1
NHỮNG NGUỒN LỰC NHÂN VĂN TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
(Phần 1)
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh
Đối với một vùng đất, bề dày lịch sử hình thành và phát triển là một nguồn lực
lớn giúp du lịch phát triển. Thực tiễn phát triển du lịch tại những thành phố, thị trấn cổ
trong nước và trên thế giới đã chứng minh nhận định này.
Hồ Chí Minh tuy là một thành phố còn khá trẻ so với nhiều thành phố trên thế
giới, xong với “tuổi đời” hơn 300 năm cùng những thăng trầm của lịnh sử dân tộc Việt Nam
trong quá trình mở cõi về phía Nam, quá trình dựng nước và giữ nước trước “nanh
vuốt” của những kẻ xâm lượt sừng sỏ thế giới thực sự đã tạo thành một bề dày lịch sử
mà không phải thành phố nào trên thế giới cũng có được. Điều đó góp phần tạo động
lực to lớn để du lịch của thành phố phát triển. Cụ thể:
1.1 Địa danh Sài Gòn
Địa danh Sài Gòn có lịch sử trên 300 năm. Khi mới ra đời, tên gọi ấy được
dùng để chỉ một khu vực với diện tích khoảng 1 km² có đông người Trung Quốc sinh
sống trong thế kỷ thứ 18. Theo các nhà nghiên cứu, khu vực đó có thể là gần khu vực
Chợ Lớn
[1]
ngày nay.
Theo Phủ Biên Tạp Lục
[2]
của Lê Quý Đôn viết năm 1776, năm 1674 Thống suất
Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh vào Cao Miên
[3]
và phá vỡ "Lũy Sài
Gòn"
[4]
. Có thể nói, đây là lần đầu tiên chữ "Sài Gòn" xuất hiện trong tài liệu Việt Nam.
Sau đó, danh xưng “Sài Gòn” được dùng để chỉ các khu vực nằm trong lũy Lão Cầm
[5]
,
lũy Hoa Phong
[6]
và lũy Bán Bích
[7]
với diện tích 5 km².
Ngày 11 tháng 4 năm 1861, sau khi chiếm được thành Gia Định, Phó Đô đốc
Léonard Charner
[8]
của Pháp ra nghị định xác định địa giới thành phố Sài Gòn
[9]
bao
gồm cả vùng Sài Gòn và Bến Nghé. Đến ngày 3 tháng 10 năm 1865, quyền thống đốc
Nam Kỳ, chuẩn đô đốc Pierre Roze
[10]
đã ký nghị định quy định lại diện tích của thành
phố Sài Gòn chỉ còn 3km
2
tại khu Bến Nghé cũ, đồng thời cũng quy định thành phố
Chợ Lơn
[11]
tại khu vực Sài Gòn cũ. Từ đó, tên gọi “Sài Gòn” chính thức dùng để chỉ
vùng đất Bến Nghé, và tên Chợ Lớn để chỉ vùng Sài Gòn cũ. Sau năm 1956, tên gọi
Sài Gòn
[12]
được dùng chung để chỉ cả 2 vùng đất này.
1.2 Lịch sử thiết lập hành chính
Vào thời kỳ cổ đại, khu vực Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay thuộc vương
quốc Phù Nam
[13]
.
Năm 1623, chúa Nguyễn
[12]
sai một phái bộ tới yêu cầu vua Chey Chettha II
[15]
cho lập đồn thu thuế tại Prei Nokor
[16]
và Kas Krobei
[17]
. Chẳng bao lâu, hai đồn thu
thuế trở thành trung tâm của khu thị tứ rất sầm uất.
Năm 1698, chúa Nguyễn cử Nguyễn Hữu Cảnh vào thiết lập chính quyền, các
đơn vị hành chánh, chia đặt tỉnh lỵ v.v… Nguyễn Hữu Cảnh lấy xứ Đồng Nai làm
huyện Phước Long và xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, đặt ra hai dinh Trấn Biên
(Biên Hoà) và Phiên Trấn (Gia Định)
[18]
cho quan vào cai trị. Từ đó, xứ Sài Gòn trở
thành huyện Tân Bình. Sài Gòn trở thành một thị trấn đông đúc với hơn một vạn dân
và là thủ phủ của dinh Phiên Trấn.
Năm 1790, chúa Nguyễn Ánh
[19]
cho đắp thành Gia Định
[20]
ở làng Tân Khai,
lập Gia Định Kinh làm nơi đóng đô để chống quân Tây Sơn. Đến năm 1802, Nguyễn
Ánh lên ngôi vua và đổi Gia Định Kinh thành Gia Định Trấn. Năm 1808, Nguyễn Ánh
cho thành lập thành Gia Định
[21]
.
2
Năm 1832, vua Minh Mạng bỏ Gia Định Thành, chia 5 trấn do Gia Định Thành
quản lý lại thành 6 tỉnh, gọi chung là Nam Kỳ Lục tỉnh.
Sau cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi
[22]
, thành Quy bị phá hủy. Một thành mới
nhỏ hơn gọi là thành Phụng
[23]
được xây dựng.
Sau khi chiếm Nam Kỳ, người Pháp xây dựng ở Sài Gòn một thành phố tao nhã
và sôi động được mệnh danh là "Hòn ngọc Viễn Đông" hay "Paris của Phương Đông".
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nơi đây được gọi là thành phố Sài Gòn-
Chợ Lớn. Năm 1948, sau khi tái chiếm Đông Dương, chính quyền Pháp tại Đông
Dương đã chia thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn thành 6 quận hành chính. Đến năm 1952,
tăng thành 7 quận hành chính.
Năm 1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm đã đổi tên “Khu Sài Gòn-Chợ Lớn” thành
“Đô thành Sài Gòn-Chợ Lớn”; đến năm 1956 đổi thành "Đô thành Sài Gòn" với 8 quận
quận hành chính. Vào thập niên 50-60 của thế kỷ xx, Sài Gòn tiếp tục phát triển rực rỡ và
vẫn giữ vững danh hiệu là "Hòn ngọc Viễn Đông"
[24]
hay "Paris Viễn Đông"
[25].
