Lời mở đầu
Trong những năm qua, dệt may luôn đợc coi là một trong những ngành
xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, giá trị xuất khẩu mà nó mang lại tăng liên tục
trong khoảng 20 - 25%/năm, chiếm 14 - 15% kim ngạch xuất khẩu, tạo công ăn
việc làm cho hơn 2 triệu lao động, kim ngạch xuất khẩu luôn đứng vị trí thứ hai
sau dầu thô và dự kiến sẽ đạt 5,183 tỷ USD vào năm 2005. Cùng với thời gian,
sản phẩm dệt may Việt Nam đã dần khẳng định đợc vị trí của mình, đã thâm
nhập đợc vào nhiều thị trờng trên thế giới kể cả những thị trờng khó tính nhất
nh EU, Mỹ, Nhật Bản, .Chính từ những kết quả kinh tế - xã hội to lớn mà
ngành dệt may xuất khẩu mang lại cho đất nớc mà việc nghiên cứu, phân tích để
nắm rõ và hiểu một cách cặn kẽ thực trạng trong hoạt động xuất khẩu cũng nh
điểm mạnh, điểm yếu của ngành trở thành một yêu cầu hết sức cần thiết trong
việc đề ra các chính sách, giải pháp đúng đắn, phù hợp nhằm đa hoạt động xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam lên những tầm cao mới trong tơng lai, đặc biệt kể
từ khi chế độ chế độ hạn ngạch đợc xoá bỏ dành cho các nớc thành viên của
WTO.
Xuất phát từ yêu cầu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: Xuất khẩu hàng
dệt may Việt Nam trớc động thái mới của thơng mại quốc tế cho khoá luận
tốt nghiệp. Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, kết cấu của khoá luận
gồm 2 phần:
Phần 1: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trớc khi xoá bỏ hạn
ngạch.
Phần 2: Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trớc động thái mới của thơng mại
quốc tế.
1
Phần 1 : Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may
Việt Nam trớc khi xoá bỏ hạn ngạch
1.1. Tổng quan về ngành dệt may Việt Nam
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngành dệt may Việt Nam
Ngành công nghiệp dệt may là ngành có truyền thống lâu đời đối với
cuộc sống của nhân dân ta. Nó không chỉ có vai trò quan trọng thoả mãn nhu
cầu trong nớc mà còn tham gia xuất khẩu thu ngoại tệ để trang trải các nhu cầu
nhập khẩu trong nớc. Ngành dệt may luôn là một trong các ngành kinh tế quan
trọng của đất nớc và đợc nhà nớc khuyến khích phát triển.
Ngành dệt may của nớc ta ra đời từ những năm 1958 ở miền Bắc và
những năm 1970 ở miền Nam. Cho tới năm 1975 sau khi đất nớc hoàn toàn
thống nhất, ngành dệt may nớc ta có điều kiện phát triển và khẳng định mình.
Các nhà máy dệt đợc hình thành ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam thu hút hàng
ngàn lao động. Trong suốt thời gian dài các nhà máy gặp nhiều khó khăn trong
sản xuất hàng phục vụ thị trờng nội địa do máy móc thiết bị còn lạc hậu, trình
độ sản xuất và quản lý còn hạn chế. Cho đến những năm 1975, ngành dệt may
Việt Nam đã hợp tác với Liên Xô và các nớc Đông Âu, đã có hàng xuất khẩu
sang các nớc này nhng chủ yếu là hàng gia công, hàng bảo hộ lao động với
nguyên liệu, thiết bị do họ cung cấp.
Từ nửa cuối năm 1990, nh một hệ quả tất yếu của những biến động chính
trị, các thị trờng Liên Xô cũ và Đông Âu tan rã nhanh chóng. Cuộc khủng hoảng
nghiêm trọng sâu sắc về nhiều mặt của hệ thống XHCN Đông Âu và việc giải
thể Hội đồng tơng trợ kinh tế đã đặt hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trớc
những khó khăn chồng chất, nan giải nhất là không có thị trờng tiêu thụ sản
phẩm. Trong hoàn cảnh đó, ngành dệt may một mặt khôi phục lại vị trí của mình
trên thị trờng truyền thống, mặt khác phải tìm cách thâm nhập các thị trờng mới,
2
đặc biệt là thị trờng các nớc công nghiệp phát triển. Thị trờng các nớc phát triển
với yêu cầu cao về chất lợng, mẫu mã, thời gian giao hàng, .gây nhiều bỡ ngỡ
cho doanh nghiệp dệt may Việt Nam từ lâu đã quen với cách làm ăn của thị tr-
ờng các nớc anh em dễ tính.
Tuy nhiên, sang năm 1992 đợc sự phối hợp và hỗ trợ tích cực của các cơ
quan quản lý nhà nớc ở cấp vĩ mô cùng những kết quả thu đợc của công cuộc
đổi mới, cơ chế quản lý kinh tế đang đi vào chiều sâu với những thắng lợi trong
quan hệ đối ngoại, chính sách mở cửa của ngành dệt may xuất khẩu đã từng bớc
phục hồi và phát triển. Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và cộng
đồng châu Âu đợc ký kết vào ngày 15/12/1992 đã mở ra cho ngành dệt may
Việt Nam một thị trờng tiêu thụ rộng lớn.
Ngành dệt may Việt Nam cũng đã đẩy mạnh xuất khẩu theo hình thức gia
công hoặc phơng thức thuơng mại thông thờng với một số nớc có nền công
nghiệp phát triển nh Nhật Bản, Canada, các nớc công nghiệp mới nh Đài Loan,
Hồng Kông, Singapore. Và gần đây sau khi Mỹ bỏ cấm vận và bình thờng hoá
quan hệ với Việt Nam, hàng dệt may Việt Nam có thêm thị trờng Mỹ.
Trong những năm gần đây ngành dệt may Việt Nam đã phát triển quy mô
sản xuất một cách nhanh chóng. Hàng loạt công ty, doanh nghiệp ra đời thu hút
hàng vạn lao động, sản lợng dệt may sản xuất tăng nhanh cùng với việc không
ngừng nâng cao chất lợng sản phẩm. Đặc biệt, một bớc đánh dấu quan trọng
trong lịch sử ngành dệt may Việt Nam là ngày 29/4/1995, chính phủ Việt Nam
đã ký quyết định thành lập Tổng công ty dệt may Việt Nam có tên giao dịch
quốc tế là Vietnam National Textile And Corporation, viết tắt là Vinatex.
