Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Quan điểm triết học Mác – Lênin về con người và bản chất con người. Vấn đề phát huy nhân tố con người trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.46 KB, 12 trang )

Đề tài: Quan điểm triết học Mác – Lênin về con người và bản chất con người.
Vấn đề phát huy nhân tố con người trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện
nay.
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Câu hỏi về con người luôn là chủ đề trọng tâm trong lịch sử triết học, cổ đại và hiện
đại. Từ khi triết học Mác - Lênin ra đời, nó đã giải quyết những vấn đề liên quan
đến con người. Khẳng định con người có vị trí, vai trị vơ cùng quan trọng trong
thực tế ngày nay, con người là lực lượng hàng đầu trong nền sản xuất xã hội. Trong
quá trình đổi mới xã hội, chỉ có con người, nhân tố quan trọng nhất tạo nên sức sản
xuất xã hội, là nhân tố chủ yếu, là nguồn lực quyết định, quyết định sự thành bại.
Đảng ta khẳng định tư tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa
Mác - Lê-nin sẽ luôn là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Vì vậy, dưới tác động của tư tưởng nhân dân Mác - Lê-nin, Đảng ta đã chỉ rõ trong
Đề cương xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa: “Con người là
trung tâm chiến lược, trung tâm của sự phát triển, là chủ thể của sự phát triển. tôn
trọng và bảo vệ quyền con người, chúng ta sẽ thực hiện Quyền con người gắn liền

1


với quyền tự chủ của quốc gia, nhà nước và nhân dân. Kết hợp và phát huy hết vai
trò của xã hội, gia đình, nhà trường, tập thể lao động cá nhân, các tổ chức đoàn thể
và cộng đồng dân cư trong việc xây dựng lịng u nước, thiện chí, tinh thần làm
chủ và trách nhiệm công dân của nhân dân Việt Nam; Có tri thức, có sức khỏe, lao
động tốt; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính ".
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang bước vào quá trình đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đẩy mạnh tồn diện q trình chuyển đổi, đặt nền
móng để đến năm 2020 trở thành nền công nghiệp hiện đại của cả nước. Bên cạnh
những yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại như sự lãnh đạo của Đảng, sự quản


lý, điều hành của Nhà nước và sự tham gia, hỗ trợ tích cực của các tổ chức xã hội
thì chúng ta cũng cần khẳng định điều này. Nhân tố con người và nguồn lực con
người có vai trị hết sức quan trọng, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng khẳng định: "Nâng cao trí tuệ, ni dưỡng và phát huy nguồn nhân
lực vĩ đại của nhân dân Việt Nam là nhân tố quyết định thành công q trình cơng
nghiệp hóa và hiện đại hóa. "
Để góp phần ủng hộ và ủng hộ đường lối của Đảng trong sự nghiệp xây dựng, bảo
vệ và phát triển đất nước, tôi đã chọn đề tài "Triết học của Lê-nin về con người và
xây dựng nguồn nhân lực trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta"
làm cơ sở nghiên cứu. .
Hồn thành tiểu luận này tơi hi vọng có thể góp một phần nhỏ bé của mình trong
việc làm rõ lịng tin của mọi người vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, và
đưa ra một số giải pháp để phát huy nhân tố con người ở Việt Nam hiện nay, và thực
hiện mục tiêu của Đảng phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa.
Với kiến thức và sự cố gắng, em đã hồn thành bài tiểu luận song khơng tránh khỏi
cịn nhiểu thiếu sót. Kính mong nhận được lời nhận xét và đánh giá của thầy để em
rút kinh nghiệm trong những bài sau.

2


Em xin chân thành cảm ơn!

NỘI DUNG
CHƯƠNG I – QUAN NIỆM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI
VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI
Trong tác phẩm Luận cương về Feuerbach, K.C.Mác chỉ ra hạn chế của Feuerbach
trong việc xem xét con người như là một cơ thể sinh vật có ý thức và tình cảm, như
tình u, tình bạn, khơng thấy mặt xã hội và hoạt động thực tiễn của con người.