Tuy nhiên, do chiến cuộc leo thang từ giữa cuối thập niên 60, chính quyền Sài
Gòn cùng người Mỹ đã cho xây dựng ồ ạt các công trình phục vụ chiến tranh, phá vỡ
quy hoạch ban đầu. Đến năm 1975, khi Sài Gòn được giải phóng thì thành phố đã trở
nên hoang tàn.
Ngày 2/7/1976, Quốc hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa quyết định thay
đổi tên thành phố Sài Gòn thành thành phố Hồ Chí Minh cho đến ngày nay. Hiện nay,
tên cũ Sài Gòn vẫn được sử dụng khá phổ biến, đặc biệt trong các ngữ cảnh không chính
thức. Đối với người dân có gốc ở Sài Gòn lâu đời, và đặc biệt là cộng đồng người Việt
hải ngoại, Sài Gòn vẫn là cái tên mà họ yêu chuộng và dùng hàng ngày.
Hiện nay, thành phố Hồ Chí Minh có 24 quận huyện với khoảng hơn 8 triệu
dân. Đây là thành phố lớn và phát triển nhất của Việt Nam. Thu hút khoảng hơn 3 triệu
khách du lịch mỗi năm. Với lịch sử hình thành và phát triển rất đặc thù, với một bề dày
văn hóa độc đáo, Sài Gòn xưa, thành phố Hồ Chí Minh nay đã trở thành nguồn cảm
hứng cho biết bao nhạc sỹ, họa sỹ, đạo diễn phim…
Tóm lại: Bề dày lịch sử, quá trình hình thành và phát triển của thành phố Hồ Chí
Minh trong hơn 300 năm qua với những lớp văn hóa lắng đọng đã tạo nên một thành phố
trẻ trung năng động nhưng chứa đựng trong mình những giá trị văn hóa cổ truyền của
nhiều lớp cư dân cùng cộng cư sinh sống. Tất cả đã tạo nên động lực, tiềm năng phát triển
du lịch thành phố mà không phải địa phương nào ở nước ta cũng có được.
2. Hệ thống các công trình kiến trúc công cộng, công quyền, tôn giáo
Hệ thống các công trình kiến trúc công cộng, công quyền, tôn giáo trên địa bàn
thành phố khá đa dạng, phong phú. Đây là một trong những nguồn lực quan trọng để
thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ
trình bày một số công trình tiêu biểu sau:
2.1 Chợ Bến Thành
Chợ Bến Thành là một trong những địa điểm tiêu biểu của thành phố Hồ Chí
Minh. Trong nhiều trường hợp, hình ảnh khu cửa Nam ngôi chợ này được xem là biểu
tượng của thành phố.
2.1.1 Lịch sử hình thành
Nguyên thủy, chợ Bến Thành đã có từ trước khi người Pháp xâm chiếm năm
1859. Ban đầu, vị trí của chợ nằm bên bờ sông Bến Nghé, cạnh một bến sông gần
Thành Gia Định (bấy giờ là thành Quy, còn gọi là thành Bát Quái). Bến này dùng để
cho hành khách vãng lai và quân nhân vào thành, vì vậy mới có tên gọi là Bến Thành,
và khu chợ cũng có tên gọi là chợ Bến Thành.
3
Theo Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, Chợ Bến Thành thời kỳ
đầu được xây bằng gạch, sườn gỗ, lợp tranh. Trước khi Pháp đánh chiếm Gia Định
năm 1859, khu vực xung quanh thành Gia Định có khoảng 100 ngàn dân và chợ Bến
Thành là nơi đông đúc nhất. Khi ấy, khu họp chợ mới chỉ là một dãy nhà trống lợp
ngói. Tuy nhiên, ngôi chợ này bị cháy trong đợt hỏa công của binh lính người Việt khi
Pháp đánh chiếm thành Gia Định năm 1859.
Năm 1860, sua khi chiếm được thành Gia Định, người Pháp đã xây lại chợ Bến
Thành ở địa điểm cũ
[26]
với chất liệu là cột gạch, sườn gỗ, mái lợp lá. Đến tháng 7 năm
1870, chợ bị cháy mất một gian, phải xây cất lại bằng cột gạch, sườn sắt, lợp bằng
ngói, tất cả có năm gian: gian thực phẩm, gian hàng cá, gian hàng thịt, gian hàng ăn
uống và gian hàng tạp hóa. Trong năm gian hàng này, chỉ có gian hàng thịt được lợp
bằng tôn, nền lót đá xanh. Đây là một trong những khu vực buôn bán sầm uất nhất
Nam kỳ lúc bấy giờ.
Tuy nhiên, khoảng giữa năm 1911, ngôi chợ trở nên cũ kỹ và lâm vào tình trạng
có thể bị sụp đổ. Để tránh tai họa, người ta phải phá chợ, chỉ còn gian hàng thịt, vì mái
tôn nhẹ, nên chưa bị phá. Đồng thời, người Pháp cũng lựa chọn một địa điểm để xây
cất một khu chợ mới lớn hơn để phục vụ nhu cầu buôn bán sầm uất ngày càng phát
triển. Địa điểm được lựa chọn nằm gần ga xe lửa Mỹ Tho
[27]
, tức là địa điểm chợ Bến
Thành ngày nay.
Khu vực xây chợ, vốn là một cái ao sình lầy cũ, gọi là ao Bồ Rệt
[28]
được người
Pháp cho lấp đi. Khuôn viên chợ quy hoạch bốn mặt bởi bốn con đường. Mặt tiền là
đường Place Cuniac
[29]
. Người Việt quen gọi đó là Bùng binh Chợ Bến Thành cho dù
tên chính thức "Quảng trường Quách Thị Trang". Ngôi chợ mới được khởi công xây
dựng từ năm 1912 đến cuối tháng 3 năm 1914 thì hoàn tất. Lễ ăn mừng chợ khánh
thành được báo chí thời đó gọi là "Tân Vương Hội"- một trong những lễ hội ăn mừng
lớn nhất thời bấy giờ với pháo bông, xe hoa và hơn 100.000 người tham dự.
