoán.
Cho vay cầm cố cổ phiếu là một hình thức tín dụng của ngân hàng trong đó người
vay sẽ được nhận một khoản vay từ ngân hàng để đầu tư kinh doanh chứng khoán
với điều kiện phải có tài sản đảm bảo là các loại cổ phiếu đã được niêm yết hoặc

chưa được niêm yết chính thức trên sàn giao dịch. Người vay phải chuyển quyền
kiểm soát tài sản đảm bảo là cổ phiếu sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết
12
và mức tín dụng mà khách hàng được cấp phụ thuộc vào đánh giá của ngân hàng về
tài sản sản đảm bảo và mức độ rủi ro của khoản vay.
Trong khái niệm này có hai đối tượng: Ngân hàng (đối tượng cho vay),
khách hàng (đối tượng đi vay). Khách hàng là các cá nhân muốn vay tiền với mục
đích dùng vốn vay để đầu tư kinh doanh chứng khoán. Ở Việt Nam hiện nay các
ngân hàng chủ yếu cho vay cầm cố các loại cổ phiếu đã được niêm yết trên sàn, vì
cổ phiếu dạng này có độ rủi ro thấp hơn và dễ kiểm soát hơn
Cũng giống với các hình thức tín dụng khác, khách hàng muốn được vay vốn
của ngân hàng thì điều đầu tiên là khách hàng phải có tài sản đảm bảo, tài sản đảm

bảo có thể là cổ phiếu, các giấy tờ có giá, hoặc các loại chứng khoán khác… ngân
hàng sẽ thẩm định trước khi cho khách hàng vay, và sẽ giữ tài sản đảm bảo của
khách hàng cho đến khi khách hàng hoàn trả đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân hàng.
Nếu như đến hạn mà khách hàng không hoàn trả nợ theo hợp đồng tín dụng thì
ngân hàng có quyền bán hoặc sở hữu những tài sản đó thay thế cho nghĩa vụ trả nợ
của người vay.
Khi khách hàng đã có đầy đủ các điều kiên để được cấp tín dụng, khách hàng
sẽ được cấp tín dụng từ ngân hàng, mức tín dụng này phụ thuộc vào sự đánh giá
của ngân hàng về khoản vay, khoản vay có độ rủi ro càng cao thì mức tín dụng
được cấp càng thấp và ngược lại, độ rủi ro càng thấp thì mức tín dụng được cấp
càng cao. Tuy nhiên mức tín dụng không thể bằng 100% giá trị tài sản đảm bảo. Do
đây là một hình thức có độ rủi ro cao nên ở Việt Nam hiệm nay thông thường các

ngân hàng chỉ cho vay với hạn mức tối đa là 70%. Khách hàng phải cam kết sử
dụng khoản vay đúng mục đích đó là đầu tư chứng khoán và điều này sẽ được ngân
hàng giám sát thông qua các công ty chứng khoán, nhằm hạn chế rủi ro về việc về
việc sử dụng vốn của khách hàng.
13

1.2.2. Nội dung của hoạt động cho vay cầm cố cổ phiếu
* Đối tượng cho vay
Là các cá nhân người Viêt Nam có đủ năng lực công dân, có tài sản đủ các
tiêu chuẩn được ngân hàng chấp nhận là tài sản đảm bảo đó là các cổ phiếu được
niêm yết tại trung tâm (sở) giao dịch chứng khoán và lưu kí tại các trung tâm lưu
ký. Các cổ phiếu này phải là tài sản sở hữu hợp pháp của khách hàng và chưa được