K.C.Mác vạch rõ: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa
những mối quan hệ xã hội” (Toàn tập, tập 3, tr.11).
1) Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội

- Các khía cạnh sinh học bao gồm cơ thể và các nhu cầu của nó và các quy luật sinh
học chi phối cuộc sống của con người.
- Các khía cạnh xã hội bao gồm sự “tổng kết các quan hệ xã hội”, các hoạt động xã
hội và đời sống tinh thần của con người.

3


Hai mặt này có quan hệ chặt chẽ với nhau và khơng thể tách rời nhau, trong đó mặt
sinh học là cơ sở vật chất tự nhiên của con người, nhưng không phải là yếu tố quyết
định bản chất con người; mặt xã hội mới là mặt có vai trị quyết định đối với bản
chất con người, vì phương diện xã hội của con người được biểu hiện trong hoạt
động sản xuất vật chất trung gian. Lao động sản xuất ra của cải vật chất, của cải vật
chất là nhân tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời cũng
là nhân tố quyết định hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội, quá trình hình thành và phát triển của con
người ln được quyết định bởi ba hệ thống quy luật riêng biệt nhưng thống nhất:
- Những quy luật sinh học chi phối đời sống của cơ thể
- Những quy luật hinh thành tâm lý, ý thức.
- Những quy luật xã hội quy định đời sống xã hội của con người.
Ba hệ thống trên củng tác động, tạo nền thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống
con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội.
Bản chất của con người không phải là cái gì có sẵn, mà có q trinh hinh thành,
phát triển và hoàn thiện cùng với hoạt động thực tiễn của con người.
2) Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan


hệ xã hội
Con người khác với thế giới động vật ở ba điểm: mối quan hệ với thiên nhiên, mối
quan hệ với xã hội và mối quan hệ với bản thân. Sự khác biệt này cho thấy con
người là một thực thể thống nhất giữa các mặt sinh học và xã hội hay bản chất con
người là tổng hòa các quan hệ xã hội. Vì xét cho cùng ba mối quan hệ này đều là
mối quan hệ xã hội giữa con người với con người là mối quan hệ bản chất bao trùm
tất cả các mối quan hệ khác của con người.
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người Marx đã nêu ra Luận điểm nổi tiếng
của mình về Phoiơbách: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố

4


hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng
hịa những quan hệ xã hội”.
Luận điểm trên khẳng định khơng có con người trừu tượng thốt khỏi điều kiện
hồn cảnh lịch sử xã hội. Con người là cụ thể sống trong một điều kiện lịch sử cụ
thể nhất định. Trong điều kiện lịch sử cụ thể này thông qua hoạt động thực tiễn con
người sản sinh ra những giá trị vật chất và tinh thần nhằm tồn tại và phát triển về
thể chất và tinh thần. Chỉ trong tổng thể các quan hệ xã hội như gia đình, giai cấp,
dân tộc… thì con người mới bộc lộ được bản chất xã hội của mình.
Điều quan trọng cần lưu ý là luận điểm trên khẳng định bản chất xã hội không phải
mặt tự nhiên của đời sống con người; trái lại ông muốn nhấn mạnh sự phân biệt
giữa con người và giới động vật về bản chất xã hội và đó cũng là vấn đề xoa dịu sự
thiếu sót của các nhà triết học tiền Mác về bản chất xã hội của con người. Mặt khác
bản chất với ý nghĩa là cái phổ biến có tính quy luật khơng phải là cái duy nhất; Do
đó cần thấy được những biểu hiện riêng biệt phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân
trong cộng đồng xã hội.
3) Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử


Khơng có giới tự nhiên khơng có lịch sử xã hội thì khơng có con người. Vì vậy con
người là sản phẩm của lịch sử của q trình tiến hóa lâu dài của các lồi sinh vật.
Tuy nhiên điều quan trọng nhất là con người vẫn là chủ thể của lịch sử xã hội.
Trong quá trình biến đổi giới tự nhiên con người cũng làm nên lịch sử của chính
mình. Con người là sản phẩm của lịch sử đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của
chính mình. Bản chất con người khơng phải là một hệ thống đóng mà là một hệ
thống mở tương ứng với những điều kiện tồn tại của con người. C.Mác cho rằng:
“Học thuyết duy vật cho rằng con người là sản phẩm của hoàn cảnh và giáo dục,...
học thuyết này quên rằng chính con người mới là người thay đổi hoàn cảnh và tự
nhiên. Bản thân những người làm công tác giáo dục cũng cần được giáo dục". Trong
cuốn Phép biện chứng của tự nhiên Ph.Ăngghen cũng cho rằng: “Động vật cũng có