Khu chợ mới này vẫn mang tên gọi Bến Thành; tuy nhiên cho đến trước năm
1975 tên gọi chợ Bến Thành này thường chỉ hiện diện trong sách vở, còn người dân thì
thường gọi là chợ Sài Gòn hay chợ Mới, để phân biệt chợ Cũ tại điểm cũ, vốn chỉ còn
lại gian hàng thịt. Phần còn lại bị phá đi và được người Pháp xây dựng thành cơ quan
Ngân khố. Hai con đường bên hông chợ mãi đến năm 1940 còn là bến xe đò miền
Đông và miền Tây.
2.1.2 Các giá trị văn hóa
Chợ Bến Thành có tổng diện tích 13.056m², trung bình mỗi ngày đón khoảng
10.000 lượt khách lui tới mua bán và tham quan. Chợ có 1.437 sạp, 6.000 tiểu thương,
11 doanh nghiệp
[30]
, với bốn cửa chính và 12 cửa phụ tỏa ra bốn hướng. Đây là địa
điểm tham quan không thể thiếu cho bất cứ tour du lịch nào đến TP. Hồ Chí Minh.
Chợ Bến Thành là nơi chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử của thành phố và được
xem là biểu tượng của Sài Gòn. Đây là một khu trung tâm buôn bán không chỉ của TP
Hồ Chí Minh mà còn của các tỉnh phía Nam. Hàng hóa trong chợ rất phong phú,
dường như có đủ mặt các sản vật trong nước và hàng công nghệ hiện đại trên thế giới.
Điểm độc đáo nhất, chẳng ở đâu có các cô bán hàng xinh đẹp, ăn mặc hợp thời trang
và thành thạo ngoại ngữ như các tiểu thương chợ Bến Thành. Bước chân vào chợ là
len lỏi giữa dòng du khách nước ngoài nườm nượp, tai nghe những lời chào bằng tiếng
Anh, tiếng Pháp, tiếng Nhật, tiếng Thái xôn xao như một bản hợp âm. Chợ Bến
Thành cũng rất sôi động về đêm, bắt đầu từ 7 giờ tối, 178 quầy hàng đổ ra hai con
đường Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh bên hông chợ với các quầy hàng mỹ nghệ,
lưu niệm, quần áo và đặc biệt là hàng ăn.
4
Cuối tháng 1-2012, chợ Bến Thành đã được Tạp chí Ẩm thực Food and Wine
nổi tiếng chọn là một trong 10 điểm đến có món ăn đường phố hấp dẫn nhất hành tinh,
chính là lời khẳng định hùng hồn cho sự phong phú đó.
2.2 Hội trường Thống Nhất
Hội trường Thống Nhất
[31]
vừa là một công trình kiến trúc công quyền vừa là
một địa danh lịch sử của thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đây đã được xếp hạng di tích
quốc gia đặc biệt. Xét về yếu tố lịch sử thì Hội trường Thống Nhất gắn liền với những
sự kiện quan trọng nhất trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà
của dân tộc Việt Nam.
2.2.1 Quá trình hình thành và những thời khắc lịch sử
- Trước năm 1975
Năm 1858, Pháp mở đầu cuộc chiến tranh xâm chiếm Việt Nam với cuộc tấn
công Đà Nẵng. Năm 1867, Pháp chiếm xong lục tỉnh Nam Kỳ
[32]
. Tháng 2 năm 1868,
Thống đốc Nam Kỳ Lagrandiere đã làm lễ đặt viên đá đầu tiên khởi công xây dựng
Dinh Thống đốc Nam Kỳ mới tại Sài Gòn thay cho dinh cũ được dựng bằng gỗ vào
năm 1863. Dinh mới được xây dựng theo theo đồ án do kiến trúc sư Hermite phác
thảo
[33]
. Viên đá lịch sử này là khối đá lấy ở Biên Hòa, hình vuông rộng mỗi cạnh 50
cm, có lỗ bên trong chứa những đồng tiền hiện hành thuở ấy bằng vàng, bạc, đồng có
chạm hình Napoleon đệ tam
[34]
.
Công trình này được xây cất trên một diện tích rộng 12 ha, bao gồm một dinh
thự lớn với mặt tiền rộng 80 m, bên trong có phòng khách chứa 800 người, và một
khuôn viên rộng với nhiều cây xanh và thảm cỏ. Phấn lớn vật tư xây dựng dinh được
chở từ Pháp sang. Do chiến tranh Pháp Phổ 1870
[35]
nên công trình này kéo dài đến
1873 mới xong. Sau khi xây dựng xong, dinh được đặt tên là Dinh Norodom
[36]
. Từ
1871 đến 1887, dinh được dành cho Thống đốc Nam kỳ nên gọi là dinh Thống đốc. Từ
1887 đến 1945, các Toàn quyền Đông Dương
[37]
đã sử dụng dinh thự này làm nơi ở và
làm việc nên dinh gọi là Dinh Toàn quyền.
Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, Dinh Norodom trở thành nơi làm việc của
chính quyền Nhật ở Việt Nam. Nhưng đến tháng 9/1945, Nhật thất bại trong Thế chiến
II, Pháp trở lại chiếm Nam Bộ, Dinh Norodom trở lại thành trụ sở làm việc của Pháp ở
Việt Nam.
Sau năm 1954, người Pháp rút khỏi Việt Nam. Việt Nam bị chia cắt thành 2 quốc
gia, miền Bắc là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, miền Nam là nước Quốc Gia
Việt Nam
[38]
. Ngày 7/9/1954, Dinh Norodom được bàn giao giữa đại diện Pháp, tướng
Pháp Paul Ely và đại diện Quốc gia Việt nam - Thủ tướng Ngô Đình Diệm.
Năm 1955, sau cuộc trưng cầu dân ý
[39]
, Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng
Bảo Đại và lên làm Tổng thống. Ông quyết định đổi tên dinh này thành Dinh Độc Lập.
Từ đó Dinh Độc Lập trở thành nơi đại diện cho chính quyền cũng như nơi ở của tổng
thống và là nơi chứng kiến nhiều biến cố chính trị. Thời kỳ này, Dinh Độc Lập còn
được gọi là Dinh Tổng Thống. Theo thuật phong thủy của Dinh được đặt ở vị trí đầu
rồng, nên Dinh cũng còn được gọi là Phủ đầu rồng.