cầm cố tại bất kì một tổ chức tín dụng nào.
* Thời hạn cho vay
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian xác định kể từ khi ngân hàng bắt đầu
cho vay cho đến khi ngân hàng thu hồi được hết nợ. Khi cho vay ngân hàng quy
đinh rõ thời hạn cho vay và điều này phải được ghi rõ trong hợp đồng tín dụng.việc
quy định thời hạn cho vay là rất quan trọng vì đây là căn cứ để ngân hàng đưa ra lãi
xuất, đảm bảo việc hoàn trả đúng hạn và sử dụng hiệu quả các khoản nợ của khách
hàng. Khách hàng hoàn toàn có thể hoàn trả khoản vay trước thời hạn. Nếu như
khách hàng vay quá hạn và muốn ra hạn vay thì đây là căn cứ để ngân hàng đưa ra
các hình thức phạt đối với khoản vay quá hạn đó. Thời hạn vay được căn cứ vào
thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng. Tùy vào mục đích sử dụng vốn vay của
khách hàng và uy tín của tổ chức phát hành, các ngân hàng xác định mức cho vay

khác nhau nhưng ở Việt Nam hiện nay thời hạn vay thường không quá 12 tháng,
điều này để hạn chế rủi ro cho các khoản vay.
* Lãi xuất cho vay
Lãi suất cho vay của nghiệp vụ cho vay cầm cố cổ phiếu bao giờ cũng cao
hơn so với các nghiệp vụ cho vay thông thường khác vì mức độ rủi ro của hoạt
14
động này thường cao hơn. Lãi xuất cho vay cầm cố cổ phiếu được xác định dựa vào
lãi xuất cơ bản cộng với mức lợi nhuận cận biên và phần bù rủi ro. Nhưng vì rủi ro
nên phần bù rủi ro thường cao hơn vì lãi xuất cho vay cầm cố cổ phiếu thường lớn
hơn.
* Mức cho vay
Sau khi xem xét các điều kiện về đối tượng vay, tài sản đảm bảo, năng lực tài

chính, giá trị cổ phiếu mà khách hàng định đầu tư… ngân hàng sẽ đưa ra mức cho
vay đối với khách hàng. Mức cho vay dựa trên các yếu tố:
- Nhu cầu vay vốn của khách hàng
- Tỷ lệ cho vay tối đa so với giá trị tài sản đảm bảo theo quy định của ngân
hàng nhà nước
- Thị giá của cổ phiếu mà khách hàng đầu tư và mức độ rủi ro của cổ phiếu đó
- Khả năng nguồn vốn của khách hàng
- Khả năng trả nợ của khách hàng
- Giới hạn cho vay tối đa của ngân hàng đối với một khách hàng. Trong thời
hạn vay mức cho vay có thể được xác định lại tuỳ theo giá cổ phiếu
* Giá xử lý
Là mức giá dùng làm căn cứ để xác định thời điểm xử lý tài sản đảm bảo.

Theo đó, khi mức giá cổ phiếu giảm xuống bằng hoặc dưới mức giá xử ký này thì
ngân hàng cho vay có quyền được xử lý tài sản đảm bảo theo những quy đinh ghi
trong hợp đồng tín dụng. mức giá này do ngân hàng đặt ra dựa trên những phân tích
về cổ phiếu và thị trường chứng khoán, nhằm phòng ngừa rủi ro cho ngân hàng khi
giá cổ phiếu khách hàng đầu tư giảm xuống quá thấp.
15
* Phương thức trả nợ và giải ngân
Khách hàng có thể lựa chọn phương thức trả nợ trả lãi hàng tháng và vốn trả
vào cuối kì hoặc là trả cả gốc và lãi vào cuối kì. Và ngân hàng có thể giải ngân cho
khách hàng bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản, trong trường hợp ngân hàng hợp tác
với một công ty chứng khoán để thực hiện nghiệp vụ này thì phương thức giả ngân
sẽ là chuyển khoản vào thẳng tài khoản đầu tư chứng khoán của khách hàng. Giải