5


lịch sử tức là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng
cho đến trạng thái hiện nay. Nhưng câu chuyện này không phải do họ tạo ra và
trong chừng mực họ tham gia vào nó nó sẽ xảy ra mà họ khơng biết và khơng có ý
chí của họ. Ngược lại con người càng xa loài vật theo nghĩa hẹp của từ này thì con
người càng có ý thức làm nên lịch sử của mình".
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải cho hồn
cảnh ngày cảng mang tỉnh người nhiều hơn. Con người tiếp nhận hoàn cảnh một
cách tích cực và tác động trở lại hồn cảnh trên nhiều phương diện khách nhau. Đó
là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoản cảnh trong bắt kỳ giai đoạn
nào của lịch sử xã hội loài người.

CHƯƠNG II - VẤN ĐỀ PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1) Khái niệm nhân tố con người, chiến lược con người
Nhận thức đúng đắn về quan niệm nhân tố con người là sự phát triển sáng tạo quan

điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người là chủ thể sáng tạo có ý thức và là
chủ thể của lịch sử. Trong thời gian gần đây nhiều khái niệm đã xuất hiện: nhân tố
con người, nguồn nhân lực, nguồn nhân lực, phát triển con người,... Khái niệm nhân
tố con người đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước đề cập với nhiều góc độ
khác nhau cách tiếp cận khác nhau. Một số tác giả đề cập đến nó dưới góc độ quản
lý một số tác giả đề cập đến nó dưới góc độ phân tích tâm lý xã hội. Trong văn học
triết học xã hội nhân tố con người cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tựu
chung lại có hai cách tiếp cận chính:
Thứ nhất, coi yếu tố con người là hoạt động của những con người riêng biệt khả
năng và năng lực của họ do nhu cầu sở thích và tiềm lực tinh thần thể chất của mỗi
người quyết định.

6


Thứ hai, coi nhân tố con người là tổng hợp các thuộc tính đặc điểm và các năng lực
khác nhau của con người biểu hiện dưới các hình thức hoạt động khác nhau.
Như vậy điểm chung của các quan niệm này là nhân tố con người thực chất là nhân
tố xã hội quyết định vai trò chủ thể của con người. Nhưng khác ở chỗ quan niệm
thứ nhất coi hoạt động là đặc trưng cơ bản còn phẩm chất và năng lực là biểu hiện
trong hoạt động. Quan niệm thứ hai là lấy đặc tính cơ bản làm phẩm chất của kỹ
năng và hoạt động làm biểu hiện của nó.
Từ đó có thể đưa ra quan niệm chung đầy đủ hơn về nhân tố con người như sau:
Nhân tố con người là hệ thống các yếu tố đặc điểm quyết định vai trò chủ thể hoạt
động sáng tạo của con người, con người bao gồm một hệ thống thống nhất giữa các
hoạt động và tổng hợp những đặc điểm của phẩm chất và năng lực của con người
trong một quá trình biến đổi và phát triển xã hội nhất định.
Nhân tố con người là khái niệm không chỉ để phân biệt nhân tố “con người” với các
nhân tố khác: kinh tế, chính trị, xã hội,… trong đời sống xã hội mà trên hết là khẳng
định vai trò là nhân tố “con người” đối với các nhân tố này. Có nghĩa là khơng có

