Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của Công ty FPT - Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.37 KB, 85 trang )

Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, khi mà xu thế quốc tế hoá đang diễn ra mạnh
mẽ trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế thì việc nền
kinh tế của mỗi quốc gia trở thành một bộ phận của nền kinh tế thế giới là
một tất yếu xảy ra. Đối với Việt Nam nói riêng, những quan hệ mua bán
với các nước không còn là vấn đề xa lạ nữa mà nó ngày càng trở nên sôi
động hơn, nhất là sau sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên
của Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO) ngày 7-11-2006. Và một trong
những hoạt động thương mại quốc tế không thể không kể đến là hoạt động
nhập khẩu hàng hoá.
Sở dĩ như vậy là vì hoạt động này mang lại nhiều lợi ích, không chỉ với
nền kinh tế quốc dân mà còn với cả các tổ chức, các cá nhân trong nền
kinh tế. Chính vì vậy, nhập khẩu không chỉ dừng lại ở một hoạt động mà
nó đã trở thành một lĩnh vực mũi nhọn, không thể thiếu của một quốc gia.
Đối với Công ty FPT nói riêng, nhập khẩu hàng hoá đóng vai trò to lớn
trong sự tồn tại và lớn mạnh của Công ty:
Thứ nhất: Nhập khẩu giúp cho công ty có thêm nguồn cung cấp đầu vào
cho sản xuất kinh doanh, đặc biệt là những vật tư, hàng hóa mà trong nước
chưa sản xuất được như: máy tính, các phụ kiện, điện thoại, các thiết bị
khác,…
Thứ hai: Thông qua nhập khẩu, các doanh nghiệp có thể nhập về được
những hàng hóa có chất lượng tốt, giá cả cạnh tranh. Từ đó không những
tạo ra lợi ích cho bản than Công ty mà còn cả lợi ích cho người tiêu dung.
Thứ ba: Nhập khẩu cũng tạo điều kiện tốt cho việc giao lưu, học hỏi
kinh nghiệm và thắt chặt mối quan hệ với các nhà cung cấp, bởi thông qua
hoạt động này FPT sẽ tiếp cận gần hơn với các nhà cung cấp.Qua đó, học
hỏi được nhiều kinh nghiệm quý báu, cũng như quan hệ với họ ngày càng
được củng cố.
Ngoài những vai trò trên, đối với FPT, nhập khẩu hàng hoá còn có vai
trò cung cấp trang thiết bị cho cán bộ công nhân viên làm việc và đảm bảo


nguồn đầu vào quan trọng cho Công ty cung ứng hàng hóa đến tay khách
hàng một cách đầy đủ, liên tục.
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
1
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
Một khía cạnh nữa là về đặc điểm kinh doanh của Công ty, đó là:
Công ty FPT đóng vai trò như một nhà phân phối và kinh doanh các
sản phẩm công nghệ cao tới người tiêu dung, trong khi đó các loại hàng
hóa này là các hàng hóa trong nước chưa sản xuất được.
Vì vậy, qua Chuyên đề này em xin đi sâu nghiên cứu hoạt động nhập
khẩu của Công ty cổ phần Phát triển Đầu tư Công nghệ FPT với đối tượng,
nội dung và phạm vi nghiên cứu của chuyên đề như sau:
Đối tượng nghiên cứu là: Hoạt động nhập khẩu hàng hóa của công ty
FPT.
Nội dung chuyên đề: Nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hoạt động
nhập khẩu hàng hóa của FPT.
Phạm vi nghiên cứu:Nhập khẩu các sản phẩm công nghệ thông tin
phần cứng của Công ty FPT tại miền Bắc.
Về kết cấu của chuyên đề.
Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I : Cơ sở lý luận.
Chương II : Thực trạng hoạt động nhập khẩu hàng hóa của Công ty
FPT
Chương III: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện hoàn thiện nhập
khẩu hàng hóa của Công ty FPT.
Sau đây em xin đi vào một số nội dung chính:
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
2

Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA NHẬP KHẨU HÀNG
HÓA.
1.1.1. Khái niệm nhập khẩu hàng hóa:
Có thể nói, từ khi nước ta mở cửa thị trường cho đến nay thì việc nhập
khẩu không phải là vấn đề gì mới mẻ và lạ lẫm nữa, nhưng để hiểu rõ hơn ,
trước hết ta sẽ xem xét thế nào là nhập khẩu hàng hoá.
Theo Luật Thương mại(6/2005) “Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hóa
được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt
nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy
định của pháp luật.”
Vậy nhập khẩu có những đặc trưng gì hay nhập khẩu khác với những
loại hình kinh doanh khác như thế nào?
1.1.2. Đặc điểm cơ bản của nhập khẩu hàng hóa:
Nhập khẩu hàng hoá cũng có nhiều điểm giống như những hoạt động
kinh doanh khác, nhưng bên cạnh đó cũng có những điểm đặc thù:
Thứ nhất: Về chủ thể tham gia.
Chủ thể tham gia hoạt động này có trụ sở kinh doanh ở các nước khác
nhau, thường thường có quốc tịch khác nhau. Vì vậy, khi tiến hành hoạt
động này cần quan tâm nhiều đến vấn đề ngôn ngữ, văn hoá, khí hậu,…vì
những điểm khác nhau này tạo ra nhiều khó khăn trong quá trình giao dịch
và kí kết cũng như thực hiện hợp đồng nhập khẩu giữa các bên.
Do vậy, người tiến hành hoạt động này cần phải là người có trình độ
nghiệp vụ cao, hiểu biết về văn hóa, kinh tế, xã hội của các nước trên thế
giới, giỏi ngoại ngữ và có những đức tính cần thiết khác.
Thứ hai: Về đối tượng nhập khẩu.
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B

3
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
Theo khái niệm trên về nhập khẩu hàng hoá thì đối tượng nhập khẩu là
các loại hàng hóa. Trong đó, các hàng hoá này có sự dịch chuyển qua biên
giới quốc gia hoặc qua biên giới hải quan (như qua biên giới khu chế xuất)
và các hàng hoá này phải đáp ứng được yêu cầu của các rào cản thương
mại trên thị trường. Mặt khác, do được vận chuyển qua một khoảng cách
xa nên hàng hoá có thể gặp nhiều rủi ro dẫn đến tổn thất không nhỏ cho
các chủ thể tham gia kinh doanh. Vì vậy, hoạt động nhập khẩu gắn liền với
một loạt các hoạt động quan trọng khác như: vận tải, bảo hiểm, đóng gói
hàng hoá. Do đó, người làm nhập khẩu không chỉ phải hiểu về hàng hoá
mình nhập khẩu mà phải hiểu được các nghiệp vụ liên quan khác để tiến
hành nhập khẩu một cách an toàn và hiệu quả.
Thứ ba: Về thanh toán.
Vấn đề thanh toán trong nhập khẩu hàng hóa nói riêng và xuất nhập
khẩu nói chung rất đa dạng và phức tạp. Điều đó được thể hiện qua những
mặt sau:
Một là: Các chủ thể tham gia thuộc các quốc gia khác nhau, mà mỗi
vùng lãnh thổ, mỗi quốc gia đều có hệ thống tiền tệ riêng. Do vậy, đồng
tiền thanh toán sẽ là ngoại tệ đối với ít nhất một bên.
Mặt khác, mỗi đồng tiền có khả năng thanh khoản, mạnh yếu khác
nhau, độ ổn định về giá trị trên thị trường quốc tế khác nhau, do đó việc
chọn đồng tiền nào là đồng tiền thanh toán là việc cần cân nhắc kĩ lưỡng vì
nó chịu ảnh hưởng của tỉ giá hối đoái trên thị trường. Mỗi một sự thay đổi
tỷ giá hối đoái liên quan đến đồng tiền được chọn làm đồng tiền thanh toán
đều có thể làm thay đổi tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu ảnh hưởng đến kết quả
nhập khẩu hàng hoá.
Hai là :Việc lựa chọn phương thức thanh toán
Trong buôn bán quốc tế, hiện nay có 9 phương thức thanh toán. Trong
đó có phương thức thì chỉ đảm bảo cho người bán như phương thức CAD-