Ngày 27/2/1962, hai viên phi công thuộc Quân lực Việt Nam Cộng Hòa là
Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc, lái 2 máy bay AD – 6 ném bom làm sập toàn bộ
phần chính cánh trái của dinh
[40]
. Do không thể khôi phục lại, Ngô Đình Diệm đã cho
san bằng và xây một dinh thự mới ngay trên nền đất cũ theo đồ án thiết kế của kiến
trúc sư Ngô Viết Thụ
[41]
.
5
Dinh Độc Lập mới được khởi công xây dựng ngày 1/7/1962. Trong thời gian xây
dựng, gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm tạm thời chuyển sang sống tại Dinh Gia
Long
[42]
. Công trình đang xây dựng dở dang thì ông Ngô Đình Diệm bị phe đảo chính
ám sát ngày 2/11/1963. Đến ngày 31/10/1966, công trình được khánh thành dưới sự
chủ tọa của ông Nguyễn Văn Thiệu - Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia. Từ ngày
này, Dinh Độc Lập mới xây trở thành trụ sở của Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày 8/ 4/ 1975, chiếc máy bay F – 5E do Nguyễn Thành Trung
[43]
lái, xuất phát
từ Biên Hòa, đã ném bom Dinh, gây hư hại một góc của Dinh Lúc 10 giờ 45 phút ngày
30/4/1975, xe tăng T54 mang số hiệu 843 của Quân độ Nhân dân Việt Nam dưới quyền
chỉ huy của Trung úy Vũ Đăng Toàn đã húc nghiêng cổng phụ của Dinh Độc Lập, tiếp
đó xe tăng mang số hiệu 390 đã húc tung cổng chính tiến thẳng vào dinh. Lúc 11 giờ 30
phút cùng ngày, Trung úy Quân Giải phóng Bùi Quang Thận, đại đội trưởng, chỉ huy xe
843 đã hạ lá cờ Việt Nam Cộng Hòa trên nóc dinh xuống, kéo lá cờ Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam Việt Nam lên, kết thúc 30 năm cuộc chiến tranh Việt Nam.
- Sau năm 1975
Sau hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất hai miền Nam Bắc thành một đất
nước Việt Nam thống nhất diễn ra tại dinh Độc Lập vào tháng 11 năm 1975, để kỷ niệm,
chính phủ lâm thời nước Cộng Hòa miền Nam Việt Nam đã quyết định đổi tên Dinh
Độc Lập thành Hội trường Thống Nhất. Nơi này được đặc cách xếp hạng di tích quốc
gia đặc biệt theo Quyết định số 77A/VHQĐ ngày 25/6/1976 của Bộ Văn hóa (nay là Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch) của chính quyền Việt Nam. Hiện nay dinh thuộc sự quản
lý của Cục Hành chính Quản trị II - Văn phòng Chính Phủ, là nơi thường xuyên diễn ra
những sự kiện trọng đại của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung.
Đây là di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng được đông đảo du khách trong nước và nước
ngoài đến tham quan.
2.2.2 Các giá trị kiến trúc
Dinh cao 26m, tọa lạc trong khuôn viên rộng 12 ha rợp bóng cây, diện tích sử
dụng là 20.000 m² gồm 3 tầng chính, 1 sân thượng, 2 gác lửng, tầng nền, 2 tầng hầm
và một sân thượng cho máy bay trực thăng đáp xuống. Hơn 100 căn phòng của Dinh
được trang trí theo phong cách khác nhau tùy theo mục đích sử dụng bao gồm các
phòng khánh tiết, phòng họp hội đồng nội các, phòng làm việc của Tổng Thống và của
Phó Tổng Thống, phòng trình quốc thư, phòng đại yến, v.v chưa kể các phần khác
như hồ sen bán nguyệt hai bên thềm đi vào chánh điện, bao lơn, hành lang Mặt tiền
của Dinh được trang trí cách điệu các đốt mành trúc phỏng theo phong cách các bức
mành tại các ngôi nhà Việt và họa tiết các ngôi chùa cổ tại Việt Nam. Các phòng của
Dinh được trang trí nhiều tác phẩm non sông cẩm tú, tranh sơn mài, tranh sơn dầu.
Vào thập niên 60 của thế kỷ XX, đây là công trình có quy mô lớn nhất miền
Nam và có chi phí xây dựng cao nhất (150.000 lượng vàng). Các hệ thống phụ trợ bên
trong Dinh hiện đại: điều hòa không khí, phòng chống cháy, thông tin liên lạc, nhà
kho… có công suất phục vụ tương đương một khách sạn 5 sao. Đặc biệt, tổng hành
dinh ngầm dưới mặt đất là một khối bêtông dày, bọc thép chịu đựng được bom lớn và
đạn pháo kích, đáp ứng mục tiêu phòng thủ quân sự hiện đại nhất.
Khi thiết kế Dinh Ðộc lập, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ muốn tìm một ý nghĩa
văn hóa cho công trình, nên mọi sự xếp đặt từ bên trong nội thất cho đến tiền diện bên
ngoài, tất cả đều tượng trưng cho triết lý cổ truyền, nghi lễ Phương Đông và cá tính
của dân tộc. Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã kết hợp hài hoà giữa nghệ thuật kiến trúc
hiện đại với kiến trúc truyền thống Phương Ðông. Toàn thể bình diện của Dinh làm
thành hình chữ CÁT - , tiếng Hán có nghĩa là tốt lành, may mắn; tâm của Dinh là
6
vị trí phòng Trình quốc thư; lầu thượng là Tứ phương vô sự lầu hình chữ KHẨU -
để đề cao giáo dục và tự do ngôn luận. Hình chữ KHẨU - có cột cờ chính
giữa sổ dọc tạo thành hình chữ TRUNG - như nhắc nhở muốn có dân chủ thì phải
trung kiên. Nét gạch ngang được tạo bởi mái hiên lầu tứ phương, bao lơn danh dự và
mái hiên lối vào tiền sảnh tạo thành hình chữ TAM - theo quan niệm “Dân chủ
hữu tam Viết nhân, Viết minh, Viết võ” ý mong muốn một đất nước hưng thịnh thì phải
có những con người hội đủ 3 yếu tố Nhân, Minh, Võ. Ba nét gạch ngang này được nối
liền nét sổ dọc tạo thành hình chữ VƯƠNG - , trên có kỳ đài làm thành nét chấm
tạo thành hình chữ CHỦ - tượng trưng cho chủ quyền đất nước. Mặt trước của
dinh thự toàn bộ bao lơn lầu 2 và lầu 3 kết hợp với mái hiên lối vào chính cùng 2 cột
bọc gỗ phía dưới mái hiên tạo thành hình chữ HƯNG - ý cầu chúc cho nước nhà
được hưng thịnh mãi. Vẻ đẹp kiến trúc của Dinh còn được thể hiện bởi bức rèm hoa đá
mang hình dáng những đốt trúc thanh tao bao xung quanh lầu 2. Rèm hoa đá được biến
cách từ bức cửa bàn khoa của các cung điện Cố đô Huế không chỉ làm tăng vẻ đẹp của
Dinh mà còn có tác dụng lấy ánh sáng mặt trời. Ði vào bên trong Dinh, tất cả các
đuờng nét kiến trúc đều dùng đường ngay sổ thẳng, các hành lang, đại sảnh, các phòng
ốc đều lấy câu chính đại quang minh làm gốc.