khái niệm nhân tố con người tách rời khỏi các hoạt động kể cả trong các lĩnh vực
kinh tế chính trị xã hội.
Chú trọng nhân tố con người có nghĩa là phát hiện bộc lộ đào tạo và sử dụng tiềm
năng sáng tạo của người lao động phát huy nhân tố con người có nghĩa là đảm bảo
tạo ra những điều kiện cần thiết cho sự phát triển của mọi người, hạnh phúc của mỗi
người mỗi cộng đồng thể hiện tối đa năng lực của mình trong hoạt động lao động và
sáng tạo. Đó cũng là q trình biến mỗi người trở thành chủ thể có ý thức trong
sáng tạo lịch sử.
Phát triển con người bao gồm việc bổ sung các giá trị cho con người, giá trị tinh
thần, giá trị vật chất. Con người ở đây được xem như một nguồn lực một nguồn lực.
Vì vậy phát triển con người hay phát triển nguồn nhân lực trở thành một lĩnh vực
nghiên cứu rất cần thiết trong hệ thống phát triển các loại nguồn lực như vật lực tài

7


chính và nhân lực trong đó phát triển nguồn nhân lực đóng vai trị trung tâm. Câu
chuyện về sự phát triển của con người là câu chuyện về sự giải phóng từng bước
của con người cả về vật chất và tinh thần. Và khơng phải nói đến chủ nghĩa xã hội
là chúng ta nói đến chiến lược con người khai thác nhân tố con người vì trong lịch
sử khơng có chế độ nào tồn tại mà khơng nói đến nhân tố con người mà vấn đề là
khai thác và phát huy nhân tố con người theo lợi ích giai cấp nào và do nghĩa là gì.
Về bản chất chiến lược con người là tạo ra mơi trường xã hội kích thích con người
lao động sáng tạo đáp ứng tối đa nhu cầu của con người trong những điều kiện lịch
sử cụ thể. Đó là mơi trường kinh tế - xã hội mơi trường chính trị xã hội mơi trường
văn hóa xã hội.
2) Chiến lược con người trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam

Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực trong quá trình xây dựng xã hội mới.
Việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy mạnh mẽ cơng

nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước theo hướng “đi trước về sau đi đầu” nhất thiết
phải gắn với phát triển con người và tôn trọng con người để thành công trong sự
nghiệp đổi mới. Đảng ta khẳng định phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản
để phát triển nhanh và vững chắc.
Để xây dựng con người Việt Nam mới trong thời kỳ cơng nghiệp hóa hiện đại hóa
cao độ này người cán bộ phải trả lời được bộ câu hỏi cơ bản sau:
Thứ nhất, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị
trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn
minh nhân loại nó tồn tại khách quan trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên kinh tế thị trường phải có sự quản lý của nhà nước. Thực chất của kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kiểu tổ chức vừa dựa trên các nguyên tắc
quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên các nguyên tắc và bản chất của chủ
nghĩa xã hội. Thực tiễn cho thấy chính sách kinh tế của Đảng và nhà nước ta trong
20 năm đổi mới đã tạo động lực kinh tế giải phóng sức sản xuất trực tiếp thúc đẩy

8


kinh tế phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân phát triển kinh tế có lợi cho
cơng cuộc xây dựng con người Việt Nam mới.
Thứ hai, ổn định chính trị và mở rộng dân chủ. Đối với bất kỳ quốc gia dân tộc nào
dù ở chế độ chính trị nào cũng phải có sự ổn định về chính trị - xã hội. Vì nó là tiền
cho sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Sự ổn định về chính trị trước hết là sự ổn
định của hệ thống chính trị một cơ cấu hợp lý và một thể chế chính trị hồn chỉnh.
Ở Việt Nam khi bước vào công cuộc đổi mới vấn đề quan trọng được đặt ra giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị là phải có sự kết hợp ngay từ đầu lấy đổi mới kinh
tế là mục tiêu và trong từng giai đoạn của q trình đổi mới chính trị để hệ thống
chính trị thích ứng với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Đó cũng là q trình củng cố và phát triển hệ thống chính trị từ cơ sở
kinh tế của nó. Mục tiêu của đổi mới hệ thống chính trị là thực hiện đúng đắn nền