Cash Against Document, hoặc chỉ đảm bảo cho người mua như phương
thức Nhờ thu phiếu trơn, hoặc có thể đảm bảo cho cả hai bên như phương
thức thanh toán tín dụng chứng từ. Vì vậy, cần đảm bảo lựa chọn phương
thức thanh toán an toàn, có lợi cho công ty và giữ được mối quan hệ lâu
dài với các đối tác.
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
4
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
Ba là: Việc thanh toán giữa các chủ thể tham gia hoạt động này diễn ra
thông qua sử dụng các phương tiện thanh toán quốc tế, như: séc, hối phiếu,
thẻ tín dụng,… Chính vì vậy các bên cần phải hiểu các phương tiện thanh
toán trên để áp dụng vào từng trường hợp một cách chính xác và an toàn.
Như vậy có thể thấy nhà nhập khẩu muốn đảm bảo hiệu quả của nhập
khẩu thì trong thanh toán cần phải hiểu và lựa chọn đúng ba điểm cơ bản
là: đồng tiền thanh toán, phương thức thanh toán và công cụ thanh toán.
Thứ tư: Về luật điều chỉnh hoạt động nhập khẩu.
Vì hoạt động nhập khẩu được diễn ra giữa các chủ thể thông thường có
quốc tịch khác nhau. Do vậy nếu như hoạt động kinh doanh trong nước chỉ
chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia thì hoạt động nhập khẩu hàng
hoá chịu sự điều chỉnh của Luật các quốc gia (bao gồm Luật của nước xuất
khẩu, nước nhập khẩu hoặc nước thứ ba), Luật thương mại quốc tế và các
tập quán thương mại quốc tế.
Thứ năm: Những tác động của môi trường quốc tế đến doanh nghiệp
tham gia trong hoạt động nhập khẩu.
Vì bản thân hoạt động nhập khẩu đã diễn ra trong môi trường quốc tế
trong đó giữa các chủ thể và môi trường có mối quan hệ tương tác qua lại.
Do đó, tất cả những biến động của môi trường quốc tế đều tác động sâu sắc
đến hoạt động nhập khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp . Trong đó, sự
thay đổi đó có thể là sự thay đổi tỷ giá hối đoái, sự sụt giảm hay tăng lên

của nguồn cung hàng hoá, sự thay đổi của các chính sách thương mại quốc
tế, hạn nghạch,…Những biến động trên đều ảnh hưởng đến giá cả hàng
hoá trong giao dịch, đến việc thực hiện hợp đồng, đến lợi nhuận của doanh
nghiệp khi tham gia nhập khẩu.
1.1.3.Vai trò của hoạt đông nhập khẩu hàng hoá.
1.1.3.1. Vai trò của nhập khẩu hàng hoá nói chung.
Có thể nói nhập khẩu hàng hoá là một trong những hoạt động cơ bản
của thương mại quốc tế. Nhìn lại lịch sử phát triển của nền kinh tế thế
giới, chúng ta không thể phủ nhận vai trò của thương mại quốc tế nói
chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng. Trong điều kiện hiện nay, hoạt
động này có ý nghĩa sống còn với các nước tham gia và có những vai trò to
lớn, cụ thể là:
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
5
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
Thứ nhất: Thương mại quốc tế là lĩnh vực trao đổi, phân phối và lưu
thông hàng hoá, dịch vụ với nước ngoài, nối sản xuất và tiêu dùng của
nước ta với sản xuất và tiêu dùng của các nước khác trên thế giới. Mà
trong đó, phân phối và lưu thông hàng hoá là một khâu quan trọng, có vai
trò quyết định đến quá trình tái sản xuất mở rộng. Do đó, sản xuất có phát
triển được hay không, phát triển như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào khâu
này. Vì vậy, có thể nói thương mại quốc tế nói chung và nhập khẩu nói
riêng tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển.
Thứ hai: Từ thực tế sản xuất trong nước và quốc tế, chúng ta có thể
nhận thấy được thế mạnh cũng như điểm yếu của mình qua đó sẽ phát triển
sản xuất những mặt hàng mà quốc gia mình có lợi thế và nhập khẩu những
mặt hàng mà nước đó sản xuất hiệu quả hơn. Từ đó,chuyển đổi cơ cấu các
nghành kinh tế và phân công lại lao động xã hội cho phù hợp.
Thứ ba: Thông qua nhập khẩu, nước ta có thể tranh thủ khai thác các

tiềm năng, thế mạnh của các nước khác để thúc đẩy quá trình sản xuất xã
hội phát triển trên cơ sở tiếp thu những tiến bộ về khoa học công nghệ và
sử dụng những hàng hoá tốt, rẻ mà mình chưa sản xuất được hoặc sản xuất
không hiệu quả.
Thứ tư: Từ những hoạt động buôn bán trao đổi hàng hoá, các chủ thể
kinh doanh, các quốc gia thấy được lợi ích của việc hợp tác trong thương
mại quốc tế. Vì vậy, thương mại quốc tế nói chung và nhập khẩu hàng hoá
nói riêng góp phần thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế thế giới.
Thứ năm: Thông qua nhập khẩu hàng hoá cho phép quốc gia tiêu dùng
các mặt hàng với số lượng nhiều hơn, giá rẻ hơn và chủng loại phong phú
hơn, góp phần nâng cao khả năng tiêu dùng và mức sống của dân cư.
1.1.3.2. Vai trò của việc nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học.
Ngoài những vai trò chung kể trên, đối với riêng việc nhập khẩu mặt
hàng thiết bị tin học còn có những vai trò đáng kể sau:
Đối với quốc gia, việc nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học góp phần
nâng cao trình độ tin học cho toàn dân. Nhờ được tiếp xúc với những thiết
bị tin học những kiến thức về công nghệ thông tin được cập nhật, tránh sự
lạc hậu so với thế giới. Hơn nữa, sự có mặt của công nghệ thông tin đã tác
động không nhỏ đến tất cả các nghành, các lĩnh vực trong toàn nền kinh tế.
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
6
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
Nhờ nó mà các công việc được thực hiện nhanh hơn, chính xác hơn, từ đó
tạo ra hiệu quả trong sản xuất và trong các hoạt động khác.
Đối với doanh nghiệp nói chung, việc đưa công nghệ thông tin vào
trong hoạt động của mình góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất
lượng của quản lý, của sản xuất trong mỗi doanh nghiệp.
Đối với riêng các doanh nghiệp tổ chức kinh doanh mặt hàng thiết bị tin
học thì việc nhập khẩu mặt hàng này là nguồn đầu vào quan trọng trong