Vinatex là sự hợp nhất của Tổng công ty dệt Việt Nam và Liên hiệp các xí
nghiệp sản xuất - xuất nhập khẩu may mặc. Sự tổng hợp này nhằm tạo sức mạnh
tổng hợp, tạo thế và lực để thúc đẩy sản xuất kinh doanh hàng dệt may phát
triển. Hiện nay, Việt Nam có trên 1050 doanh nghiệp dệt may với hơn 5000 cơ
sở sản xuất đang hoạt động, trong đó có 231 doanh nghiệp nhà nớc chiếm 28%,
3
449 doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 32%, 354 doanh nghiệp có vốn đầu
t nớc ngoài chiếm 30%, ..(tính đến năm 2003). Kim ngạch xuất khẩu cả năm
của các đơn vị này đạt 3,6 tỷ USD, tăng gần 31% so với năm 2002 (2751 triệu
USD). Trong đó, thị trờng Mỹ đạt 1950 triệu USD, EU 600 triệu USD và Nhật
Bản gần 500 triệu USD. Đây đợc coi là những dấu hiệu tốt cho thấy dệt may
Việt Nam đã có khả năng phát triển mạnh mẽ.
1.1.2. Tiềm năng và lợi thế về sản xuất, xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam
1.1.2.1. Lợi thế về nguồn nhân lực
Nớc ta là một nớc có dân số đông, lực lợng lao động dồi dào. Tính đến
ngày 1/4/1999, dân số cả nớc là 76,327,900 ngời, trong đó số ngời trong độ tuổi
lao động là 43,8 triệu ngời . Đến thời điểm hiện nay, dân số nớc ta ở vào khoảng
82 triệu ngời, đứng thứ hai trong các nớc ASEAN, chỉ sau Indonesia. Hàng năm
ở Việt Nam có khoảng 1,5 đến 1,7 triệu thanh niên bớc vào độ tuổi lao động, tạo
thành đội ngũ dự bị hùng hậu bổ sung vào lực lợng lao động vốn đã rất đông.
Thêm vào đó, quá trình đô thị hoá tạo ra sự chuyển dịch lao động từ nông thôn
ra thành thị, số lao động ngày càng gia tăng.
Lực lợng lao động đông đảo chính là điều kiện cần để công nghiệp dệt
may phát triển thuận lợi. Đây là một lợi thế lớn bởi ở những bớc tiến ban đầu
của ngành dệt may, lực lợng lao động Việt Nam sẽ luôn đủ khả năng đáp ứng
những yêu cầu của ngành về lao động. Bên cạnh đó, khả năng giảm bớt sức ép
về việc làm cũng giúp ngành nhận đợc những quan tâm, khích lệ từ phía chính
phủ, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển của ngành.
Bên cạnh sự dồi dào về lao động, phải kể đến chất lợng của nguồn lao
động. Trong những năm gần đây, trình độ học vấn của ngời dân Việt Nam nói
chung đã tăng lên đáng kể, trình độ chuyên môn, trình độ tay nghề của ngời lao
động cũng đợc cải thiện nhiều. Tuy nhiên, số lao động lành nghề của nớc ta vẫn
còn ít, cha đủ để đáp ứng cho một số ngành công nghiệp kỹ thuật cao (nh công
4
nghiệp lắp ráp, công nghiệp điện tử). Những ngành này vẫn phải tốn nhiều chi
phí cho đào tạo công nhân, gây tổn thất về thời gian và tiền bạc. Song, với ngành
dệt may, nhu cầu về lao động kỹ thuật cao không lớn bởi đặc thù của ngành là
sử dụng nhiều lao động giản đơn, đặc biệt là ngành may. Trình độ tay nghề của
công nhân cũng là cần thiết để nâng cao năng suất lao động, nhng đó không
phải là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại của ngành. Do vậy chúng ta có thể
khẳng định: mặc dù chất lợng lao động Việt Nam cha cao, sự dồi dào về số lợng
lao động vẫn là một lợi thế trớc mắt cơ bản và quan trọng để phát triển công
nghiệp dệt may trong thời gian tới. Vấn đề là cần có chính sách sử dụng nguồn
nhân lực này một cách hợp lý và có hiệu quả, đồng thời cũng cần tổ chức các
hình thức giáo dục, đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của ngời
lao động. Ngoài ra nguồn nhân lực của nớc ta còn có lợi thế là tiền lơng tính
theo giờ thấp. Mức lơng công nhân ngành may hiện nay là 0,24 USD/giờ, thấp
hơn hẳn so với một số nớc trong khu vực nh: Inđônêsia (0,32 USD/giờ),
Singapore (1,13 USD/giờ, Thái Lan (1,18 USD/giờ). Cũng giống nh sự dồi dào
về lao động, mức lơng thấp chỉ là một lợi thế trớc mắt và không có tính bền
vững vì yếu tố chất lợng mới quyết định năng suất lao động. Nếu mức lơng thấp
nhng tay nghề lao động không đồng đều nhau hay quá kém thì cũng cho năng
suất lao động thấp, điều này cũng có nghĩa là chi phí sản xuất cao, dẫn đến giá
thành sản phẩm cao, khả năng cạnh tranh giảm.
Hiện nay, giá nhân công thấp đang là một lợi thế của toàn bộ nguồn lao
động Việt Nam nói chung và ngành dệt may nói riêng. Song trong thời gian tới,
lợi thế này sẽ mất dần đi nếu nh chúng ta không thực hiện các biện pháp nhằm
nâng cao năng suất lao động và trình độ tay nghề của công nhân để củng cố u
thế cạnh tranh. Chất lợng lao động, bao gồm cả trình độ tay nghề và sức khoẻ
của ngời lao động sẽ giúp tăng năng suất lao động, đồng thời nâng cao chất lợng
sản phẩm, nhờ đó hàng may Việt Nam mới giữ đợc chữ tín với khách hàng.
1.1.2.2. Lợi thế về điều kiện vị trí địa lý
5
- Về điều kiện tự nhiên:
Nớc ta là một nớc nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu nên có
thể tự túc nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp, trong đó có công nghiệp
dệt may. Ngành dệt may cần có nguyên liệu là bông, sợi để dệt vải. Việt Nam
lại có khí hậu nhiệt đới ẩm nên rất thuận lợi cho việc trồng dâu nuôi tằm, cung
cấp nguyên liệu để sản xuất nên những sản phẩm bằng lụa là sản phẩm đợc
khách hàng nớc ngoài rất a chuộng. Khí hậu và đất đai nớc ta cũng thích hợp
cho việc trồng bông, song nhiều diện tích trồng bông của nớc ta còn khiêm tốn
với tiềm năng chỉ đáp ứng đợc 10-15% nhu cầu. Hàng năm ngành lại phải nhập
khẩu trên 90% nguyên liệu sợi.
Nh vậy, vấn đề cần thiết hiện nay là phải xem xét lại nguồn cung cấp
nguyên liệu cho ngành làm sao tận dụng đợc mọi tiềm năng về mặt tự nhiên để
phục vụ cho việc sản xuất đạt hiệu quả cao nhất. Nếu tự cung cấp đợc nguyên
liệu thì sẽ giảm đợc giá thành rất nhiều so với nhập khẩu từ nớc ngoài vào.
Mặt khác, những ngành có liên quan đến công nghiệp dệt may, có thể hỗ
trợ cho ngành dệt may, nếu đợc sự quan tâm cũng có nhiều tiềm năng phát triển.