Hiện nay, nơi đây vẫn lưu giữ hầu như nguyên vẹn nội thất tại nơi ở và làm việc
của một nguyên thủ quốc gia. Vẫn còn đó 4.000 ngọn đèn các loại, hàng chục tác
phẩm mỹ thuật quí, thảm, rèm, bàn ghế, vật dụng hạng nhất Đặc biệt là trong phòng
trình quốc thư nằm ở vị trí trung tâm lầu nghi lễ tầng 2, các vật dụng từ bàn ghế đến
tranh trang trí đều bằng chất liệu sơn mài truyền thống.
Xen giữa các đường nét kiến trúc hiện đại bằng bêtông và sắt thép là những
môtíp trang trí gợi nhớ các họa tiết cổ truyền trong nhà cửa, đền chùa, cung điện VN.
Từ bức rèm hoa đá đồ sộ ngoài mặt tiền, gồm các tấm lam đứng mang hình lóng trúc
nhắc nhớ cửa “bàn khoa” cung điện xứ Huế, cho đến những phù điêu, tượng đắp nổi,
chạm trổ trên gỗ, thép uốn, tay nắm con triện, tay vịn cầu thang nhất nhất đều mang
dáng Việt.
2.3 Vương cung thánh đường Chính tòa Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội
(Nhà thờ Đức Bà)
Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn (tên chính thức: Vương cung thánh đường Chính tòa
Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội, là nhà thờ chính tòa của Tổng giáo phận thành phố Hồ
Chí Minh. Đây cũng là nhà thờ Công giáo có quy mô lớn và đặc sắc, một những công
trình kiến trúc thu hút nhiều khách tham quan nhất tại thành phố này.
2.3.1 Lịch sử hình thành
Ngay sau khi chiếm Sài Gòn 1859, Pháp đã cho lập nhà thờ để làm nơi hành lễ
cho người Công giáo trong đoàn quân viễn chinh Pháp. Ngôi nhà thờ đầu tiên được lập
ở đường Số 5 (nay là đường Ngô Đức Kế). Đây vốn là một ngôi chùa nhỏ của người
Việt bị bỏ hoang do chiến cuộc, cố đạo Lefebvre đã biến ngôi chùa này thành nhà thờ.
Vì ngôi nhà thờ đầu tiên đó quá nhỏ nên vào năm 1863, Đô đốc
[44]
Bonard đã quyết
định cho khởi công xây dựng ở nơi khác một nhà thờ khác bằng gỗ bên bờ "Kinh
Lớn"
[45]
. Cố đạo Lefebvre tổ chức Lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng nhà thờ vào ngày
28/3/1863 và hoàn thành năm 1865 với chất liệu bằng gỗ và gọi là Nhà thờ Sai Gòn.
Về sau, do nhà thờ gỗ này bị hư hại nhiều vì mối mọt, các buổi lễ được tổ chức trong
7
phòng khánh tiết của Dinh Thống Đốc cũ, về sau cải thành trường học Taberd, cho đến
khi nhà thờ lớn xây xong.
Tháng 8 năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ Duperré đã tổ chức một kỳ thi vẽ đồ án
thiết kế nhà thờ mới. Ngoài mục tiêu có chỗ thờ phụng, hành lễ cho tín đồ, việc xây
dựng nhà thờ lớn cũng nằm trong mục đích phô trương đạo Công giáo và sự vĩ đại của
nền văn minh nước Pháp trước người dân thuộc địa. Vượt qua 17 đồ án thiết kế khác,
đồ án của kiến trúc sư J. Bourard với phong cách kiến trúc Roman
[46]
cải biên pha trộn
nét phong cách kiến trúc Gothic
[47]
đã được chọn.
Sau khi đề án thiết kế được chọn, Đô đốc Duperré cho đấu thầu việc xây dựng
nhà thờ và cũng chính kiến trúc sư này là người trúng thầu và trực tiếp giám sát công
trình. Mọi vật liệu xây dựng 100% đều được mang từ Pháp sang. Đặc biệt, mặt ngoài
của công trình xây bằng loại gạch đặt làm tại Marseille
[48]
(Pháp), để trần, không tô
trát, không bám bụi rêu mà đến nay vẫn còn màu sắc hồng tươi.
Ngày 7/10/ 1877, Giám mục
[49]
sidore Colombert đặt viên đá đầu tiên trước mặt
Phó soái Nam Kỳ và đông đủ nhân vật cấp cao thời ấy. Nhà thờ được xây dựng trong 3
năm. Lễ Phục sinh năm 1880, nghi thức cung hiến và khánh thành do cố đạo
Colombert tổ chức trọng thể với sự có mặt của Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers.
Hiện nay, trên bệ phía trên, bên trong cửa ra vào nhà thờ, có chiếc bảng cẩm thạch gắn
trong hành lang ghi ngày khởi công, ngày khánh thành và tên vị công trình sư. Tất cả
mọi chi phí xây dựng, trang trí nội thất đều do Soái phủ Nam Kỳ đài thọ
[50]
, với số tiền
2.500.000 Franc Pháp theo tỷ giá thời bấy giờ. Ban đầu, nhà thờ có tên gọi là Nhà thờ
Nhà Nước vì nó do nhà nước Pháp bỏ tiền xây dựng và quản lý.