ngân có thể một lần hoặc nhiều lần trong kì hạn nợ.
* Làm thủ tục phong toả, giải toả cổ phiếu tại công ty phát hành, trung tâm lưu
ký chứng khoán
Ngay sau khi việc ký kết hợp đồng cho vay được hoàn tất, ngân hàng sẽ tiến
hành thực hiện phong toả cổ phiếu cầm cố của khách hàng nhằm ngăn chặn các
hành vi giao dịch trên cổ phiếu đó từ phía khách hàng làm ảnh hưởng đến quyền lợi
của ngân hàng, và khi khách hàng đã thực hiện việc trả nợ đầy đủ cả gốc lần lãi cho
ngân hàng thì ngân hàng thực hiện giải toả cổ phiếu cầm cố. Ngân hàng thực hiện
việc phong toả và giải toả cổ phiếu bằng cách gửi giấy đề nghị phong toả và giải
toả lên tổ chức có thẩm quyền lưu giữ các loại cổ phiếu.
Đối với những cổ phiếu chưa được niêm yêt trên sàn giao dịch chứng khoán,
ngân hàng sẽ gửi giấy đề nghị phong toả, giải toả cổ phiếu trực tiếp lên tổ chức

phát hành để ngăn chặn việc mua bán, biếu tặng, cầm cố, và các hình thức giao
dịch khác liên quan đến cổ phiếu cầm cố dưới mọi hình thức.
Đối với cổ phiếu đã được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán, thì việc
lưu giữ chứng khoán được thực hiện bởi trung tâm lưu kí chứng khoán, ngân hàng
sẽ gửi giấy đề nghị phong toả, giải toả lên trung tâm lưu ký chứng khoán để đình
chỉ cũng như giải phóng việc thực hiện các giao dịch trên số cổ phiếu cầm cố này.
16
1.3. Rủi ro và hạn chế rủi ro trong cho vay cầm cố cổ phiếu
1.3.1. Khái niệm rủi ro cho vay cầm cố cổ phiếu
Rủi ro cho vay đầu tư chứng khoán là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến
của ngân hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả
đầy đủ vốn và lãi, hoặc trong trường hợp giá cổ phiếu giảm nên người vay không

trả cho dù họ có khả năng trả nợ cho ngân hàng.
Rủi ro tín dụng là yếu tố luôn tồn tại trong bất kì hoạt động tín dụng nào, do
ngân hàng không thể lường trước tất cả các rủi ro có thể xảy ra hoặc không thể đưa
ra biện pháp phòng ngừa triệt để, đặc biệt trong hoạt động cho vay cầm cố cổ phiếu
thì rủi ro không những luôn tồn tài mà còn rất lớn vì tài sản đảm bảo trong cho vay
cầm cố cổ phiếu là chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, giấy tờ có giá) đây là những
tài sản có độ rủi ro cao, nhất là cổ phiếu do vậy nếu như không có nguyên tắc
phòng ngừa rủi ro phù hợp thì nguy cơ mất vốn của ngân hàng là rất lớn
Ta có thể lấy một ví dụ để thấy được mức độ rủi ro của hạt động này. Đó là:
có 100 triệu trong tay, nhà đầu tư mua một lượng cổ phiếu có giá trị 100 triệu đồng.
Đem lượng cổ phiếu này cầm cố tại ngân hàng, vay thêm được 60 triệu tiền mặt
(thông thường ngân hàng chỉ cho vay tối đa 60% giá trị cổ phiếu tại thời điểm giao

dịch, hoặc theo mệnh giá). 60 triệu này tiếp tục được đầu tư vào một lượng cổ
phiếu mới có giá trị tương ứng. Lượng cổ phiếu mới lại tiếp tục được cầm cố để
vay thêm khoảng 36 triệu đồng. Đến vòng cầm cố thứ 3, có thêm gần 22 triệu tiền
mặt để rót tiếp vào một loại cổ phiếu nào đó. Qua 3 vòng chỉ với 1 phần vốn ban
đầu, nhà đầu đã sở hữu được gần 220 triệu giá trị cổ phiếu, thay vì 100 triệu đồng
tiền mặt. Với 220 triệu giá trị cổ phiếu trong tay, giá cổ phiếu lên, nhà đầu tư thu
được lãi siêu lợi mà năng lực của 100 triệu đồng tiền mặt khó có thể làm được khi
rót nguyên vẹn vào các kênh đầu tư khác. Ngược lại, giá cổ phiếu rớt, ngoài mức
17
giá bị mất, nhà đầu tư phải đội thêm lãi vay ngân hàng; 100 triệu đồng ban đầu có
thể lỗ nặng, khả năng trả nợ bị đe dọa. Do vậy nhà đầu tư có thể phải chịu 3 lần rủi
ro nếu như cả 3 loại cổ phiếu cùng giảm giá và tất nhiên ngân hàng cũng phải gián