Ví dụ, các ngành hoá chất, nhuộm, du lịch. Đặc biệt ngành tạo mốt ở nớc ta tuy
mới xuất hiện và còn non yếu, nhng đã đợc quan tâm chú ý nh một lĩnh vực mới
đầy hấp dẫn.
- Vị trí địa lý:
Việt Nam nằm trong khu vực châu á Thái Bình Dơng, là khu vực mà các
hoạt động kinh tế diễn ra rất sôi nổi. Việc trao đổi hàng hoá, giao lu kinh tế giữa
các nớc trong khu vực với nhau và các nớc khác trên thế giới ngày càng nhiều.
Do đó, sản phẩm dệt may có rất nhiều cơ hội để thâm nhập vào thị trờng quốc
tế, mở rộng thị phần gia tăng kim ngạch xuất khẩu. Ngoài ra Việt Nam còn có
bờ biển dài hơn 3000 km giao thông đờng biển rất thuận lợi cho vận chuyển
hàng hoá cũng nh cho hoạt động du lịch, giao lu văn hoá, giao lu kinh tế với các
quốc gia khác.
6
Những đặc điểm về mặt tự nhiên đó cho phép Việt Nam có nhiều tiềm
năng và lợi thế để phát triển công nghiệp dệt may. Nhng trên thực tế chúng ta
vẫn cha tận dụng đợc triệt để những lợi thế tự nhiên này. Vì sao lại nh vậy? Có
rất nhiều nguyên nhân, nhng nguyên nhân cơ bản nhất là do sự phát triển không
đồng bộ của nền kinh tế. Ngay trong nội bộ ngành dệt may đã có sự mất cân đối
giữa ngành dệt và ngành may, ngành dệt đòi hỏi phải đầu t vốn lớn, công nghệ
tiên tiến, trình độ khoa học kỹ thuật cao hơn nên sẽ là quá khả năng nếu đầu t để
ngành dệt phát triển ngang bằng ngành may. Sự yếu kém của ngành dệt dẫn đến
hậu quả tất yếu là thiếu nguyên liệu cho ngành may, không khai thác đợc lợi thế
tự nhiên trong việc tự túc nguyên liệu. Ngoài ra cơ sở hạ tầng nớc ta còn rất yếu
kém, mà những vùng trồng cây công nghiệp, cây nguyên liệu lại thờng ở xa, gây
khó khăn cho quá trình vận chuyển. Cơ sở hạ tầng kém cũng cản trở sự phát
triển của du lịch, giao lu kinh tế bằng đờng bộ.
Giải quyết vấn đề này không phải là một việc đơn giản, không thể hoàn
tất trong một sớm một chiều vì nó còn phụ thuộc vào toàn bộ nền kinh tế nói
chung. Nhng nếu không đợc giải quyết sớm thì ngành dệt may lại mất đi một lợi
thế quan trọng. Trong thời điểm hiện nay, nớc ta đang từng bớc hội nhập với nền
kinh tế thế giới và phải đối mặt với một môi trờng cạnh tranh gay gắt. Nếu
chúng ta để mất lợi thế trong cạnh tranh thì có thể bị mất thị trờng. Do đó, đây
là một vấn đề quan trọng, đòi hỏi cần đợc quan tâm giải quyết kịp thời.
1.1.2.3. Ngành dệt may đã có truyền thống lâu đời tại Việt Nam
Lịch sử đã chứng minh Việt Nam là một trong những cái nôi của loài ngời
và nghề dệt vải đã xuất hiện ở Việt Nam từ hàng nghìn năm nay.Tuy nhiên,
nghề ơm tơ, dệt vải ở Việt Nam từ xa xa chỉ là việc làm tự phát để đáp ứng cho
nhu cầu thiết yếu nhất của cá nhân và gia đình. Các t liệu về lịch sử cho thấy
ngành dệt đã phôi thai hình thành từ thế kỷ thứ bảy ở vùng châu thổ sông Hồng.
Tại đây đã hình thành các vùng nuôi tằm nh Hng Yên, Thái Bình. Cây bông
cũng đợc trồng tại các vùng cao miền núi phía bắc Việt Nam và một số tỉnh nh
7
Ninh Thuận, Đồng Nai. Nguyên Phi ỷ Lan thời Lý Chính là ngời khởi xớng đa
nghề ơm tơ dệt vải trở thành nghề truyền thống của Việt Nam, tạo bớc mở cho
ngành dệt may phát triển mạnh mẽ sau này.
Chúng ta đã có những làng dệt nổi tiếng: Tích Sài, Bái Ân, Yên Thái,
Nghĩa Đô. Những làng dệt ven Hồ Tây này đã nổi tiếng ngay từ thời Lý, Trần.
Đến năm 1890, việc thực dân Pháp xây dựng nhà máy dệt Nam Định đã đánh
dấu sự phát triển của công nghiệp dệt tại Việt Nam.
Từ năm 1954, công nghiệp dệt may đã phát triển cao hơn, đặc biệt phát
triển mạnh mẽ ở miền nam với công nghệ máy móc khá hiện đại của châu Âu và
tại miền Bắc với công nghệ của Trung Quốc, Liên Xô, Đông Âu. Hoà bình lập
lại năm 1975, theo đờng lối đổi mới của Đảng, công nghiệp dệt may thời gian
này ngày càng phát triển và khẳng định vị trí quan trọng trong cơ cấu phát triển
các ngành công nghiệp của Việt Nam. Hiện nay các sản phẩm dệt may Việt
Nam đã vơn ra thị trờng nớc ngoài, trong đó có thị trờng của các nớc đã phát
triển nh Nhật Bản, EU, Mỹ và một số nớc khác trong khối SNG và Đông Âu.
Yếu tố truyền thống luôn là lợi thế lớn trong quá trình phát triển của công
nghiệp dệt may Việt Nam.
8
1.1.2.4.Xu hớng dịch chuyển ngành dệt may từ các nớc phát triển sang
các nớc đang phát triển, trong đó có Việt Nam
Công nghiệp may mặc đã hoàn thành vai trò lịch sử ở các nớc công
nghiệp phát triển. Với u điểm vốn ít, công nghệ đơn giản, thời gian thu hồi vốn
nhanh, ít rủi ro, ngành may mặc một thời là ngành kinh tế đợc các hãng sản xuất
ở các nớc công nghiệp coi trọng. Nhng, cùng với thay đổi về dân số và mức
sống, những ngành nghề có chi phí nhân công cao đã không còn vị trí trong
chiến lợc phát triển của các nhà đầu t. Bên cạnh đó, cuộc cách mạng khoa học
kỹ thuật đã làm thay đổi thế cân bằng của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực hoạt động
kinh tế. Một loạt ngành công nghiệp mới ra đời đang phát triển mạnh tại các nớc
công nghiệp hàng đầu. Và tất yếu đã diễn ra sự dịch chuyển có tính toàn cầu
những ngành sử dụng nhiều nhân công từ các nớc phát triển sang các nớc công
nghiệp mới và ngày nay tiếp tục chuyển sang các nớc đang phát triển. Và may
mặc là một trong những ngành đó.