Năm 1895, nhà thờ xây thêm hai tháp chuông, mỗi tháp cao 57,6 m và có 6
chuông đồng lớn nặng 28,85 tấn. Trên đỉnh tháp có đính một cây thánh giá cao 3,50 m,
ngang 2 m, nặng 600 kg. Tổng thể chiều cao từ mặt đất lên đỉnh thánh giá là 60,50 m.
Trên vườn hoa trước nhà thờ, năm 1903, người Pháp cho dựng tượng đồng Pigneau de
Béhaine
[51]
dẫn hoàng tử Cảnh (con vua Gia Long) để ca ngợi công lao của nước Pháp
"bảo hộ", "khai hóa" cho Việt Nam. Tượng đài này bao gồm một bệ bằng đá hoa
cương đỏ hình trụ tròn và bên trên là bức tượng tạc hình Giám mục Adran với phẩm
phục giám mục, tay trái dẫn hoàng tử Cảnh. Tượng làm bằng đồng, được đúc tại Pháp,
giới bình dân thời đó thường gọi là tượng "hai hình" để phân biệt với tượng "một
hình", là bức tượng của Đô đốc Hải quân Pháp Genouilly ở phía công trường Mê
Linh
[52]
. Năm 1945, tượng này bị phá bỏ, nhưng cái bệ đài bằng đá hoa cương đỏ thì
vẫn còn tồn tại ở đó mà không có bất cứ một bức tượng nào đặt lên trên.
Năm 1958, linh mục Giuse Phạm Văn Thiên cai quản Giáo xứ Sài Gòn thời ấy
đã đặt tạc một tượng Đức Mẹ Hòa Bình bằng loại đá cẩm thạch trắng Carrara của Ý.
Tượng được tạc tại Pietrasanta
[53]
cách Roma khoảng 500 km và đưa về Sài Gòn năm
1959. Sau đó, công ty Société d'Entreprises đã dựng tượng Đức Mẹ lên bệ đá vốn còn
để trống kể từ năm 1945 trước nhà thờ. Tự tay linh mục viết câu kinh cầu nguyện "Xin
Đức Mẹ cho Việt Nam được hòa bình" rồi đọc trước đông đảo quan khách có mặt hôm
ấy. Ngày hôm sau, Hồng Y
[54]
Aganianian từ Roma qua Sài Gòn để chủ toạ lễ bế mạc
Đại hội Thánh mẫu toàn quốc, đã làm phép bức tượng này vào buổi chiều ngày 17
tháng 2 năm 1959. Từ sự kiện này mà từ đó nhà thờ có tên gọi là Nhà thờ Đức Bà.
Ngày 5 tháng 12 năm 1959, Tòa thánh
[55]
đã cho phép làm lễ "xức dầu", tôn phong
Nhà thờ Chính tòa Sài Gòn lên hàng tiểu Vương cung thánh đường. Từ đó, tên gọi
chính thức của thánh đường là Vương cung thánh đường Đức Bà Sài Gòn.
8
2.3.2 Giá trị văn hóa
Trong quá trình xây dựng, toàn bộ vật liệu xây dựng từ xi măng đến ốc vít đều
mang từ Pháp sang. Mặt ngoài của công trình xây bằng loại gạch đặt làm tại để trần,
không tô trát, (đến nay vẫn còn màu sắc hồng tươi), không bám bụi rêu. Toàn bộ thánh
đường có 56 ô cửa kính màu do hãng Lorin của tỉnh Chartres
[56]
sản xuất. Móng của
thánh đường được thiết kế đặc biệt, chịu được tải trọng gấp 10 lần toàn bộ kiến trúc
ngôi nhà thờ nằm bên trên. Và một điều rất đặc biệt là nhà thờ không có vòng rào hoặc
bờ tường bao quanh như các nhà thờ quanh vùng Sài Gòn - Gia Định lúc ấy và bây
giờ. Nội thất thánh đường được thiết kế thành một lòng chính, hai lòng phụ tiếp đến là
hai dãy nhà nguyện. Toàn bộ chiều dài thánh đường là 93m. Chiều ngang nơi rộng
nhất là 35 m. Chiều cao của vòm mái thánh đường là 21 m. Sức chứa của thánh đường
có thể đạt tới 1.200 người.
Nội thất thánh đường có hai hàng cột chính hình chữ nhật, mỗi bên sáu chiếc
tượng trưng cho 12 vị thánh tông đồ. Ngay sau hàng cột chính là một hành lang và kế
đó là nhiều nhà nguyện nhỏ với những bàn thờ nhỏ (hơn 20 bàn thờ) cùng các bệ thờ
và tượng thánh nhỏ làm bằng đá trắng khá tinh xảo. Bàn thờ nơi Cung Thánh làm bằng
đá cẩm thạch nguyên khối có hình sáu vị thiên thần khắc thẳng vào khối đá đỡ lấy mặt
bàn thờ, bệ chia làm ba ô, mỗi ô là một tác phẩm điêu khắc diễn tả thánh tích. Trên
tường được trang trí nổi bật 56 cửa kính mô tả các nhân vật hoặc sự kiện trong Thánh
kinh, 31 hình bông hồng tròn, 25 cửa sổ mắt bò bằng kính nhiều màu ghép lại với
những hình ảnh rất đẹp. Tất cả các đường nét, gờ chỉ, hoa văn đều tuân thủ theo thức
Roman và Gôtich, tôn nghiêm và trang nhã. Tuy nhiên, trong số 56 cửa kính này hiện
chỉ còn bốn cửa là nguyên vẹn như xưa, còn các cửa kính màu khác đều đã được làm
lại vào khoảng những năm 1949 để thay thế các cửa kính màu nguyên thủy của nhà
thờ đã bị bể gần hết trong thế chiến thứ 2. Trên trán tường của cửa chính nhà thờ có
hàng chữ Latinh “Deo optimo maximo beatieque Maria virgin immaculatoe – nghĩa là
Thiên Chúa tối cao đã ban cho Đức Trinh Nữ Maria được ơn Vô Nhiễm Nguyên tội”.