tiếp chịu rủi ro cho nhà đầu tư nếu như nhà đầu tư không đủ khả năng thanh toán.
1.3.2. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong cho vay cầm cố cổ phiếu
Cho vay cầm cố cổ phiếu cũng là một hoạt động tín dụng do đó rủi ro của nó
cũng mang những rủi ro chung của rủi ro tín dụng và cũng chứa đựng những rủi ro
riêng đặc trưng. Các rủi ro đó là:
* Nguyên nhân bất khả kháng:
đây là nguyên nhân khách quan tác động tới người vay, khiến người vay mất
khả năng thanh toán, những nguyên nhân mang tính vĩ mô như là các quyết định
của chính phủ, bộ tài chính…tác động tới giá cổ phiếu mà nhà đầu tư đem đi cầm
cố hoặc là sự suy thoái về kinh tế, các thảm hoạ tự nhiên, chiến tranh tác động tới
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà nhà đầu tư không thể tính toán trước
được khiến cho giá cổ phiếu xụt giảm dẫn đến tổn thất cho nhà đầu tư. Khi những

tác động của những nguyên nhân bất khả kháng đối với người vay là nặng nề, khả
năng trả nợ của họ bị suy giảm, nhà đầu tư có thể không trả được một phần hoặc
toàn bộ cả gốc và lãi cho ngân hàng.
* Nguyên nhân thuộc về chủ quan của người vay
Nguyên nhân này là do trình độ yếu kém của người vay trong việc phân tích
dự đoán giá cổ phiếu trong tương lai. Họ kì vọng giá cổ phiếu mà họ đầu tư sẽ tăng
và họ sẽ thu được lợi nhuận trong khi trên thực tế phán đoán đó của họ là sai. Đây
là những nguyên nhân hoàn toàn thuộc về nhà đầu tư do không đủ kiến thức cũng
như kinh nghiệm phân tích dẫn đến rủi ro.
18
Nguyên nhân này thường là nguyên nhân phổ biến dẫn đến rủi ro trong cho
vay cầm cố cổ phiếu vì vay tiền để cầm cố cổ phiếu là cá nhân mà nhà đầu tư tư các

nhân thường có năng lực thấp trong việc phân tích giá cổ phiếu, cũng không có
chiến lược đầu tư rõ ràng và đúng đắn dẫn đến rủi ro lớn cho chính nhà đầu tư và cả
ngân hàng cho vay. Nhà đầu tư cá nhân lại hạn chế về khả năng trả nợ khi khoản nợ
đó lớn do vay nguyên nhân này cần được các ngân hàng xem xét kĩ trước khi ra
quyết định cấp tín dụng.
* Nguyên nhân thuộc về ngân hàng
Nguyên nhân này là do chính sách cầm cố cổ phiếu của ngân hàng không tốt:
các ngân hàng có chính sách cầm cố cổ phiếu của riêng mình. Mỗi ngân hàng có
một danh mục cổ phiếu đươc phép cầm cố khác nhau và tỷ lệ cho vay so với thị giá
cổ phiếu cũng khác nhau… do đó chính sách cho vay cầm cố cổ phiếu của ngân
hàng cũng khác nhau. nếu chính sách này không tốt sẽ dẫn đến rủi ro cho ngân
hàng cao và ngược lại ngân hàng có chính sách tôt sẽ hạn chế được rủi ro.