Quá trình phát triển của ngành dệt may thế giới đồng thời cũng là quá
trình chuyển dịch của công nghiệp dệt may từ khu vực phát triển sang các khu
vực kém phát triển hơn do lợi thế so sánh. Điều này không có nghĩa là sản xuất
dệt may không còn tồn tại ở các nớc phát triển mà nó đã tiến đến một giai đoạn
cao hơn là sản xuất ra các sản phẩm có chất lợng và giá trị cao, chứa nhiều hàm
kợng trí tuệ, công nghiệp cao.
Công nghiệp dệt may bắt đầu tại Anh vào thế kỷ thứ 18 và tại đó đã diễn
ra sự chuyển dịch lần thứ nhất từ nớc Anh sang các nớc châu Âu. Sự chuyển
dịch lần thứ hai là từ châu Âu sang Nhật Bản vào những năm 1950 trong thời kì
hậu chiến thế giới lần thứ hai. Từ những năm 1960, khi chi phí sản xuất ở Nhật
tăng cao và thiếu thốn nguồn lao động, công nghiệp dệt may lại đợc dịch chuyển
lần thứ ba sang các nớc công nghiệp mới (NICS) ở châu á nh Hồng Kông, Đài
Loan, Hàn Quốc. Cho đến những năm 1980, khi các nớc Đông Nam á dần dần
9
chuyển sang sản xuất các mặt hàng có công nghệ kỹ thuật cao hơn nh ô tô, điện
lạnh, điện tử, thì lợi thế so sánh của ngành dệt may mất đi, song song với quá
trình đẩy mạnh đầu t ra nớc ngoài, các nớc NICS và các nớc phát triển đã buộc
phải dịch chuyển ngành này sang các nớc đang phát triển nh ASEAN, Trung
Quốc và các nớc Nam á.
Năm 1987, trong các nớc cung cấp hàng may lớn của thế giới đã có 3 nớc
của khu vực này, đó là Hồng Kông, Hàn Quốc và Đài Loan. Đến năm 2001, 8
trong 15 nớc và vùng lãnh thổ đứng đầu thế giới về cung cấp hàng may mặc
thuộc châu á là: Trung Quốc (36,5 tỷ USD), Hồng Kông (23,45 tỷ USD - kể cả
tái xuất khẩu), ấn Độ (6,03 tỷ USD), Bangladesh (5,11 tỷ USD), Inđônêsia (4,53
t USD), Trung Quc (4,31 t USD), Thái Lan (3,58 tỷ UĐS), và Đài Loan
(2,48tỷ USD).
Châu Âu, quê hơng của ngành công nghiệp may mặc, giờ đây đã ngừng
việc sản xuất trên quy mô lớn hàng phổ dụng để đi vào thiết kế hàng thời trang
cao cấp. Ngày nay trong danh mục các nớc hàng đầu về sản xuất hàng may mặc
xuất khẩu của thế giới không thấy bất kì tên một nớc công nghiệp phát triển nào
nữa, mặc dù sản phẩm mang tên các hãng lâu đời của họ lại chiếm tỷ trọng khá
lớn trên thị trờng thế giới. Việc đặt hàng may tại các nớc đang phát triển đã trở
thành phơng thức phổ biến. Nhờ đó, châu á đợc coi nh một trung tâm sản xuất
hàng may mặc xuất khẩu của thế giới.
Là nớc đi sau, Việt Nam có điều kiện thuận lợi trong việc kế thừa các
thành tựu của các nớc công nghiệp phát triển. Bởi vậy xu hớng dịch chuyển
ngành dệt may từ các nớc phát triển sang các nớc đang phát triển, nơi có u thế
cạnh tranh về nguồn lao động và giá nhân công đã và đang tạo cho Việt Nam
nhiều cơ hội phát triển công nghiệp dệt may.
Nh vậy quá trình dịch chuyển của ngành công nghiệp dệt may là tất yếu.
Do vậy, tận dụng đợc quá trình này là một lợi thế và điều kiện cơ bản phát triển
10
công nghiệp dệt may trong thời gian tới. Điều cần thiết là chúng ta phải thực
hiện các chính sách, biện pháp phù hợp, một mặt tiếp nhận nhanh chóng quá
trình dịch chuyển ngành từ các nớc, mặt khác phải tích cực đào tạo đội ngũ công
nhân lành nghề, đầu t khoa học công nghệ để sản xuất ra các sản phẩm có hàm
lợng trí tuệ cao, sản phẩm cao cấp nh trong giai đoạn phát triển cao của ngành
dệt may tại các nớc phát triển.
1.1.2.5. Sự phù hợp của ngành dệt may với nền kinh tế Việt Nam
Công nghiệp dệt may là ngành công nghiệp đòi hỏi vốn đầu t không lớn,
công nghiệp không quá phức tạp, khả năng thu hồi vốn nhanh, lao động của
ngành dệt may lại dễ đào tạo nên việc tổ chức sản xuất các doanh nghiệp dệt
may theo mô hình các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất phù hợp với điều kiện về địa
lý, kinh tế và xã hội của Việt Nam. Đây cũng chính là lợi thế cho ngành dệt may
Việt Nam phát triển trong thời gian tới.
1.1.3. Vị trí và vai trò của ngành dệt may trong nền kinh tế Việt Nam
Cùng với sự phát triển của đất nớc, ngành công nghiệp dệt may thời gian
qua đã có sự phát triển vợt bậc, giữ vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế ngành
nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Dệt may nằm trong số các mặt hàng đạt tốc độ tăng trởng xuất khẩu cao
là dầu thô, dệt may, hải sản, dầy dép, cao su, cà phê, hạt điều và chè; là mặt
hàng đạt kim ngạch xuất khẩu lớn thứ hai chỉ đứng sau dầu thô.
Giá trị sản lợng hàng hoá chiếm tỷ lệ trên 8% giá trị sản lợng trên toàn
ngành công nghiệp và chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nớc. Vì vậy dệt
may đã, đang và sẽ trở thành một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn có
đóng góp rất lớn vào sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nớc.
Ngay từ khi ra đời, ngành dệt may và sản phẩm của ngành vẫn giữ một vị
trí hết sức quan trọng trong đời sống xã hội, trong các nhu cầu cơ bản nhất của
con ngời về ăn - mặc - ở - đi lại, nh thế cũng đã thấy vai trò không thể thiếu đợc
của ngành. Hơn thế nữa, ngành dệt may còn thông qua giá trị kinh tế lớn bổ
11
sung vào tổng thu nhập quốc dân và ngân sách quốc gia hàng năm để nâng cao
đời sống kinh tế - xã hội về nhiều mặt. Những năm gần đây kim ngạch xuất
khẩu của ngành liên tục tăng và đứng trong nhóm những sản phẩm có đóng góp
ngoại tệ lớn nhất. Năm 2000, toàn ngành mang về cho nhà nớc 1892 triệu USD,
năm 2001: 2000 triệu USD, năm 2002: 2751 triệu USD, năm 2003: 3600 triệu
USD, năm 2004 ớc là 4319 triệu USD.