bối cảnh thị trường nội địa chưa sản xuất được. Mặt khác, trong quá trình
nhập khẩu hàng hóa doanh nghiệp có thể giao lưu, học hỏi được những
kiến thức về quản lý, về công nghệ, … làm tăng hiệu quả trong làm việc.
Xuất phát từ những vai trò quan trọng nêu trên, việc nhập khẩu mặt
hàng công nghệ thông tin là cần thiết và cần chú trọng phát triển.
1.2. NỘI DUNG VÀ CÁC PHƯƠNG THỨC NHẬP KHẨU HÀNG
HÓA THIẾT BỊ THÔNG TIN.
1.2.1. Nội dung của nhập khẩu hàng hóa thiết bị thông tin.
1.2.1.1. Nghiên cứu thị trường hàng hóa xuất khẩu.
Như các hoạt động kinh doanh khác, vai trò của nghiên cứu thị trường
trong xuất nhập khẩu rất quan trọng, giúp doanh nghiệp đánh giá chính xác
về thị trường xuất nhập khẩu, có nguồn thông tin toàn diện, chuẩn xác làm
nền tảng cho chiến lược marketing xuất nhập khẩu. Nếu không thực hiện
nghiên cứu thị trường xuất nhập khẩu hoặc thực hiện sơ sài, doanh nghiệp
sẽ phải đối mặt với những rủi ro rất lớn. Nghiên cứu thị trường sẽ giúp cho
doanh nghiệp lựa chọn thị trường xuất nhập khẩu thích hợp, lập phương án
kinh doanh và tìm được phương thức buôn bán phù hợp nhất với mặt hàng
kinh doanh, với khả năng thực tế của doanh nghiệp.
Để phục vụ cho mục đích của doanh nghiệp, khi nghiên cứu thị trường
cần quan tâm đến những vấn đề cơ bản sau:
Một là: Nghiên cứu dung lượng của thị trường:
Trươc hết, dung lượng của thị trường là khối lượng hoặc giá trị của một
mặt hàng trong một khu vực thị trường nhất định, trong một khoảng thời
gian nhất định.
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
7
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
Như vậy, dung lượng của thị trường thể hiện quy mô của thị trường,
quy mô xuất nhập khẩu của các nước. Khi nghiên cứu dung lượng của thị

trường xuất nhập khẩu cần làm rõ những vấn đề như:
Thứ nhất: Khối lượng sản xuất được và nhu cầu để biết được khối
lượng hàng hoá cần nhập khẩu. Thông tin này phục vụ đắc lực cho khâu
đặt mua hàng, tránh được tình trạng nhập về mà không dùng đến gây ứ
đọng, lãng phí.
Thứ hai: Tìm hiểu nguồn cung cấp hàng hoá trên thị trường mà doanh
nghiệp kinh doanh, nhu cầu hàng hoá của từng khu vực để chọn được
nguồn cung cấp đảm bảo, tìm được thị trường mục tiêu.
Thứ ba: Tìm hiểu được những nhân tố tác động đến hoạt động xuất
nhập khẩu, các nhân tố chủ quan cũng như khách quan để doanh nghiệp có
thể dự đoán được những biến động của thị trường. Từ đó vạch ra được
chiến lược kinh doanh cho mình.
Hai là: Về hàng hóa.
Doanh nghiệp muốn kinh doanh tốt thì phải hiểu được đối tượng mà
mình kinh doanh.Đó là các thông tin về thương phẩm, về nhu cầu thị
trường đối với hàng hóa, về điều kiện sản xuất và tiêu dùng có tính thời vụ
hay liên tục, hàng hóa đang ở thời kì nào của chu kì sống và tỷ suất ngoại
tệ của việc nhập khẩu hàng hoá (doanh nghiệp chỉ nên nhập khẩu nếu tỷ
suất nhập khẩu lớn hơn hoặc bằng tỷ giá hối đoái).
Ba là: Về giá cả.
Giá cả hàng hoá là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Trong buôn
bán quốc tế các nhà kinh doanh hàng hoá nhập khẩu phải nắm được chính
xác giá của hàng hoá định nhập và xu hướng biến động của nó. Giá cả của
hàng hoá được cấu thành bởi: giá vốn, giá bao bì, chi phí bảo hiểm, chi phí
vận chuyển và các chi phí khác tuỳ theo thoả thuận của các bên tham gia.
Thông thường giá cả hàng hóa nhập khẩu chịu ảnh hưởng của rất nhiều
nhân tố, như: giá cả trên thị trường quốc tế, độc quyền, lạm phát, cung-
cầu,… Vì vậy, người kinh doanh nhập khẩu phải phân tích được ảnh
hưởng của từng nhân tố để có thể lựa chọn được từng mức giá phù hợp.
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp

TM46B
8
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
Bốn là: Nghiên cứu môi trường chính trị, luật pháp, tập quán buôn bán ,
hệ thống tài chính tiền tệ của quốc gia mà mình định nhập khẩu hàng hoá
và quốc gia mình, nghiên cứu những thông lệ quốc tế, những quy định về
thương mại của các tổ chức mà Việt Nam tham gia để đảm bảo cho việc
kinh doanh hàng hoá thực sự an toàn và ổn định.
1.2.1.2. Lập phương án nhập khẩu hàng hoá.
Thực chất là những kế hoạch kinh doanh xuất nhập khẩu mà doanh
nghiệp xây dựng để đạt được những mục tiêu đặt ra trong chu kì kinh
doanh, trong đó phương án kinh doanh phải đưa ra được cái nhìn tổng quát
về thị trường từ những thông tin có được trong quá trình nghiên cứu thị
trường xuất nhập khẩu.Từ đó, chỉ ra những thuận lợi cũng như những khó
khăn mà thị trường đem lại khi doanh nghiệp tham gia vào quá trình kinh
doanh.
Nội dung của phương án kinh doanh gồm ba phần chủ yếu, đó là:
Một là: Các mục tiêu mà doanh nghiệp cần đạt được trong thời gian tới.
Có thể nói, mục tiêu này như một ”kim chỉ nam” cho doanh nghiệp
hướng tới, đó là cái đích mà doanh nghiệp cần đạt được, là căn cứ để
doanh nghiệp tiến hành thực hiện các hoạt động để nhằm tới đạt được nó.
Tuy nhiên, việc đặt ra những mục tiêu này không phải là tùy tiện mà các
mục tiêu này cần đảm bảo được các yêu cầu về tính cụ thể, tính khả thi,
tính thống nhất, tính hợp lý, tính linh hoạt và tính lượng hóa được.
Trong đó, để đảm bảo được tính lượng hóa được thì doanh nghiệp cần
đưa ra các chỉ tiêu để đo lường kết quả kinh doanh, như: Tỷ suất ngoại tệ
xuất nhập khẩu, chỉ tiêu giá nhập khẩu hòa vốn, chỉ tiêu về lãi lỗ trong
kinh doanh….
Hai là: Đưa ra phương thức kinh doanh, lựa chọn mặt hàng kinh doanh
trên cơ sở đánh giá những ưu và nhược điểm của mỗi trường hợp.

Ba là: Hệ thống các giải pháp để đạt được chỉ tiêu.
Đây là phần việc tất yếu phải vạch ra nhằm biến những mục tiêu trên
thành hiện thực. Những mục tiêu này kết hợp với những khả năng của
doanh nghiệp là cơ sở để xây dựng nên những giải pháp thực hiện. Các
giải pháp này có thể chia ra thành nhóm giải pháp ở thị trường trong nước
và nhóm giải pháp ở thị trường quốc tế, nhưng dù là nhóm giải pháp nào
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
9
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
thì cũng cần chỉ ra cụ thể những việc cần phải làm, làm bởi ai, làm như thế
nào, thời gian để thực hiện trong bao lâu, ngân sách để thực hiện ra sao,…
Như vậy, lập phương án kinh doanh trong hoạt động xuất nhập khẩu nói
chung và nhập khẩu nói riêng là một công việc cần phải được thực hiện bởi
những người có chuyên môn, có trình độ hiểu biết về ngoại thương vì các
bộ phận trong phương án kinh doanh có mối quan hệ mật thiết với nhau,
lập phương án kinh doanh có tốt thì hoạt động kinh doanh mới đạt hiệu
quả mong muốn.
1.2.1.3.Tìm kiếm đối tác nhập khẩu.
Sau khi lập được phương án kinh doanh phù hợp thì bước tiếp theo là
tìm kiếm đối tác, giao dịch và đàm phán kí kết hợp đồng.
Để tìm kiếm đối tác cung cấp hàng hoá thì nhiều công ty có những tiêu
chí lựa chọn khác nhau như giá cả, độ tin cậy, uy tín, quy mô của nhà cung
cấp, chất lượng,... Từ việc đặt các trọng số cho các tiêu chí trên và tính
điểm cho mỗi đối tác mà công ty tiến hành so sánh và lựa chọn đối tác phù
hợp nhất.
1.2.1.4. Đàm phán, kí kết hợp đồng nhập khẩu.
Trong hoạt động nhập khẩu việc kí kết hợp đồng giữa các bên là cực kì
cần thiết vì hợp đồng thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia
một cách rõ ràng và được đảm bảo thực hiện trước pháp luật.