Trên trán tường của cửa vào bên phải có những hàng chữ bằng tiếng Hoa, thật ra đó là
hai câu đối: "Nhà thờ Thiên Chúa đầy ân đức - Thánh mẫu vô nhiễm nguyên tội" và
hàng chữ nói tới năm khánh thành nhà thờ 1880.
Nội thất thánh đường ban đêm được chiếu sáng bằng điện (không dùng đèn
cầy) ngay từ khi khánh thành. Vào ban ngày, với thiết kế phối sáng tuyệt hảo, hài hòa
với nội thất tạo nên trong nội thất thánh đường một ánh sáng êm dịu, tạo ra một cảm
giác an lành và thánh thiện. Ngay phía trên cao phía cửa chính là "gác đàn" với cây
đàn Organ ống - một trong hai cây đàn cổ nhất Việt Nam hiện nay. Đàn này được các
chuyên gia nước ngoài làm bằng tay, thiết kế riêng, để khi đàn âm thanh đủ cho cả nhà
thờ nghe, không nhỏ mà cũng không ồn. Phần thân đàn cao khoảng 3 m, ngang 4 m,
dài khoảng 2 m, chứa những ống hơi bằng nhôm đường kính khoảng một inch
1
. Phần
điều khiển đàn nằm riêng nối với thân đàn bằng những trục, có những phím đàn như
đàn organ bình thường và những phím to đặt dưới sàn nhà (dài chừng 3 m, ngang
khoảng 1 m) để người điều khiển đàn đạp lên khi dùng nốt trầm. Đàn còn có những
thanh gõ lớn để đập vào phần dưới các ống hơi phát ra âm thanh. Hiện nay, cây đàn
này đã hoàn toàn hỏng do bị mối ăn phần gỗ bàn phím điều khiển bằng tay.
Ban đầu, hai tháp chuông cao 36,6 m, không có mái và chỉ có độc một chiếc
cầu thang hẹp chừng 40 cm bề ngang. Nội thất gác chuông rất tối và sàn được lót sơ
sài bằng những miếng gỗ nhỏ cách khoảng, nhìn xuống thấy sâu hút. Vào năm 1895,
1
9
thánh đường xây thêm hai mái chóp để che gác chuông cao 21 m, theo thiết kế của
kiến trúc sư Gardes, tổng cộng tháp chuông cao 57 m. Có tất cả 6 chuông lớn (sol:
8.785kg, la: 5.931kg, si: 4.184kg, đô: 4.315kg, rê: 2.194, mi: 1.646kg), gồm sáu âm,
nặng tổng cộng 28,85 tấn, đặt dưới hai lầu chuông. Bộ chuông này được chế tạo tại
Pháp và mang qua Sài Gòn năm 1879. Trên tháp bên phải treo 4 quả chuông (sol, do,
rê, mi); tháp bên trái treo 2 chuông (la, si). Trên mặt mỗi quả chuông đều có các họa
tiết rất tinh xảo. Tổng trọng lượng bộ chuông là 27.055kg tức khoảng 27 tấn, nếu tính
luôn hệ thống đối trọng(1.840kg) được gắn trên mỗi trái chuông thì tổng trọng lượng
của bộ chuông sẽ là 28.895kg.
Ba quả chuông to nhất là chuông si nặng 4.184kg, chuông la nặng 5.931kg và
đặc biệt là chuông sol là một trong những quả chuông lớn nhất thế giới: nặng 8.785 kg,
đường kính miệng chuông 2,25 m, cao 3,5 m (tính đến núm treo). Chuông này chỉ
ngân lên mỗi năm một lần vào đêm Giao thừa Âm lịch. Các chuông đều được điều
khiển bằng điện từ bên dưới. Riêng ba chiếc chuông lớn trước khi đánh đều được khởi
động bằng cách đạp (vì quá nặng) cho lắc trước khi bật công tắc điện. Vào ngày
thường, thánh đường chỉ cho đổ một chuông mi vào lúc 5 giờ sáng và đổ chuông re
vào lúc 16g15. Vào ngày lễ và chủ nhật, nhà thờ thường cho đổ ba chuông theo hợp
âm Mi, Re và Do ( đúng ra là hợp âm ba chuông Mi, Do và Sol, nhưng vì chuông Sol
qua nặng nên thay thế bằng chuông Do). Vào đêm Giao thừa thì mới đổ cả 6 chuông.
Tiếng chuông ngân xa tới 10 km theo đường chim bay.
Bộ máy đồng hồ trước vòm mái cách mặt đất chừng 15 m, giữa hai tháp chuông
được chế tạo tại Thụy Sĩ năm 1887, hiệu R.A, cao khoảng 2,5 m, dài khoảng 3 m và
ngang độ hơn 1 m, nặng hơn 1 tấn, đặt nằm trên bệ gạch. Dù thô sơ, cũ kỹ nhưng hoạt
động khá chính xác. Để điều chỉnh đồng hồ, phía sau máy có một chiếc đồng hồ to cỡ
đồng hồ reo trong gia đình. Chỉ cần theo dõi chiếc đồng hồ con này, có thể biết đồng
hồ lớn chạy chậm, nhanh, đúng hay sai giờ. Mỗi tuần phải lên giây đồng hồ một lần và
chiếc cần để lên giây đồng hồ giống như tay quay máy xe. Đồng hồ còn có hệ thống
bao giờ bằng búa đánh vô các chuông của nhà thờ, tuy nhiên đã không còn hoạt động
do dây cót quá cũ.