dân chủ xã hội chủ nghĩa phát huy đầy đủ quyền tự chủ của nhân dân.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả giáo dục. Ngày nay bên cạnh đổi mới công nghệ phải
chú trọng đến đổi mới giáo dục với phương châm: “Giáo dục những gì đất nước cần
chứ khơng phải những gì chúng ta có”. Mặt khác giáo dục tồn diện: giáo dục chính
trị, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đạo đức phải dùng nhiều hình thức giáo dục rèn
luyện tạo điều kiện để giáo dục tự giác, chủ động sáng tạo. Đầu tư cho giáo dục
được xem là đầu tư cơ bản, đầu tư tái sản xuất công việc, đầu tư cho tương lai
không phải ngẫu nhiên mà ở nhiều quốc gia trên thế giới trong kế hoạch phát triển
quốc gia các học giả này đều đặt giáo dục trong hệ thống ba chiến lược : khoa học,
giáo dục và cởi mở.
Có thể nói sự lạc hậu về giáo dục ngày nay sẽ phải trả giá ằng cả trái đất trong cuộc
chạy đua thế kỷ XXI mà thực chất là cuộc chạy đua trí tuệ và phát triển giáo dục
trong cuộc cách mạng khoa học công nghệ.
Thứ tư, mở rộng giao lưu quốc tế tạo điều kiện cho dân tộc Việt Nam sáng tạo tránh
sai lầm đưa đất nước tiến lên trên con đường tiến hóa của nhân loại địi hỏi phải có
mối quan hệ tổng hợp chặt chẽ giữa kinh nghiệm trong nước và quốc tế. Không chỉ
9


tìm kiếm những phương pháp hình thức để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước mình
dân tộc mình và các nước xã hội chủ nghĩa mà cả ở các nước tư bản chủ nghĩa. Sự
tiếp thu có chọn lọc và phê phán những giá trị phong phú của nhân loại sẽ là động
lực mạnh mẽ để từng bước hình thành một chủ thể mới của lịch sử nhân loại Việt
Nam vừa là giai cấp công nhân vừa là tiêu biểu cho sự phát triển của dân tộc. Và
rúng động rằng “thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ nhân dân ta tiếp tục giành những thắng lợi
to lớn hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc đưa
đất nước ta tiến gần hơn với các nước phát triển trên thế giới”.

KẾT LUẬN
Trong cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại ngày nay, con người đã bắt

đầu khẳng định rằng phát triển con người là nhân tố quyết định mọi sự phát triển.
Trong phát triển con người đặc biệt coi trọng vai trị của trí tuệ, đi kèm với đó là vai
trị của giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực.
Công cuộc chấn hưng đất nước phải lấy con người làm yếu tố quyết định, từ đó
nâng cao dân trí, chuẩn bị nguồn nhân lực có đủ trí tuệ và nghị lực, kỹ năng và công
nghệ, cũng như ý thức và tâm hồn dân tộc sâu sắc bản sắc, khoa học và ý chí, để
thực hiện q trình chuyển đổi từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp xã
hội chủ nghĩa. Những chiến công vĩ đại của dân tộc đi vào lịch sử nằm trong phân
tích cuối cùng là những chiến cơng của chính dân tộc Việt Nam. Bài học này vẫn
còn nguyên giá trị cho đến ngày nay. Với chiến lược giáo dục và đào tạo đúng đắn,

10


khoa học của Đảng, bằng trí tuệ và phẩm chất của con người Việt Nam, chúng ta sẽ
tiến lên thành cơng sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Minh Hạc, nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào cơng nghiệp
hố, hiện đại hố, Nxb Chính trị quốc gia, 2001.
2. Nghiêm Đình Vỳ (chủ biên), Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài, Nxb Chính
trị quốc gia, 2002.
3. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc, Nxb Chính trị
quốc gia, 2001.
4. Ngơ Đình Giao (chủ biên), Suy nghĩ về cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở nước ta,
Nxb Chính trị quốc gia, 1996.
5. Nguồn chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001- 2010, Khoa giáo Trung ương,
Hà Nội, 2000.
11



6. Dự thảo tầm nhìn Việt Nam 2020, Bộ khoa học công nghệ và môi trường, 2001.
7. Phạm Minh Hạc, Tổng kết mười năm (1990 - 2000) xoá mù chữ và phổ cập giáo
dục tiểu học, Nxb Chính trị quốc gia, 2000.

12



×