Đàm phán trong nhập khẩu hàng hoá.
Trong thương mại nói chung và trong buôn bán hàng hoá quốc tế nói
riêng thì hiện nay có một số hình thức đàm phán phổ biến như: Đàm phán
qua gặp mặt trực tiếp, qua giao dịch thư tín, qua điện thoại.
Đối với đàm phán giao dịch qua thư tín khi sử dụng thư tín để đàm
phán, giao dịch cần phải nhớ rằng thư từ là “ sứ giả của mình” đến với đối
tác, người ta sẽ đánh giá, phê phán mình qua những thư từ mình đã gửi
đến. Do vây, cần phải lưu ý hết sức trong việc viết thư và gửi thư. Phải
đảm bảo những yêu cầu lịch sự, chính xác, khẩn trương và kiên nhẫn trong
việc sử dụng hình thức đàm phán này.
Đối với giao dịch đàm phán qua điện thoại.
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
10
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
Chỉ sử dụng trong trường hợp cần thiết, thật khẩn trương, sợ lỡ thời cơ
hoặc trong những trường hợp mà mọi điều kiện đã thoả thuận xong, chỉ
còn chờ xác nhận một vài chi tiết.
Khi sử dụng hình thức này cần chuẩn bị thật chu đáo để có thể trả lời
ngay mọi vấn đề được nêu lên một cách chính xác để từ đó tạo nên sự tin
tưởng về tính trung thực của mình cũng như thể hiện tính quyết đoán trong
đàm phán. Sau khi trao đổi bằng điện thoại cần có thư xác nhận nội dung
đã đàm phán thoả thuận vì trao đổi qua điện thoại là trao đổi bằng miệng,
không có gì làm bằng chứng cho những thoả thuận, quyết định đã đưa ra
trong trao đổi.
Đối với giao dịch đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp.
Trước đây, khi các phương tiện thông tin liên lạc chưa phát triển thì
hình thức giao dịch này được sử dụng phổ biến. Đối với hình thức giao
dịch này có ưu điểm như: Hai bên có thể trực tiếp gặp gỡ để hiểu về nhau
nhiều hơn, tin tưởng nhau hơn; có thể đàm phán được những điều khoản

phức tạp mà nếu chỉ giao dịch qua điện thoại hay thư tín thì không thể
chuyển tải hết được thông tin và không thể thống nhất được quan điểm của
hai bên trong một vấn đề nào đó. Vì vậy, hiện nay hình thức này được áp
dụng nhiều cho những hợp đồng lớn hoặc khi đối tác và doanh nghiệp lần
đầu tiên hợp tác với nhau.
Ngoài ra, người ta còn kết hợp các hình thức trên trong giao dịch tùy
vào từng giai đoạn, từng yêu cầu cụ thể của công việc cũng như trong từng
hợp đồng cụ thể.
Kí kết hợp đồng ngoại thương.
Trước hết để tránh những rủi ro không đáng có trong việc kí kết hợp
đồng các doanh nghiệp cần hiểu rõ về hợp đồng ngoại thương với một số
nét cơ bản sau:
Về khái niệm: hợp đồng ngoại thương hay còn gọi là hợp đồng xuất
nhập khẩu, là sự thỏa thuận của bên mua và bên bán giữa hai nước khác
nhau, trong đó quy định bên bán phải cung cấp hàng hóa và chuyển giao
các chứng từ có liên quan đến hàng hóa và quyền sở hữu hàng hóa cho bên
mua và bên mua phải thanh toán tiền hàng.
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
11
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
Về yêu cầu đối với hợp đồng ngoại thương:
Hợp đồng ngoại thương muốn có giá trị pháp lý thực hiện trong thực tế
và trở thành cơ sở để giải quyết tranh chấp (nếu có) xảy ra giữa các bên
trong quá trình thực hiện hợp đồng, thì hợp đồng ngoại thương phải đồng
thời thỏa mãn được các yêu cầu
Yêu cầu 1: Hợp đồng phải được xây dựng trên cơ sở pháp lý vững chắc.
Điều này có nghĩa là hợp đồng ngoại thương phải được xây dựng dựa trên
cơ sở Luật của nước người bán, các luật và các tập quán có liên quan đến
hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế như: Inconterms, Công ước Viên năm

1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, UCP-DC và Luật Thương
mại của Việt Nam ban hành ngày 16/04/2005 và các văn phạm pháp luật
hướng dẫn thi hành luật Thương mại 2005 khác.
Yêu cầu 2: Chủ thể của hợp đồng ngoại thương phải hợp pháp. Yêu cầu
này được thể hiện trong 2 khía cạnh: Thứ nhất, chủ thể phải là thương
nhân hợp pháp có quyền kinh doanh xuất nhập khẩu theo luật định; và thứ
hai, những người tham gia ký kết hợp đồng phải là những người đại diện
hợp pháp cho mỗi bên, trường hợp người khác ký phải có giấy ủy quyền
hợp lệ bằng văn bản của người đại diện hợp pháp.
Yêu cầu 3: Hình thức của hợp đồng ngoại thương phải hợp pháp.
Theo tập quán thương mại quốc tế, có hai dạng hình thức của hợp đồng
là: Hình thức thỏa thuận miệng và hình thức ký kết bằng văn bản
Ở Việt Nam, theo điều 24 của luật Thương mại 2005, thì hợp đồng
ngoại thương phải được kí kết bằng văn bản (có thể là văn bản viết, đánh
máy hoặc chuyển bằng dữ liệu).
Yêu cầu 4: Nội dung của hợp đồng phải hợp pháp.
Tính hợp pháp của nội dung được thể hiện trên hai vấn đề: Nội dung
chủ yếu của hợp đồng phải đầy đủ và trong hợp đồng không chứa đựng bất
cứ nội dung nào trái với pháp luật hiện hành của nước người bán, nước
người mua và trái với tập quán buôn bán quốc tế.
Yêu cầu 5: Hợp đồng phải được ký kết trên cơ sở tự nguyện của các bên
tham gia mới có hiệu lực.
Về bố cục hợp đồng ngoại thương:
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
12
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
Thông thường một văn bản hợp đồng ngoại thương sẽ bao bốn phần
chủ yếu là: phần mở đầu, phần thông tin về các bên, phần nội dung các
điều khoản và phần cuối của hợp đồng.

• Đối với phần mở đầu của một hợp đồng ngoại thương thường bao
gồm: Tiêu đề hợp đồng, số và ký hiệu hợp đồng và thời gian ký kết
hợp đồng.
• Đối với phần thông tin về chủ thể kí kết hợp đồng, phần này sẽ nêu
những thông tin cần thiết về mỗi chủ thể tham gia. Đó là các thông
tin về:Tên đơn vị, địa chỉ đơn vị, các số máy Fax, điện thoại và địa
chỉ Email, Website nếu có, số tài khoản và tên ngân hàng mà đơn vị
có tài khoản giao dịch thường xuyên.
• Đối với phần nội dung của hợp đồng ngoại thương thường bao gồm
các điều khoản trong đó gồm 6 điều khoản bắt buộc bao gồm:
Điều khoản về hàng hoá (Commodity): Điều khoản này sẽ mô tả về đối
tượng trao đổi, đó là các loại hàng hoá với những đặc trưng cơ bản.
Điều khoản về chất lượng hàng hoá (Quality) mà bên bán phải giao cho
bên mua hàng.
Điều khoản về giá cả (Price): Ghi rõ đơn giá theo điều kiện thương mại
lựa chọn và tổng số tiền thanh toán của hợp đồng.
Điều khoản về giao hàng (Shipment): Trong điều khoản này hai bên cần
thoả thuận rõ vè thời hạn và địa điểm giao hàng, việc giao hàng một lần
hay nhiều lần và việc chuyển tải hàng hóa sẽ do bên nào phụ trách.
Điều khoản về thanh toán (Payment): Trong điều khoản này hai bên
thoả thuận với nhau về thời hạn trả, đông tiền thanh toán, thanh toán bằng
phương thức nào.
Trên đây là các điều khoản chủ yếu, không thể thiếu đối với một hợp
đồng ngoại thương hợp pháp.
Ngoài ra còn có một số điều khoản phụ, như: Quy cách đóng gói bao bì
và nhãn hiệu hàng hóa, bảo hành hàng hóa, phạt và bồi thường, bảo hiểm
hàng hóa, bất khả kháng,…
• Đối với phần cuối của một hợp đồng ngoại thương, thông thường sẽ
bao gồm các nội dung về: Số bản của hợp đồng, hình thức của hợp
đồng là viết tay hay bản fax hay telex, ngôn ngữ hợp đồng sử dụng,

Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
13
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
hiệu lực hợp đồng được tính từ ngày nào, những sửa đổi bổ sung và
cuối cùng là chữ kí của đại diện hai bên.
Về hình thức kí kết hợp đồng ngoại thương:
Hợp đồng ngoại thương có thể kí kết trực tiếp hoặc gián tiếp, có hợp
đồng một văn bản và hợp đồng nhiều văn bản tùy theo điều kiện, mức độ
cần thiết và chào hàng là chào hàng cam kết hay chào hàng tự do.
1.2.1.5. Thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Tùy thuộc vào từng loại hình kinh doanh nhập khẩu, phương thức thanh
toán, cơ chế xuất nhập khẩu của nhà nước,… mà ở một hợp đồng cụ thể
có những điểm khác nhau, nhưng nhìn chung các bước công việc thực hiện
trong hợp đồng nhập khẩu như sau:
Bước 1: Xin giấy phép nhập khẩu (nếu cần).
Hiện nay, các thương nhân trong nước đều có thực hiện hoạt động nhập
khẩu hàng hóa với thương nhân nước ngoài đối với những loại hàng hóa
mà nhà nước không cấm nhập khẩu. Do vậy, vấn đề cần quan tâm ở đây là
hàng hóa thuộc diện nào.
Nếu là hàng hóa cấm nhập khẩu hoặc tạm ngừng xuất khẩu thì doanh
nghiệp không được thực hiện nhập khẩu cho đến khi nào bãi bỏ lệnh cấm
hoặc ngừng nhập khẩu hàng hóa đó.
Nếu là hàng hóa thuộc diện quản lý bằng giấy phép thì doanh nghiệp
muốn thực hiện nhập khẩu hàng hóa đó thì phải được phép của Bộ Công
thương hoặc bộ chủ quản.
Nếu là các loại hàng hóa khác thì doanh nghiệp chỉ cần làm thủ tục hải
quan tại cửa khẩu mà không cần phải xin giấy phép nhập khẩu.
Bước 2: Đôn đốc người bán chuyển hàng.
Ở bước này, người mua thực hiện các hình thức chủ yếu như gửi thư,

gọi điện để đôn đốc người bán chuẩn bị hàng hóa và chuyển cho mình theo
đúng thời gian quy định. Tuy bước này thực hiện đơn giản nhưng rất quan
trọng vì có nhiều trường hợp vì một lí do nào đó đối tác thực hiện không
đúng hoặc chuyển hàng chậm cho công ty làm ảnh hưởng đến kế hoạch
kinh doanh, gây ứ đọng vốn, làm thiệt hại cho công ty.
Bước 3: Bước đầu thực hiện các thủ tục thanh toán.
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
14
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
Tùy từng hợp đồng cụ thể quy định việc tiến hành các thủ tục thanh
toán được thực hiện như thế nào. Nhìn chung, các thủ tục thanh toán sơ bộ
được thực hiện ở bước này phụ thuộc vào việc trong hợp đồng hai bên thỏa
thuận sử dụng phương thức thanh toán nào.
Nếu sử dụng phương thức thanh toán Tín dụng chứng từ, thanh toán
bằng phương thức chuyển tiền trả trước, thanh toán bằng phương thức Đổi
chứng từ trả tiền ngay(CAD) thì hai bên phải tiến hành những thủ tục
thanh toán sơ bộ ban đầu.
Nếu hợp đồng quy định sử dụng phương thức thanh toán khác, như:
Điện chuyển tiền (T/T), Trả tiền đề đổi chứng từ (D/P), Chấp nhận trả tiền
đổi chứng từ, Thanh toán bằng séc,… thì không có bước này.
Bước 4: Thuê phương tiện vận tải.
Hiện nay, theo Incoterms có 13 điều kiện giao hàng, trong đó quy định
nghĩa vụ thuê phương tiện vận tải có thể thuộc về người mua hoặc người
bán tùy theo từng điều kiện giao hàng.
Theo Incoterms 2000 thì:
Nếu trong hợp đồng chi rõ điều kiện giao hàng theo Incoterms 2000 với
điều kiện giao hàng loại E và F, gồm: EXW, FOB,FAS,FCA thì người mua
có nghĩa vụ phải thực hiện thuê phương tiện vận tải. Có thể dùng hình thức
thuê phương tiện vận tải bằng phương thức tàu chuyến, tàu chợ.

Đối với giao hàng theo điều kiện loại C và D, gồm: CFR, CIP, CIF,
CPT, DAF,DAS, DAQ, DDU, DDP thì nghĩa vụ thuê phương tiện vận tải
thuộc về người bán.
Nếu trong hợp đồng không quy định giao hàng theo Incoterms 2000 thì
nghĩa vụ thuê tàu tùy theo những quy định trong hợp đồng.
Bước 5: Mua bảo hiểm.
Nhằm đề phòng rủi ro và hạn chế tổn thất đến mức thấp nhất có thể
doanh nghiệp nhất thiết phải mua bảo hiểm. Trong buôn bán quốc tế, bảo
hiểm đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất. Việc mua bảo hiểm được
thực hiện thông qua một hợp đồng bảo hiểm, tuỳ vào điều kiện, tính chất
của hàng hoá, điều kiện vận chuyển mà doanh nghiệp sẽ quyết định mua
bảo hiểm chuyến hay bảo hiểm bao.
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
15
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
Có nhiều điều kiện bảo hiểm: Điều kiện “A” bảo hiểm mọi rủi ro, điều
kiện “B” bảo hiểm cả tổn thất, điều kiện “C” bảo hiểm miễn tổn thất riêng.
Doanh nghiệp nhập khẩu phải căn cứ vào giá trị lô hàng, mức độ rủi ro,
thỏa thuận của hai bên để lựa chọn mua bảo hiểm loại nào cho kinh tế
nhất.
Tuy nhiên, cũng như thuê phương tiện vận tải, việc mua bảo hiểm cũng
được quy định tùy theo hợp đồng quy định áp dụng điều kiện giao hàng
nào và tùy thuộc vào địa điểm chuyển rủi ro là ở đâu.
Bước 6: Làm thủ tục hải quan.
Vì đặc điểm của nhập khẩu là hàng hóa dịch chuyển qua biên giới hải
quan, vì vậy trước khi nhận hàng từ người vận tải người nhập khẩu phải
tiến hành làm các thủ tục hải quan. Các thủ tục hải quan phải thực hiện bao
gồm: khai báo hải quan về lô hàng nhập khẩu; tự kê khai và tính thuế một
cách đầy đủ, trung thực và chính xác; sau đó tiến hành nộp thuế theo yêu