Đối với một nớc có dân số khoảng 80 triệu ngời, có nguồn lao động dồi
dào mà đặc trng của ngành dệt may là cần nhiều lao động nhng lại không phải
đào tạo quá công phu cầu kỳ và đòi hỏi yếu tố trí tuệ cao; mặt khác với nhu cầu
đòi hỏi về chất lợng mẫu mã sản phẩm cao nh hiện nay thì trình độ chuyên môn
hoá sản phẩm ngày càng đợc nâng cao đáp ứng nhu cầu xuất khẩu cần thiết có
những khâu, công đoạn sản xuất đòi hỏi trình độ chuyên môn và hàm lợng chất
xám cao, có những khâu lại chỉ đòi hỏi trình độ sản xuất nhất định, có những
công đoạn trong sản xuất dệt may chỉ toàn đòi hỏi làm bằng chân tay là chủ yếu
nhờ những đặc trng riêng của ngành may mặc. Điêù này có thể giúp giải quyết
đáng kể nhu cầu công ăn việc làm cho xã hội, đặc biệt là đối với lao động nữ.
Thông qua việc giải quyết công ăn việc làm cho ngời lao động, ngành dệt may
còn góp phần nâng cao chất lợng cuộc sống, ổn định đời sống nhân dân và ngăn
chặn hậu quả xã hội do nạn thất nghiệp gây ra. Theo dõi tăng trởng của sản xuất,
số lao động đợc sử dụng trong ngành cũng không ngừng tăng lên, ớc tính toàn
ngành hiện nay sử dụng khoảng trên 2 triệu lao động, chiếm trên 25% lao động
toàn quốc.
Hơn thế nữa là một ngành sản xuất mũi nhọn có mặt trên 100 nớc và vùng
lãnh thổ trên thế giới, chiếm trên 15% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nớc;
ngành dệt may không chỉ giữ vị trí nhất định tạo ra tích luỹ vốn trong quá trình
thực hiện đờng lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Đặc biệt là đối với
chiến lợc mở rộng thơng mại quốc tế và kinh tế đối ngoại - một chiến lợc đúng
đắn cho xu hớng Toàn cầu hoá - Quốc tế hoá đời sống kinh tế.
12
1.2. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may
1.2.1. Kim ngạch xuất khẩu
Cùng với sự phát triển của đất nớc, ngành công nghiệp dệt may thời gian
qua đã có sự phát triển vợt bậc, có vai trò quan trong trong công cuộc CNH -
HĐH đất nớc, có khối lợng sản phẩm và kim ngạch xuất khẩu lớn.
Thật vậy, trong 10 năm trở lại đây, ngành dệt may đã chứng tỏ là ngành
công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế, có những bớc tiến vợt bậc trong lĩnh
vực xuất khẩu với tốc độ tăng trởng bình quân 24,8%/năm, vơn lên đứng thứ hai
trong cả nớc về kim ngạch xuất khẩu sau dầu khí. Năm 2003, kim ngạch xuất
khẩu đạt 3600 triệu USD gấp 6,5 lần so với năm 1994, năm 2004 kim ngạch
xuất khẩu ớc đạt 4319 triệu USD gấp 7,8 lần so với năm 1994. Trong đó kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2004 xấp xỉ 1,2 lần và tăng 19,9 lần so với
năm 2003.
Năm 2004, hàng dệt may Việt Nam đã xuất khẩu sang khoảng 174 thị tr-
ờng, trong đó nhiều nhất là Mỹ (trên 2 tỷ USD), EU (0,9 tỷ USD), Nhật Bản
(0,55 tỷ USD), các thị trờng khác (0,6 tỷ USD). Theo hiệp hội dệt may Việt
Nam (VITAS) dự kiến kim ngạch xuất khẩu dệt may sang Mỹ trong năm 2005
sẽ là 2,7 - 2,75 tỷ USD, tơng đơng năm 2004.
Dự tính mục tiêu xuất khẩu mặt hàng này năm 2005 sẽ là 5183 triệu USD.
13
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu của nớc ta từ năm 1994 trở lại đây:
Đơn vị : triệu USD
Nguồn : Tổng cục thống kê, Bộ thơng mại, Tổng công ty VINATEX
1.2.2.Mặt hàng xuất khẩu
Với năng lực sản xuất hiện nay, Việt Nam có thể sản xuất hàng trăm mặt
hàng từ lụa, vải bạt, đến quần áo dệt kim, quần áo may sẵn, thảm len, thảm đay,
bít tất, khăn bông, Tuy nhiên, năng lực sản xuất và khả năng tiêu thụ của ta
đối với mỗi mặt hàng này là khác nhau. Mặt hàng, chủng loại nào sản xuất
nhiều hay ít còn phụ thuộc vào mặt hàng, chủng loại đó có đợc thị trờng đón
nhận hay không.
Trong giai đoạn 1996 - 2000 và những năm đầu giai đoạn 2001 - 2005,
ngành dệt may Việt Nam đã có những tiến bộ vợt bậc trong lĩnh vực xuất khẩu
với tốc độ tăng trởng bình quân 20,86%/năm, vơn lên đứng thứ hai về kim ngạch
sau ngành dầu khí.
Năm Kim ngạch
1994 550
1995 750
1996 1150
1997 1320
1998 1450
1999 1740
2000 1892
2001 2000
2002 2752
2003 3600
Ước 2004 4319
Kế hoạch 2005 5183
14
Một số sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của ngành giữ đợc mức tăng trởng
khá. Đó là các loại vải lụa, bít tất, sợi và quần áo may sẵn. Riêng quần áo măy
sẵn có tốc độ tăng khá cao: năm 1995 là 845 triệu USD, thì năm 1999 là 1.484
triệu USD và năm 2003 đã là 3.085 triệu USD và chiếm gần 85% tổng kim
ngạch xuất khẩu của toàn ngành dệt may Việt Nam.
Hàng dệt:
Mặt hàng dệt kim rất đa dạng và đợc sử dụng rộng rãi trong nhiều trờng
hợp, song chúng ta mới chỉ quan tâm sản xuất các mặt hàng trên máy đan tròn,
phần lớn là áo Polo-Shirt, T-Shirt từ sợi cotton và PE/Co. Tuy chủng loại mặt
hàng còn hạn chế, song thời gian qua các mặt hàng dệt kim xuất khẩu đã đợc cải
tiến nhiều về mặt chất lợng. Mặt hàng xuất khẩu từ sợi PE/Co chiếm 75-80%
hàng dệt kim có giá trị xuất khẩu thuộc nhóm giá thấp và trung bình (2,5-3,5
USD/sản phẩm), trong khi nhu cầu hàng chất lợng cao còn nhiều.