Một nguyên nhân nữa là thuộc về trình độ năng lực cũng như đạo đức nghề
nghiệp của cán bộ tín dụng. Nếu như nhân viên tín dụng có trình độ thấp trong việc
đánh cũng như phòng ngừa rủi ro hoặc cố tình vi phạm những quy định của ngân
hàng trong việc phòng ngừa rủi ro thì cũng dẫn đến rủi ro cho ngân hàng.
1.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá rủi ro trong cho vay cầm cố cổ phiếu
Đây là các căn cứ thực tế để đánh giá mức độ rủi ro của một ngân hàng trong
việc thực hiện hoạt động cho vay cầm cố cổ phiếu, dựa trên các chỉ số cụ thể ta có
thể đưa ra được các biện pháp hạn chế cũng như kiểm soát rủi ro ở mức độ cho
phép. Các chỉ tiêu đó là:
19
* Tỷ lệ nợ quá hạn từ cho vay cầm cố cổ phiếu trên tổng dư nợ cho vay
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được toàn bộ hoặc một

phần khi đến hạn thoả thuận ghi trong hợp đồng tín dụng. Nợ quá hạn là số tuyệt
đối cho biết chính xác dư nợ quá hạn của nghiệp vụ cho vay cầm cố cổ phiếu của
ngân hàng là bao nhiêu. Tuy nhiên nếu chỉ dùng chỉ tiêu này thì chưa đánh giá
được hết về nợ quá hạn mà cần dùng thêm cả chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn từ cho vay
cầm cố cổ phiếu trên tổng dư nợ cho vay. Đây là chỉ số mang tính tương đối nhưng
nó rất qua trong vì nó phản ánh mức độ rủi ro của dư nợ quá hạn từ hoạt động cho
vay cầm cố cổ phiếu so với tổng dư nợ cho vay. Ta có công thức sau:
Tỷ lệ cho vay cầm cố cho vay cầm cố cổ phiếu quá hạn trong kì
cổ phiếu quá hạn trên = x 100%
tổng dư nợ trong kỳ tổn dư nợ cho vay trong kì
Ngoài ra ta có thể sử dụng một chỉ tiêu khác cụ thể hơn đó là tỷ lệ quá hạn từ
cho vay cầm cố cổ phiếu trên tổng dư nợ cho vay đầu tư chứng khoán. Ta có công

thức thức sau:
tỷ lệ cho vay cầm cố cho vay cầm cố cổ phiếu
cổ phiếu quá hạn trên tổng quá hạn trong kỳ
dư nợ cho vay đầu tư = x 100%
chứng khoán trong kỳ dư nợ cho vay đầu tư chứng khoán trong kỳ
Để chi tiết hơn nữa và đánh giá chính xác hơn nữa tình hình rủi ro của
nghiệp vụ này ta có thể dùng chỉ tiêu tỷ lệ cho vay cầm cố cổ phiếu quá hạn trên dự
nợ cho vay cầm cố cổ phiếu:
20
Tỷ lệ cho vay cho vay cầm cố cổ phiếu quá hạn trong kỳ
cầm cố cổ phiếu = x 100%
quá hạn trong kỳ dư nợ cho vay cầm cố cổ phiếu trong kỳ

Sự tăng giảm của tỷ lệ này cho biết mức độ rủi ro của nghiệp vụ này đang tố
lên hay xấu đi.
* Dư nợ cho vay cầm cố cổ phiếu trên tổng dư nợ
là tỷ lệ dư nợ cho vay cầm cố cổ phiếu so với tổng dư nợ của tất cả các
nghiệp cho vay, nó phản ánh mức độ cho vay cầm cố cổ phiếu chiếm tỷ trọng bao
nhiêu trong tổng dư nợ cho vay của ngân hang. Dư nợ cho vay cầm cố cổ phiếu
càng cao thì mức độ rủi ro càng cao vì dư nợ quá hạn cho vay cầm cố cổ phiếu
càng cao và độ tín nhiệm của khách hang cũng giảm đi nếu tỷ lệ cho vay cam cố cổ
phiếu cũng giảm đi.
* Tỷ lệ cho vay trên thị giá
Đây là một chỉ tiêu quan trọng mà ngân hang phải tính toán kỹ cho phù hợp
với khả năng chịu đựng rủi ro của mình. chỉ tiêu này phản ánh mức cho vay tối đa