cầu của cơ quan hải quan và thông quan hàng hóa.
Bước 7: Nhận hàng từ người vận tải.
Để nhận được hàng hoá từ người vận tải cán bộ đi nhận hàng cần xuất
trình lệnh giao hàng và kí kết hợp đồng uỷ thác cho cảng tiến hành dỡ
hàng.
Bước 8: Kiểm tra hàng hóa trước sự chứng kiến của đại diện của chủ
phương tiện vận tải, đại diện cảng biển (nếu có), đại diện hải quan và đại
diện của người bảo hiểm. Sau đó, lập biên bản nhận hàng trong đó ghi rõ
những vấn đề về hàng hoá, những phát sinh tổn thất,… để hai bên cùng
giải quyết.
Bước 9: Thực hiện thanh toán tiền hàng cho người bán.
Đây là nghiệp vụ vận dụng tổng hợp các điều kiện thanh toán quốc tế là
công việc quan trọng và cuối cùng trong việc thực hiện hợp đồng nhập
khẩu. Thủ tục thanh toán sẽ tùy thuộc vào hình thức thanh toán và qui định
trong hợp đồng. Tuy nhiên doanh nghiệp cần phải chú ý có nhiều hình thức
thanh toán khác nhau, mỗi hình thức lại có cách thức và trình tự thanh toán
khác nhau.
Bước 10: Khiếu nại (nếu có).
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
16
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
Bước này chỉ thực hiện khi xảy ra những sai khác đối với những thỏa
thuận của hai bên. Có thể thực hiện khiếu nại qua việc thương lượng, hòa
giải giữa hai bên, thông qua trung gian hòa giải, thông qua trọng tài thương
mại hoặc tòa án để giải quyết. Nhưng phổ biến hơn cả là việc thương
lượng giữa hai bên, các hình thức khác chỉ tiến hành khi thương lượng
không đạt sự thống nhất của các bên tham gia.
1.2.2. Các phương thức nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học
Trải qua nhiều thế kỉ, các phương thức trao đổi hàng hoá quốc tế cũng

ngày càng trở nên đa dạng. Vì vậy, để phục vụ cho nhu cầu nhập khẩu
hàng hoá của từng doanh nghiệp cần hiểu về những phương thức nhập
khẩu này cũng như những ưu điểm và nhược điểm của từng phương thức.
1.2.2.1. Phương thức nhập khẩu trực tiếp.
Khái niệm:
Giao dịch trực tiếp là hình thức giao dịch, trong đó người bán (người
sản xuất, người cung cấp) và người mua quan hệ trực tiếp với nhau (bằng
cách gặp mặt, qua thư từ, điện tín) để bàn bạc thỏa thuận về hàng hóa, giá
cả và các điều kiện giao dịch khác.
Ưu và nhược điểm của phương thức nhập khẩu trực tiếp:
Về ưu điểm:
Thứ nhất: Phương thức này cho phép người nhập khẩu mua được với
giá cả thấp nhất vì trực tiếp mua hàng mà không phải trả chi phí trung
gian.
Thứ hai: Nhập khẩu trực tiếp tạo cho nhà nhập khẩu cơ hội quan hệ tốt
với nhà cung cấp thông qua các giao dịch. Đồng thời, qua đó hai bên có
thể giao lưu, hiểu biết lẫn nhau cũng như tiếp thu được những quy trình
công nghệ và những kinh nghiệm quản lý tiên tiến để áp dụng cho công ty
mình.
Bên cạnh đó, việc nhập khẩu trực tiếp hàng hoá cũng giúp cho doanh
nghiệp có được nguồn hàng tin cậy, nguồn gốc rõ ràng và không phải phụ
thuộc vào các trung gian thương mại.
Về nhược điểm .
Bên cạnh những ưu điểm kể trên, nhập khẩu bằng phương thức trực tiếp
cũng tồn tại những hạn chế, như:
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
17
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
Chi phí cho những việc nghiên cứu tìm hiểu thị trường quốc tế cao, thời

gian tìm hiểu lâu cho nên trong trường hợp mua không thường xuyên, số
lượng ít, cần đáp ứng ngay thì không nên sử dụng phương thức này.
Mặt khác, kinh doanh nhập khẩu trực tiếp đòi hỏi có những cán bộ
nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu giỏi: Giỏi về giao dịch đàm phán,
am hiểu và có kinh nghiệm buôn bán quốc tế đặc biệt là nghiệp vụ thanh
toán quốc tế thông thạo, có như vậy mới bảo đảm kinh doanh nhập khẩu
trực tiếp có hiệu quả.
Đây vừa là yêu cầu để đảm bảo hoạt động kinh doanh nhập khẩu trực
tiếp, vừa thể hiện điểm yếu của đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ của
Việt Nam khi tiếp cận với thị trường thế giới.
1.2.2.2. Phương thức xuất nhập khẩu đối lưu-Counter Trade.
Khái niệm:
Xuất nhập khẩu đối lưu (Counter – Trade) hay còn gọi là hình thức xuất
khẩu liên kết là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ
với nhập khẩu, người bán hàng đồng thời là người mua, lượng hàng trao
đổi với nhau, có giá trị tương đương. Ở đây mục đích của xuất khẩu không
phải nhằm thu ngoại tệ, mà thu về một hàng hóa khác có giá trị tương
đương.
Hiện nay, phương thức buôn bán đối lưu chiếm khoảng 24% kim
nghạch buôn bán toàn cầu với 6 hình thức buôn bán chủ yếu, như:
Hàng đổi hàng (Barter):
Là việc hai bên trao đổi với nhau những hàng hóa có giá trị tương
đương, việc giao hàng diễn ra hầu như đồng thời.
Trao đổi bù trừ (Compensation)
Trong nghiệp vụ bù trừ (Compensation) hai bên trao đổi hàng hóa với
nhau trên cơ sở giá trị hàng giao, đến cuối kỳ hạn, hai bên mới so sánh, đối
chiếu giữa trị giá hàng giao với trị giá hàng nhận. Nếu sau khi bù trừ tiền
hàng như thế mà còn số dư thì số tiền đó được giữ lại để chi trả theo yêu
cầu của bên chủ nợ về những khoản chi tiêu của bên chủ nợ tại nước bị nợ.
Mua đối ứng (counter – purchase): Hai bên ký kết với nhau hai hợp

đồng mua hàng của nhau, cân bằng tổng số tiền của từng hợp đồng. Hợp
đồng mua thanh toán bằng hợp đồng bán.
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
18
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
Chuyển giao nghĩa vụ: Tức là bên nhập khẩu sẽ chuyển nghĩa vụ thanh
toán tiền hàng cho bên thứ ba.
Giao dịch bồi hoàn: Hình thức này được tiến hành giữa hai bên trong
đó bên nhập khẩu hàng hoá chủ yếu là máy móc thiết bị và thanh toán cho
bên kia bằng cách dành cho bên kia những ưu đãi như: Đầu tư, hợp tác
hoặc giúp đỡ bán hàng.
Nghiệp vụ mua lại (buying back): một bên cung cấp thiết bị toàn bộ
hoặc sáng chế, hoặc bí quyết kỹ thuật sản xuất (know-how) cho bên kia và
cam kết mua lại sản phẩm do thiết bị hoặc know-how làm ra.
Tuy nhiên, dù tiến hành theo hình thức nào cũng phải tôn trọng nguyên
tắc cân bằng. Nguyên tắc này được thể hiện như sau:
Thứ nhất là cân bằng về mặt hàng: mặt hàng quý đổi lấy hàng quý, mặt
hàng thừa ế đổi lấy mặt hàng thừa ế.
Thứ hai là cân bằng về điều kiện giao dịch: Cùng giao FOB cảng đi
hoặc cùng giao CIF cảng đến.
Thứ ba là cân bằng về cơ sở giá cả: Cùng tính cao hơn hoặc thấp hơn
giá cả quốc tế.
Và cuối cùng là cân bằng về tổng giá trị hàng giao cho nhau.
Ưu và nhược điểm của phương thức nhập khẩu đối lưu.
Về ưu điểm:
Khi sử dụng phương thức này, các bên có thể kết hợp việc nhập khẩu
hàng hoá và xuất khẩu hàng hoá. Từ đó, cả nhập khẩu và xuất khẩu ngày
càng phát triển.
Bên cạnh đó, đối với một số hình thức xuất nhập khẩu đối lưu thì có thể