Các mặt hàng sử dụng sợi bông 100% đã khép kín đợc sản xuất từ nguyên
liệu đến hoàn tất. Các mặt hàng sợi đơn chải kỹ chỉ số cao phục vụ cho áo sơ mi
xuất khẩu (hàng đơn màu hay carô, sọc màu) nay đã sản xuất đợc. Nhiều mặt
hàng sợi dày đợc tăng cờng công nghệ làm bóng, phòng co cơ học nh kaki đã
xuất khẩu sang các thị trờng Châu Âu, Nhật. Mặt hàng Denim 19% sợi bông đã
đợc phục hồi với công nghệ đổi mới tại một số doanh nghiệp và đợc may xuất
khẩu cho thị tròng Châu Âu. Nếu nh trớc đây thời điểm cao nhất, Việt Nam chỉ
xuất đợc khoảng 3000 tấn khăn tắm sang Đông Âu thì tới nay đã đạt đợc 10
nghìn tấn, với đủ chủng loai khăn về kích thớc và kiểu mẫu.
Các mặt hàng dùng sợi tổng hợp 100%, nhờ đợc đầu t thêm thiết bị, trang
bị các hệ thống xe lăn sợi, thiết bị giảm trọng lợng, . tạo nên những hàng giả tơ
tằm và hàng giả len thích hợp với khí hậu nhiệt đới. Nhu cầu tiêu thụ loại
nguyên liệu này đến hàng chục tấn/ năm.
Mặc dù trong những năm vừa qua, các mặt hàng đã đợc phát triển và nâng
cao chất lợng một cách rõ rệt, mang lại những kết quả khả quan nhng tỷ lệ sản l-
15
ợng các mặt hàng có hiệu quả cha cao. Nhìn chung, do công nghệ còn thấp kém
nên chất lợng sản phẩm dệt của ta còn rất hạn chế. Điều này ảnh hởng đến khả
năng cạnh tranh trong nớc cũng nh xuất khẩu. Hàng dệt của Việt Nam cha đủ
khả năng cạnh tranh với các nớc trên thế giới, do đó Việt Nam mới xuất khẩu đ-
ợc vải thô, vải Cotton. Gần đây các xí nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài đã xuất đợc
vải tổng hợp, . tuy nhiên kim ngạch còn thấp.
Ba sản phẩm chủ yếu của ngành dệt là sợi, vải luạ và vải bạt đều có mức
tăng tơng đối mạnh (sợi: 108%; vải lụa: 117%). Tuy nhiên do công nghệ thấp
kém nên chất lợng còn rất hạn chế, đồng thời làm cho khả năng hạ thấp giá
thành là rất yếu. Điều này ảnh hởng nhiều đến khả năng cạnh tranh trong nớc
cũng nh trong xuất khẩu. Năm 2003, sản phẩm dệt may của nớc ta cũng đã đợc
xuất khẩu sang một số nớc. Công ty may Thắng lợi xuất khẩu 100 nghìn mét vải
thành phẩm sang Mỹ, dự kiến năm 2004, công ty xuất khẩu 3 - 4 triệu mét vải
thành phẩm sang Mỹ và EU.
Nhiều nguyên phụ liệu cho ngành dệt nh bông, sợi Visco, PE, và các
hoá chất, thuốc nhuộm đều phải nhập khẩu. Hàng năm, lợng bông trong nớc chỉ
đáp ứng đợc 10 - 20% nhu cầu của ngành dệt. Riêng vải, hàng năm phải nhập
khẩu từ 300 đến 400 triệu mét. Thêm vào đó còn thiếu những mặt hàng dệt kim
thể thao hay vải Jean, thun nguyên liệu sợi đàn tính cao. Các mặt hàng Jacket
mật độ sử dụng sợi kéo từ Microfiber còn quá ít. Các nguyên liệu sợi tổng hợp
biến tính, acrylic pha len để sản xuất mặt hàng complet chúng ta cha có.
Hàng may mặc:
Do ngành dệt còn cha phát triển, nên ngành may Việt Nam chủ yếu là gia
công cho nớc ngoài (khoảng 80% kim ngạch xuất khẩu). Tuy còn nhiều hạn chế
về mẫu mã kiểu dáng, song phải thừa nhận rằng nhiều công ty may trong nớc
hiện nay đã có những cố gắng đáng kể để sản phẩm của họ đợc thị rrờng may
mặc trong và ngoài nớc biết đến.
16
Tuy mặt hàng quần áo dệt kim có mức tăng chậm và đôi khi còn giảm do
sự trì trệ của ngành dệt, song quần áo may sẵn lại có mức tăng nhanh trong
những năm gần đây. Ví nh sản xuất năm 1996 là 207 triệu chiếc, năm 2000 là
337 triệu chiếc,.... thì năm 2003 đã là 618 triệu chiếc. Điêù này cho thấy sự
năng động và tiến bộ của các doanh nghiệp may trong nớc của ta.
Trên thị trờng nớc ngoài ngành dệt may Việt Nam đang có thế mạnh và
xuất khẩu chủ yếu các mặt hàng: áo sơ mi, quần dài, quần soóc, áo Jacket, áo
khoác, quần áo trẻ em, .
Theo số liệu thống kê, xuất khẩu áo jacket của cả nớc năm 2003 đạt trên
472 triệu USD, tăng 19,8% so với năm 2002 (khoảng trên 48 triệu chiếc) và là
mặt hàng đat kim ngạch xuất khẩu lớn thứ ba sau áo thun và quần. Trong đó, thị
trờng xuất khẩu lớn nhất là Mỹ đạt trên 26,89 triệu chiếc với kim ngạch gần 237
triệu USD. Tiếp theo là EU đạt 171,6 triệu USD, với số lợng 12,31 triệu chiếc.
Còn đối với mặt hàng áo khoác, kim ngạch xuất khẩu ớc đạt 124,4 triệu
USD, với số lợng khoảng 14,33 triệu chiếc, tăng 69,76% về trị giá so với năm
2002. Trong đó, xuất khẩu sang Mỹ đạt cao nhất (57 triệu USD), sau đó là Nhật
Bản (18 triệu USD), Đài Loan (3,65 triệu USD), .
17
Bảng 2: Các mặt hàng may mặc xuất khẩu có thế mạnh:
Thứ tự Chủng loại (cat) Mặt hàng
1 4 Sơ mi, sơ mi ngắn tay bằng vải dệt kim
2 5
áo đan, áo cổ lọ
3 6 Quần dài, quần soóc dệt kim
4 7
áo blu, áo blu ngắn tay
5 8
áo sơ mi dệt kim
6 12 Tất nữ, tất mỏng dài, bít tất
7 13 Quần áo lót nam nữ bằng vải dệt kim
8 18
áo gilê, áo ngủ, pizama
9 21
áo jacket
10 24
aó ngủ, pizama bằng dệt kim
Nguồn: Tổng công ty dệt may Việt Nam
Gần đây, sản phẩm may mặc của ta đã đa dạng và phong phú hơn trớc,
chất lợng sản phẩm cũng tăng đáng kể. Nhờ đầu t khá mạnh vào máy móc công
nghệ phục vụ ngành may nên sản phẩm ngành may đã có sức cạnh tranh trên thị
trờng. Hàng may mặc của ta không chỉ vào đợc thị trờng EU, Mỹ mà còn đáp
ứng đợc cả thị trờng khó tính nh Nhật Bản. Điều đó chứng tỏ sự phát triển tơng
đối nhanh của ngành may và chất lợng sản phẩm may mặc.