mà nhà đầu tư có thể vay so với thị giá cổ phiếu được cầm cố. Tỷ lệ này càng cao,
khả năng mất vốn của ngân hàng càng lớn, mức độ rủi càng cao. thị trường chứng
khoán là một lĩnh vực có độ rủi ro cao, giá cổ phiếu có thể mất vài chục phần trăm
chỉ trong một tuần giao dịch. Mặt khác gí cổ phiếu trên thị trường lại không phản
ánh đúng giá trị thực của cổ phiếu nếu như cổ phiếu được đánh giá vượt quá rất
nhiều so với giá trị thực của nó thì khả năng xụt giảm mạnh thị giá cổ phiếu là rất
cao, và khả năng hồi phục và tăng giá so với mức giá cũ là rất thấp. Trường hợp
này hầu hết các ngân hang bị mất vốn vì nhà đầu tư sẽ không trả lại tiền vay cho
ngân hàng.
21
* Sự đa dạng của danh mục cổ phiếu cầm cố
Các danh mục khác nhau đối với từng ngân hang khác nhau. Nếu danh mục

cổ phiếu nhận cầm cố càng đa dạng thì mức độ rủi ro của toàn toàn danh mục càng
thấp vì rủi ro đối với cổ phiếu này có thể được bù đắp bởi lợi nhuận từ việc cho vay
cầm cố cổ phiếu khác. Các cổ phiếu trong danh mục càng ít rủi ro và tăng trưởng
cao thì mức độ rủi ro của danh mục cũng giảm.
* Một số tiêu chí khác
Đó là chỉ tiêu mang tính vĩ mô như: tỷ lệ làm phát trong quý hoặc trong năm,
mức độ tăng trưởng kinh tế, mức độ tăng trưởng của thị trường chứng khoán, tình
hình kinh tế thế giới…Hoặc những chỉ tiêu trong một lĩnh vực cụ thể có cổ phiếu
nằm trong danh mục nhận cầm cố của ngân hàng như mức độ tăng trưởng của
ngành cũng như của doanh nghiệp, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp…Những chỉ tiêu này cần được đánh giá cụ thể trước khi lập danh mục cổ
phiếu của tổ chức tín dụng cho vay cầm cố cổ phiếu.

1.3.4 Hạn chế rủi ro trong cho vay cầm cố cổ phiếu
1.3.4.1. Sự cần thiết của hạn chế rủi ro trong cho vay cầm cố cổ phiếu
cho vay cầm cố cổ phiếu cũng là một hoạt động tín dụng của ngân hàng có
độ rủi ro cao và mức độ ảnh hưởng của nó đến từng ngân hàng cũng như toàn hệ
thống ngân hàng là rất lớn.. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi thị trường chứng
khoán phát triển khá nóng nhu cầu vay vốn của các nhà đầu tư là rất lớn thì cho
vay cầm cố cổ phiếu càng trở thành một hoạt động được ưa chuộng và có tốc độ
tăng trưởng nhanh. điều này đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng cần phải có các
biện pháp phòng ngừa rủi ro một cách hợp lý sao cho vừa giảm thiểu được rủi ro và
vừa gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng vì đây là một hoạt động đem lại lợi nhuận
22
cao hơn hẳn so với các hoạt động tín dụng khác, tốc độ quay vòng vốn nhanh, thòi

gian cho vay lại ngắn. đây là các ưu điểm vượt trội của hình thức tín dụng này.
23
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG CHO VAY CẦM CỐ CỔ PHIẾU
TẠI NGÂN HÀNG NGÂN HÀNG No&PTNT HÀ NỘI
2.1. Khái quát về ngân hàng No&PTNT Hà Nội
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Được thành lập theo quyết định 51 – QĐ/NH/QĐ ngày 27/6/1988 của Tổng
giám đốc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam (nay là thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam) Chi Nhánh Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Thành phố Hà Nội (nay
là NHNo&PTNN Hà Nội) trên cơ sở 28 cán bộ cùng 21 Công ty, xí nghiệp thuộc
lĩnh vực Nông, Lâm, Ngư nghiệp được điều động từ Ngân hàng Công – Nông –