có nhiểu bên tham gia vào việc trao đổi làm thúc đẩy thương mại toàn cầu
và việc buôn bán vẫn có thể diễn ra khi một trong hai bên không có nhu
cầu hàng hoá của bên kia.
Mặt khác, thông qua việc kết hợp xuất khẩu với nhập khẩu và việc
thanh toán có thể thực hiện sau khi sản xuất nhờ vào vốn của bên kia cũng
tạo điều kiện cho sản xuất phát triển.
Về nhược điểm:
Cũng như phương thức nhập khẩu trực tiếp việc thực hiện buôn bán đối
lưu cũng thể hiện một số nhược điểm:
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
19
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
Một là: Do có nhiều bên tham gia hợp đồng nên việc thực hiện hợp
đồng phải thật chính xác sao cho các hợp đồng đều được đảm bảo, việc
một hợp đồng có trục trặc thì hợp đồng kia cũng sẽ bị ảnh hưởng.
Hai là: Khi tiến hành buôn bán theo hình thức này thì việc thực hiện
nguyên tắc cân bằng là rất quan trọng, nhưng đôi khi do tương quan sức
mạnh của hai bên không cân bằng và do sự cần thiết của một bên có thể bị
bên mạnh hơn tạo áp lực và có những đòi hỏi trong trao đổi gây thiệt hại
cho bên kia.
1.2.2.3. Phương thức nhập khẩu qua trung gian (Agent).
Khái niệm
Giao dịch qua trung gian là hình thức mua bán quốc tế được thực hiện
nhờ sự giúp đỡ của trung gian thứ ba. Người thứ ba này được hưởng một
khoản tiền nhất định.
Người trung gian phổ biến trong giao dịch quốc tế là đại lý môi giới.
Nhập khẩu qua đại lý:
Đại lý là một người hoặc một công ty ủy thác cho người khác, công ty
khác thực hiện việc mua bán hoặc dịch vụ phục vụ cho việc mua bán như

quảng cáo, vận tải và bảo hiểm. Quan hệ giữa người ủy thác với người đại
lý thể hiện hợp đồng đại lý.
Nhập khẩu qua môi giới(Broker)
Là thương nhân trung gian giữa bên mua và bên bán, được bên mua
hoặc bên bán ủy thác tiến hành bán hoặc mua hàng hóa hay dịch vụ. khi
tiến hành nghiệp vụ môi giới, người môi giới không đứng tên của chính
mình, mà đứng tên của người ủy thác, không chiếm hữu hàng hóa và
không chịu trách nhiệm cá nhân trước người ủy thác về việc khách hàng
không thực hiện hợp đồng.
Quan hệ giữa người ủy thác với người môi giới dựa trên ủy thác từng
lần, chứ không dựa vào hợp đồng.
Ưu nhược điểm của hình thức giao dịch qua trung gian:
Ưu điểm :
Vì người trung gian thường là những người am hiểu thị trường xâm
nhập, pháp luật và tập quán buôn bán của địa phương nên họ có khả năng
đẩy mạnh buôn bán và tránh bớt rủi ro cho người ủy thác.
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
20
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
Mặt khác, những người trung gian, nhất là các đại lý thường có cơ sở
vật chất nhất định, do đó khi sử dụng họ, người ủy thác đỡ phải đầu tư trực
tiếp ra nước tiêu thụ hàng.
Ngoài ra, nhờ dịch vụ của trung gian trong việc lựa chọn phân loại,
đóng gói, người ủy thác có thể giảm bớt chi phí vận tải từ đó giảm bớt chi
phí trong nhập khẩu hàng hoá.
Nhược điểm:
Trái ngược với phương thức nhập khẩu trực tiếp, khi sử dụng phương
thức nhập khẩu qua trung gian bên nhập khẩu mất sự liên hệ trực tiếp với
thị trường, với nhà cung cấp. Do vậy, nhà nhập khẩu sẽ phụ thuộc vào

trung gian, phải đáp ứng những yêu sách của đại lý và môi giới đưa ra.
Đồng thời, nếu nhập khẩu trực tiếp nhà nhập khẩu sẽ mua được với
giá cả thấp nhất vì trực tiếp mua hàng mà không phải trả chi phí trung gian
trong khi đó, sử dụng các trung gian thì giá cả hàng hoá sẽ cao hơn vì
trong đó đã cộng thêm chi phí lưu thông và lợi nhuận của các trung gian.
Vì vậy, lợi nhuận bị chia sẻ.
Một vấn đề nữa là về việc vốn kinh doanh hay bị bên nhận đại lý chiếm
dụng do phải thanh toán cho bên trung gian để họ nhập hàng về và không
chủ động được kế hoạch nhập hàng gây ra việc vốn bị đóng băng.
Do những lợi hại nêu trên, trung gian chỉ được sử dụng trong những
trường hợp thật cần thiết như:
• Khi thâm nhập vào thị trường mới,
• Khi mới đưa vào thị trường một mặt hàng mới,
• Khi tập quán đòi hỏi phải bán hàng qua trung gian.
• Khi mặt hàng đỏi hỏi sự chăm sóc đặc biệt. Ví dụ: Hàng tươi sống…
1.2.2.4. Phương thức kinh doanh tái xuất.
Khái niệm:
Tái xuất khẩu là hình thức thực hiện xuất khẩu trở lại sang các nước
khác, những hàng hóa đã mua ở nước ngoài nhưng chưa qua chế biến ở
nước tái xuất.
Mục đích:
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
21
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
Mục đích của thực hiện giao dịch tái xuất khẩu là mua rẻ hàng hóa ở
nước này bán đắt hàng hóa ở nước khác và thu số ngoại tệ lớn hơn số vốn
bỏ ban đầu. Giao dịch này luôn luôn thu hút ba nước tham gia: nước xuất
khẩu, nước tái xuất khẩu và nước nhập khẩu.
Phân loại hoạt động tái xuất khẩu

Có hai hình thức:
Một là: Hình thức kinh doanh chuyển khẩu.
Hình thức kinh doanh chuyên khẩu được hiểu như sau: Chuyên khẩu là
mua hàng của một nước (nước xuất khẩu) để bán cho một nước khác (nước
nhập khẩu) mà không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và không làm
thủ tục xuất khẩu từ Việt Nam.
Hai là: Hình thức kinh doanh “tạm nhập, tái xuất”.
Kinh doanh tạm nhập tái xuất được hiểu là việc mua bán hàng hóa của
một nước để bán cho một nước khác trên cơ sở hợp đồng mua bán hàng
hóa ngoại thương, có làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam, rồi
làm thủ tục xuất khẩu mà không qua khâu chế biến.
Ở Việt Nam thời gian hàng hóa tạm nhập để tái xuất khẩu được lưu
chuyển là 60 ngày.
Khi sử dụng phương thức kinh doanh này doanh nghiệp thực hiện
nghiệp vụ tái xuất phải có kinh nghiệm kinh doanh, am hiểu về thị trường
và giá cả; có nhiều bạn hàng ở nước ngoài để ráp nối mua bán giữa họ với
nhau; có những nhân viên giỏi về nghiệp vụ thanh toán.
1.2.2.5. Một số phương thức nhập khẩu đặc biệt khác.
Giao dịch tại sở giao dịch hàng hóa:
Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá là việc giao dịch được tiến hành ở
một thị trường đặc biệt, được tổ chức ở một nơi nhất định, hoạt động trong
một khoảng thời gian nhất định. Ở đó thông qua các môi giới của sở giao
dịch hàng hoá người ta mua bán những mặt hàng có khối lượng lớn, phẩm
chất tương đồng và được tiêu chuẩn hóa.
Trong đó, hội chợ là thị trường hoạt động định kỳ, được tổ chức vào
một thời gian và ỏ vào một địa điểm cố định trong một thời hạn nhất định,
tại đó người bán đem trưng bày hàng hóa của mình và tiếp tục với người
mua để ký kết hợp đồng mua bán.
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B