Tuy nhiên, sản phẩm may mặc của ta xuất sang các nớc chủ yếu là xuất
khẩu theo phơng thức gia công, nhận nguyên liệu, mẫu mã và trao thành phẩm.
Chính vì vậy, giá cả sản phẩm may mặc của Việt Nam là thấp, lợi nhuận đạt đợc
cũng thấp hơn so với quốc gia khác. Do thực hiện phơng thức xuất khẩu này,
ngành dệt may Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào phía nớc ngoài, lại không sử
dụng nguyên liệu trong nớc, nên về giá cả ta cũng phải chịu nhiều thiệt thòi.
Dù gặp nhiều khó khăn song ngành may Việt Nam vẫn chứng tỏ đợc sự
năng động và những tiến bộ của mình. Để hớng vào các thị trờng có yêu cầu cao
18
thì ngành dệt may của chúng ta còn phải tiếp tục đầu t nhiều hơn nữa để cải tiến
chất lợng và mẫu mã sản phẩm.
1.2.3. Thị trờng xuất khẩu chủ yếu
a) Thị trờng Mỹ:
Mỹ là thị trờng rộng lớn và đầy tiềm năng, với dân số chiếm gần 5% dân
số thế giới. Bởi vì sự đa dạng về nhu cầu và khả năng thanh toán đã biến Mỹ
thành thị trờng tiêu thụ khổng lồ hàng hoá nói chung và hàng dệt may nói riêng.
Từ nhiều năm nay, trên thị trờng các loại quần áo do Việt Nam sản xuất,
nhng hầu hết các mặt hàng này đều đợc xuất khẩu thông qua các doanh nghiệp
nớc ngoài. Việc Mỹ huỷ bỏ cấm vận đối với Việt Nam đã tạo điều kiện cho hàng
Việt Nam thâm nhập vào thị trờng này.
Hàng dệt may của ta xuất vào thị trờng Mỹ bao gồm các chủng loại nh: sơ
mi nam, quần âu, cà vặt, áo jacket, đồng thời giá trị xuất khẩu mặt hàng này
tăng lên hàng năm.
19
Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trờng Mỹ
(1996-2005)
Đơn vị: triệu USD
Năm Kim ngạch
1996 9,1
1997 12
1998 26
1999 34
2000 49,5
2001 49
2002 976
2003 2480
2004 2700
Dự kiến 2005 2750
Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam
Nh vậy, giai đoạn 1996 - 2001, hàng dệt may Việt Nam xuất sang thị tr-
ờng Mỹ cha đáng kể. Nhng đến năm 2002, với sự mở đờng của hiệp định thơng
mại Việt Mỹ (BTA) hàng dệt may vào Mỹ đã tăng đột biến từ 49 triệu USD năm
2001 lên 976 triệu USD năm 2002. Và năm 2003, mặc dù bắt đầu bị áp đặt hạn
ngạch nhng kim ngạch xuất khẩu của ngành vẫn tăng đạt 2,48 tỷ USD về giá trị
và tăng 131,07% về lợng so với năm 2002 và trở thành thị trờng cung cấp hàng
dệt may lớn thứ bảy vào thị trờng Mỹ (tính theo kim ngạch).
Có thể thấy chỉ sau 2 năm Hiệp định thơng mại Việt - Mỹ đi vào thực
hiện, xuất khẩu hàng hoá nói chung và hàng dệt may nói riêng của ta sang Mỹ
tăng lên đáng kể. Hiện Mỹ là thị trờng xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất của ta
trong năm 2003 chiếm tới 54% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả
nớc. Điều đáng chú ý là mặc dù bị Mỹ áp dụng hạn ngạch năm 2003, có lúc có
nơi một số doanh nghiệp gặp khó khăn do bị thiếu hạn ngạch hoặc không có hạn
20
ngạch để sản xuất nhng cuối cùng chúng ta cũng đã vợt qua đợc khó khăn này
và để đạt đợc kết quả trên là một cố gắng rất lớn.
Năm 2004, thị phần hàng dệt may Việt Nam vẫn tăng đáng kể, Việt Nam
đã trở thành nớc xuất khẩu lớn thứ năm vào Mỹ về quần áo, chiếm khoảng 4,2%
tổng trị giá nhập khẩu nhóm hàng này trong tháng 11/2004. Và chỉ trong 10
tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của ta vào Mỹ đã đạt 2,106
tỷ USD, tăng 22,16% so với cùng kì năm 2003. Trong đó Cat 338/339 (áo sơ mi
nam nữ dệt kim chất liệu bông) đạt gần 586 triệu USD, tiếp đến là Cat 347/348
(quần nam nữ chất liệu bông) đạt gần 406 triệu USD.
Đây là dấu hiệu đáng mừng, là cơ sở để kì vọng vào một kết quả tốt hơn
trong những năm sau. Mặc dù bắt đầu từ 1/1/2005 hạn ngạch dệt may đợc xoá
bỏ hoàn toàn cho các nớc thành viên WTO, trong khi xuất khẩu hàng dệt may
của nớc ta sang thị trờng Mỹ vẫn chịu hạn ngạch. Đây là một thách thức lớn đối
với xuất khẩu dệt may Việt Nam. Vì khi không còn hạn ngạch, mặt bằng giá
nhập khẩu của hàng dệt may nói chung vào Mỹ có thể giảm tới 30%. Nh vậy
Việt Nam phải cạnh tranh khốc liệt với các nớc bạn, đặc biệt là Trung Quốc.
Tuy nhiên, hiện nay với chất lợng may tốt, giao hàng đúng thời hạn, xuất
khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ đang thu hút đợc sự chú ý của các
nhà nhập khẩu Mỹ. Theo Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS), đơn giá xuất
khẩu hàng dệt may sang Mỹ ngày càng cao, các khách hàng lớn đã chọn Việt
Nam là khách hàng chiến lợc. Ta hoàn toàn có thể dự tính kim ngạch xuất khẩu
nhóm hàng này sang Mỹ trong năm 2005 sẽ là 2,7 - 2,75 tỷ USD tơng đơng năm
2004.
b) Thị trờng EU:
Bên cạnh thị trờng Mỹ, trong năm 2004, xuất khẩu hàng dệt may của ta
cũng đã duy trì tốt đợc thị trờng truyền thống quan trọng là EU. Đây cũng là
một trong những thị trờng xuất khẩu hàng dệt may lớn và quan trọng của ta. Một
hai năm trở lại đây, do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan xuất khẩu hàng dệt
21
may nớc ta sang thị trờng này có chiều hớng giảm sút. Năm 2002 kim ngạch
xuất khẩu đạt gần 552 tiệu USD, giảm 9,16% so với năm 2001. Còn năm 2003,
kim ngạch xuất khẩu đạt 542 triệu USD, giảm 1,76% so với năm 2002.