Thương thành phố Hà Nội và 12 Chi nhánh Ngân hàng Phát triển nông nghiệp
huyện đã hội tụ về tụ sở chính tại số 77 phố Lạc Trung, Quận Hai Bà Trưng, Hà
Nội.
Với 1.182 lao động, 18 tỷ nguồn vốn, chủ yếu là tiền gửi Ngân sách huyện
và 16 tỷ dư nợ mà hầu hết là nợ cho vay các xí nghiệp Quốc doanh, các hợp tác xã
đã thành nợ tồn đọng. Cơ sở vật chất không đáp ứng được yêu cầu kinh doanh.
Ngân hàng Phát triển nông nghiệp Hà Nội sớm phải hoạt động trong môi trường
cạnh tranh với các Ngân hàng có bề dày hoạt động kinh doanh và có nhiều lợi thế
hơn hẳn. Không những thế ngân hàng còn luôn trong tình trạng thiếu vốn, thiếu tiền
mặt. Những năm đầu, sự hỗ trợ nguồn vốn của Ngân hàng phát triển Nông nghiệp
Trung ương cũng chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu vay vốn của Liên hiệp các
Công ty Lương thực Hà Nội để mua gạo cho nhân dân nội thành, một phần nhu cầu

tiền mặt chi lương cho các doanh nghiệp.
24
Nhận rõ tránh nhiệm của mình trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất
nước, mà trọng tâm là phát triển kinh tế nông nghiệp, góp phần đổi mới Nông thôn
ngoại thành Hà Nội. Ngân hàng đã thực hiện những quyết sách táo bạo, đổi mới
nhận thức, kiên quyết khắc phục yếu điểm nhất là thiếu vốn, thiếu tiền mặt. Nhờ
vậy từ năm 1990 trở đi NHNo Hà Nội đã có đủ nguồn vốn và tiền mặt thỏa mãn cơ
bản các nhu cầu tín dụng và tiền mặt cho khách hàng.
Thực hiện chủ trương cho vay hộ sản xuất theo quyết định 499A của Tổng
Giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam, NHNo&PTNT Hà Nội đã phối hợp Hội Nông
dân, Hội liên hiệp Phụ nữ Thành phố đã đẩy mạnh cho vay các sản phẩm Nông
nghiệp. Nhờ vậy thu nhập và đời sống nông dân ngoại thành đã được cải thiện đáng

kể, tỷ lệ hộ khá và giàu tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống đáng kể.
Tháng 9 năm 1991, 7 Ngân hàng huyện thị: Mê Linh, Hoài Đức, Đan
Phượng, Thạch Thất, Ba Vì, Phúc Thọ, thị xã Sơn Tây được bàn giao về Vĩnh Phú
và Hà Tây.
Tiếp theo đó thực hiện mô hình hai cấp từ tháng 10/1995 NHNo&PTNT Hà
Nội đã bàn giao 5 Ngân hàng Sóc Sơn, Đông Anh, Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm
về NHNo&PTNT Việt Nam. NHNo&PTNT Hà Nội lại đứng trước một thử thách
mới đó là mang tên Ngân hàng nông nghiệp nhưng lại phục vụ các thành phần kinh
tế không mang dánh dấp của sản xuất nông nghiệp giữa nội đô Thành phố Hà Nội.
Để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, NHNo&PTNT Hà Nội đã
chủ động mở rộng màng lưới để huy động vốn và đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng
của các thành phần kinh tế trên địa bàn nội thành.

Năm 1994 thành lập Ngân hàng Khu vực Chợ Hôm (nay là Hai Bà Trưng).
Năm 1995 thành lập Ngân hàng Khu vực Đồng Xuân (nay là Hoàn Kiếm).
25

×