22
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
Đấu giá quốc tế.
Đấu giá quốc tế là phương thức bán hàng đặc biệt, được tổ chức công
khai ở một nơi nhất định. Tại đó, sau khi xem xét hàng hóa những người
mua sẽ tự do cạnh tranh trả giá và cuối cùng hàng hóa sẽ được bán cho
người mua trả giá cao nhất.
Đấu thầu quốc tế
Đấu thầu quốc tế là một phương thức giao dịch đặc biệt, trong đó người
mua (tức người gọi thầu) công bố trước điều kiện mua hàng để người bán
(tức người dự thầu) báo giá mình muốn bán, sau đó người mua sẽ chọn
mua của người nào bán giá rẻ nhất và điều kiện tín dụng phù hợp cả với
những điều kiện đã nêu.
Phương thức đấu thầu được áp dụng tương đối phổ biến trong việc mua
sắm và thi công các công trình của Nhà nước, nhất là tại các nước đang phát
triển.
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC NHẬP KHẨU MẶT
HÀNG THIẾT BỊ TIN HỌC.
Doanh nghiệp từ khi ra đời, tồn tại và phát triển đều ở trong môi trường
kinh doanh. Môi trường kinh doanh tồn tại một cách khách quan và không
thể phủ nhận được nó. Mỗi một sự thay đổi của môi trường đều ảnh hưởng
đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Là một trong những doanh
nghiệp tồn tại trong môi trường kinh doanh, Công ty cổ phần Phát triển và
Đầu tư công nghệ FPT cũng chịu những tác động đó, nhất là trong việc
nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học. Mặt khác, vì nhập khẩu là hoạt động
diễn ra trong môi trường quốc tế nên kết quả hoạt động này chịu ảnh
hưởng sâu rộng bởi những yếu tố không chỉ thuộc về bản thân FPT mà còn
chịu ảnh hưởng của môi trường kinh doanh trong nước và quốc tế.
1.3.1.Các nhân tố khách quan
Trước hết, các nhân tố khách quan là những nhân tố tồn tại ngoài ý chí

chủ quan của con người, một cá nhân con người không thể tạo ra nó cũng
không thể xoá bỏ nó mà phải tuân theo và tìm cách thích ứng với nó.
Trong kinh doanh xuất nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học các nhân tố
khách quan chủ yếu có thể kể đến là các yếu tố thuộc về chính trị và luật
pháp; các yếu tố kinh tế; các yếu tố thị trường và cơ sở hạ tầng.
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
23
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
Thứ nhất: Về yếu tố chính trị và luật pháp.
Đây là các yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động nhập khẩu, đặc
biệt là chính sách ngoại thương, tuỳ theo tình hình, định hướng khác nhau
mà sự ảnh hưởng của chúng cũng khác nhau, hoạt động nhập khẩu được
tiến hành giữa các quốc gia khác nhau do đó nó phải chịu sự ảnh hưởng
không chỉ của các chính sách, quy định, luật pháp trong nước mà nó còn
phải phù hợp thích nghi với các chính sách, luật pháp của nước ngoài và
quốc tế.
Các yếu tố này có thể ảnh hưởng tích cực đến hoạt động nhập khẩu, đôi
khi nó lại làm kìm hãm, thậm chí ngăn cản hoạt động nhập khẩu, điều này
gây ra những khó khăn không nhỏ cho hoạt động nhập khẩu .
Để điều tiết cho hoạt động nhập khẩu, chính phủ có các chính sách sau:
Một là: Chính sách về thuế.
Đây thực chất là biện pháp nhằm thể hiện sự ưu đãi hay hạn chế của
chính phủ đối với hoạt động nhập khẩu. Chính phủ dùng các mức thuế
khác nhau để điều tiết hoạt động nhập khẩu. Đối với những hàng hoá
không khuyến khích nhập khẩu thì chính phủ đánh thuế cao, thậm chí rất
cao, còn đối với những hàng hoá chính phủ khuyến khích nhập khẩu thì có
thể đánh thuế rất thấp thậm chí mức thuế bằng không.
Thực tế cho thấy, khi tiến hành tính toán hiệu quả của một lô hàng nhập
khẩu, ngoài các khoản chi phí doanh nghiệp chi cho hoạt động nhập khẩu,

còn phải tính thêm mức thuế mà mình phải chịu sao cho đảm bảo vẫn có
lợi nhuận, điều này cho thấy rằng thuế đóng vai trò rất quan trọng đối với
doanh nghiệp .
Hai là: Hạn ngạch nhập khẩu.
Đây là một biện pháp chính phủ sử dụng để quản lý hoạt động nhập
khẩu, hạn ngạch nhập khẩu có thể được hiểu là những quy định về số
lượng, trị giá của mặt hàng hoặc nhóm hàng được nhập khẩu từ một thị
trường nhất định, trong thời gian nhất định của chính phủ. Đối với những
mặt hàng bị chính phủ hạn chế bằng hạn ngạch doanh nghiệp nhập khẩu sẽ
gặp phải rất nhiều khó khăn ảnh hưởng đến quy mô kinh doanh của doanh
nghiệp.
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
24
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
Còn đối với những hàng nhập khẩu không bị chính phủ hạn chế bằng
hạn ngạch thì doanh nghiệp nhập khẩu sẽ gặp rất nhiều thuận lợi.
Ba là: Chính sách đối ngoại và cơ chế tỷ giá.
Hoạt động nhập khẩu cũng phụ thuộc nhiều vào quan hệ giữa các Quốc
gia, điều này khiến cho các doanh nghiệp gặp phải ưu đãi hoặc cản trở khi
tiến hành hoạt động nhập khẩu .
Việc quản lý tỷ giá của chính phủ hay sự sử dụng cơ chế tỷ giá thả nổi
hay cố định cũng ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu .
Như vậy, luật pháp bao giờ cũng là cơ sở pháp lý để tổ chức và thực
hiện hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Với hoạt động nhập khẩu thì
luật pháp không chỉ là luật pháp của nước sở tại mà còn bao gồm luật pháp
của các nước khác và luật pháp quốc tế. Vì vậy, FPT cần quan tâm đến
việc phân tích và cập nhật những thông tin về hệ thống chính sách trong
nước và quốc tế.
Thứ hai: Những yếu tố kinh tế.

Đây là các yếu tố quan trọng có tác động đến cả cung và cầu hàng hoá
dịch vụ trong toàn nền kinh tế quốc dân. Trong đó các yếu tố kinh tế chủ
yếu tác động đến sản xuất kinh doanh là: Tốc độ phát triển kinh tế; lạm
phát, thất nghiệp; tiềm năng kinh tế và sự gia tăng đầu tư; các chính sách
tài chính tiền tệ; giai đoạn trong chu kì phát triển mà nền kinh tế đang trải
qua.
Các yếu tố này tác động đến cả sản xuất và tiêu dùng, ảnh hưởng đến
sức mua trong nền kinh tế, là “máy đo nhiệt độ” của thị trường. Trong đó,
tốc độ phát triển kinh tế của quốc gia, tình hình lạm phát và chính sách tài
chính tiền tệ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động nhập khẩu mặt
hàng thiết bị tin học của FPT.
Nếu tốc độ phát triển kinh tế của Việt Nam duy trì được ở mức độ cao,
ổn định; lạm phát và lãi suất ngân hàng được kiểm soát sẽ là nhân tố kích
thích sức mua trong nước. Từ đó, khả năng bán được hàng được nâng cao
tạo điều kiện cho sản xuất và kinh doanh được mở rộng.
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
25

×