Bảng 4: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trờng EU
(1996-2003)
Đơn vị: Triệu USD
Năm
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
Kim
ngạch
225 410 521 555 609 599 552 542
Nguồn: Hiệp hội dệt may Việt Nam
Ta thấy, kim ngạch xuất khẩu vào thị trờng EU của ngành bắt đầu giảm từ
năm 2001. Nguyên nhân có thể là do EU điều chỉnh hạn ngạch, kinh tế các nớc
khu vực bị rơi vào khủng hoảng, đồng Euro mất giá, hàng dệt may của ta phải
cạnh tranh hết sức gay gắt với hàng của Trung Quốc, ấn Độ, Pakistan, .sau khi
EU bãi bỏ hạn ngạch đối với một số mặt hàng nhập khẩu từ các nớc này.
So sánh với truớc đây, giai đoạn năm 1996 - 1997, tốc độ tăng trởng xuất
khẩu hàng dệt may đạt hơn 23% sau khi Việt Nam ký kết Hiệp định hàng dệt
may với EU (năm 1992). Giai đoạn 1998 - 2000, hạn ngạch đã tăng thêm 40%
so với giai đoạn trớc và thoả thuận sơ bộ cho giai đoạn 2003 - 2005 có mức tăng
từ 50% - 70% tuỳ theo nhóm hàng.
Về thị trờng, trong khi xuất khẩu sang một số thị trờng chủ chốt nh Đức,
Anh liên tục giảm thì xuất khẩu sang một số thị trờng nh Pháp, Hà Lan bắt đầu
22
có dấu hiệu phục hồi trở lại. Đáng chú ý, xuất khẩu sang Italia, Bỉ, Thụy Điển
đạt mức tăng trởng rất cao.
Bảng 5: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang các nớc thuộc EU
năm 2003.
STT Tên nớc Trị giá xuất khẩu (USD) So với năm 2002 (%)
1 Đức 183.440.946 -10,23
2 Anh 73.489.359 -2,36
3 Pháp 73.111.604 4,15
4 Tây Ban Nha 51.486.369 6,62
5 Hà Lan 47.015.476 2,46
6 Italia 44.220.226 4.95
23
7 Bỉ 32.850.547 17.91
8 Thụy Điển 12.935,141 22,64
9 Đan Mạch 9.468.370 -14,72
10
áo
4.687.163 26,73
11 Hy Lạp 4.251.624 -20,71
12 Phần Lan 2.400.448 -2,70
13 Ai Len 1.931.149 -49,73
14 Bồ Đào Nha 923.232 -1,09
Nguồn: Bộ Thơng mại
Hiện nay xuất khẩu hàng dệt may của ta sang EU đang tơng đối thuận lợi
nhờ EU mới tăng hạn ngạch, kinh tế EU bắt đầu phục hồi và tăng trởng khá
vững chắc trở lại, đồng Euro tăng giá mạnh so với USD. Trong năm 2003, đồng
Euro đã tăng giá tới 27%, còn trong năm 2004 đồng Euro vẫn duy trì ở mức cao
và tăng lên mức 1,3 - 1,5 USD/Euro. Theo Ngân hàng thế giới (WB), tăng trởng
GDP của khu vực các nớc sử dụng đồng Euro trong năm 2003 là 0,7%, còn
trong năm 2004 đạt 1,7%, mức cao nhất kể từ năm 2001 đến nay.
Đặc biệt kể từ ngày 1/5/2004, EU kết nạp thêm 10 nớc thành viên mới
(Ba Lan, Hungary, Cộng hoà séc, Cộng hoà Slovakia, Latvia, Litva, Estonia, Sip,
Malta, Slovenia) với quy mô dân số hơn 451 triệu ngời, GDP-25 (theo PPP) năm
2001 là 9.902 tỷ USD, cao hơn Mỹ 9.792 tỷ USD cũng hứa hẹn một sức mua lớn
đầy tiềm năng cho hàng hoá xuất khẩu của ta nói chung và hàng dệt may nói
riêng.
Tuy nhiên, thách thức đối với xuất khẩu hàng dệt may sang EU sau năm
2005 là rất lớn do đợc xoá bỏ hạn ngạch, cạnh tranh sẽ rất gay gắt. Cho nên,
ngay từ bây giờ các doanh nghiệp cần tận dụng tối đa những thuận lợi trên để
khẳng định chỗ đứng vững chắc cho sản phẩm dệt may xuất khẩu của mình tại
thị trờng EU.
c. Thị trờng Nhật Bản:
24
Nhật Bản là thị trờng có khả năng tiêu thụ rất lớn về hàng may mặc. Hàng
năm Nhât nhập một khối lợng lớn hàng dệt may và trong suốt những năm đầu
thập kỷ 90, Nhật Bản luôn là nớc thứ 3 thế giới về nhập khẩu hàng dệt may.
Nhật Bản là thị trờng phi hạn ngạch, ngời tiêu dùng Nhật không quan tâm
đến xuất xứ hàng hoá mà đặc biệt chú trọng chất lợng mẫu mã sản phẩm. Yêu
cầu về chất lợng và mẫu mã của thị trờng Nhật Bản đối với hàng dệt may nhập
khẩu là rất cao. Chất lợng hàng dệt may Việt Nam trên thị trờng Nhật Bản ở mức
chấp nhận đợc, song để không bị loại bỏ khỏi thị trờng khó tính nh vậy và đạt
kim ngạch xuất khẩu cao hơn thì ngành dệt may Việt Nam còn phải cố gắng hơn
nữa về chất lợng.
Năm 2003 Việt Nam xuất khẩu sang Nhật khoảng 480 triệu USD trong
tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm dệt may 3,6 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam chiếm khoảng 26% thị phần hàng dệt may của Nhật Bản. So với
những năm trớc đó thì con số này đã bị giảm sút: năm 2000 kim ngạch xuất
khẩu dệt may của Việt Nam là 620 triệu USD và thị phần đạt khoảng 29%.
Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sang thị trờng Nhật Bản trong 10
tháng đầu năm 2004 đạt 432 triệu USD, tăng 7,89% so với cùng kỳ năm 2003.
Các sản phẩm dệt may xuất khẩu chủ lực của ta vẫn là đồ lót, áo kimono, áo
sơmi, quần, khăn bông, .
Bảng 6: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trờng Nhật Bản
(1996 - 2003)
Đơn vị: Triệu USD.
Năm
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
Kim
ngạch
248 325 321 417 620 588 490 481
Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam
25