Mặt trước thánh đường là một công viên với bốn con đường giao nhau tạo
thành hình thánh giá. Trung tâm của công viên là bức tượng Đức Mẹ Hòa bình (hay
Nữ vương Hòa bình). Tượng do nhà điêu khắc G. Ciocchetti thực hiện năm 1959. Tên
của tác giả được ở trên tà áo dưới chân, phía bên trái của bức tượng. Bức tượng cao 4,6
m, nặng 8 tấn, bằng đá cẩm thạch trắng của Ý, được tạc với chủ đích để nhìn từ xa nên
không đánh bóng, vì vậy mà toàn thân tượng, kể cả vùng mặt vẫn còn những vết điêu
khắc thô. Tượng Đức Mẹ trong tư thế đứng thẳng, tay cầm trái địa cầu, trên trái địa cầu
có đính cây thánh giá, mắt Đức Mẹ đăm chiêu nhìn lên trời như đang cầu nguyện cho
Việt Nam và cho thế giới được hoà bình. Chân Đức Mẹ đạp đầu con rắn (hiện nay, đầu
con rắn đã bị bể mất cái hàm trên). Phía dưới bệ đá, người ta đã khoét một cái hốc chỗ
giáp với chân tượng Đức Mẹ, trong đó có một chiếc hộp bằng bạc, chứa những lời
kinh cầu nguyện cho hoà bình của Việt Nam và thế giới. Những lời cầu nguyện đó
được viết lên trên những lá mỏng bằng những chất liệu khác nhau như bằng vàng, bạc,
thiếc, nhôm, giấy, da và đồng được gởi tới từ nhiều miền của Việt Nam.
10
Chú thích
[1] Chợ Lớn (Hán Việt:- Đê Ngạn; tiếng Quảng: Tài Ngọn), là tên của khu vực đông người Hoa
sinh sống nằm ven kênh Tẻ trải dài từ Quận 5 đến Quận 6. Khu vực này trước kia lập thành một
thành phố riêng biệt với Sài Gòn là thành phố Chợ Lớn. Trong những năm 1930-1950 do quá trình
đô thị hóa Sài Gòn và Chợ Lớn sáp nhập với nhau.
[2] Là công trình được Lê Quý Đôn viết năm Bính Thân (1776) khi ông được chúa Trịnh Sâm cử
làm Hiệp trấn Tham tán quân cơ ở Thuận Hóa để tìm cách chống lại quân Tây Sơn. Đây là bộ
sách gồm 8 quyển được chia làm 2 phần ghi chép lại hầu hết các thông tin quan trọng về kinh tế
và xã hội của xứ Đàng Trong từ cuối thế kỷ 16 đến thời kỳ ông làm quan xứ Thuận Hóa.
[3] Tê Hán Việt: Chân Lạp Quốc/Cao Miên Quốc), hiện nay là: Vương quốc Campuchia, là một
quốc gia thuộc bán đảo Đông Dương ở vùng Đông Nam Á ngày nay.
[4] Theo Hán Nho viết là "Sài Côn". Vì chữ Hán thiếu chữ "Côn" nên chữ "Gòn" được dùng
thế. Nếu đọc theo tiếng Nôm là "Gòn", còn đọc theo chữ Hán thì là "Côn".
[5] Lũy này được đắp năm 1700, dấu vết hiện nay vẫn còn tại quận Tân Bình.
[6] Lũy này được đắp năm 1731
[7] Tên gọi khác là lũy Nguyễn Cửu Đàm, được đắp năm 1772 trên cơ sở lũy Lão Cẩm. Lũy
này kéo dài từ chùa Cây Mai đến tận khu vực Cầu Bông ngày nay.
[8] Léonard Victor Joseph Charner (1797-1869) là một Đô đốc Hải quân Pháp. Ông là Tổng tư
lệnh quân Pháp tham gia Chiến tranh Nha phiến lần 2 và là Tổng tư lệnh liên quân viễn chinh
Pháp - Tây Ban Nha xâm lược Việt Nam.
[9] Tiếng Pháp: Ville de Saigon
[10] Tên đầy đủ Pierre Gustave Roze (1812 – 1882), tại nhiệm từ tháng 12/1864 đến 3/1866.
[11] Tiếng Pháp: Ville de Cholon
[12] Ngoài tên gọi chính thức, Sài Gòn còn có một số tên gọi khác: Thù Nại bao gồm hầu hết
vùng phía Đông Nam Bộ ngày nay (rộng khoảng 20,000-25,000 km²). Năm 1698, Sài Gòn có
tên là Huyện Tân Bình với diện tích khoảng 5,000 km².
[13] Phù Nam là tên phiên âm Hán-Việt của một quốc gia cổ trong lịch sử Đông Nam Á, xuất
hiện khoảng đầu Công Nguyên, ở khu vực hạ lưu và châu thổ sông Mê Kông. Quốc gia này
tồn tại cho đến khoảng nửa thế kỷ thứ 7 thì bị sáp nhập vào lãnh thổ của Chân Lạp.
[14] Chúa Nguyễn là cách gọi chung trong sử sách và dân gian về một số nhà cai trị các vùng
đất từ Thuận Hóa (phía Nam đèo Ngang hiện nay) vào miền Nam của Việt Nam, bắt đầu vào
đầu giai đoạn Lê Trung Hưng của nhà Hậu Lê, hay giữa thế kỷ XVI, cho đến khi bị nhà Tây
Sơn tiêu diệt năm 1777. Họ là tiền thân của nhà Nguyễn - triều đại cuối cùng của Việt Nam.
[15] Chey Chettha II hay Chay Chettha II là con của vua Borommaracha VIII (r. 1603-1618).
Chey Chetta II làm vua Chân Lạp (tức Campuchia) trong thời kỳ 1618-1628. Ông là người
cho xây dựng kinh đô mới là Oudong và rời đô về đây năm 1618.
[16] Dựa theo lịch sử và phát âm có thuyết cho là "Sài Gòn" là được phiên âm từ "Prei
Nokor" hay từ "Thầy Ngồn" mà ra. Prei Nokor nguyên là dinh của phó vương Chân Lạp thuộc
vùng Chợ Lớn tới chùa Cây Mai, là dấu vết của một "thành phố" có từ thời Tiền Angkor (theo
nhà sử học Pháp Louis Malleret).
[17] Khu vực Bến Nghé ngày nay.
[18] Trấn là khu vực quân sự, chưa ổn định việc cai trị.
[19] Tên thật là Nguyễn Phúc Ánh, con trai thứ 3 của Nguyễn Phúc Luân và bà Nguyễn Thị Hoàn.
.
[20] Lúc bấy giờ còn có tên gọi là thành Bát Quái hay thành Quy.
[21] Quản lý 5 trấn: Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên.
[22] Lê Văn Khôi(? – 1834), tên thật là Bế-Nguyễn Nghê, còn được gọi là Hai Khôi, Nguyễn
Hựu Khôi hay Bế Khôi, là con nuôi của tả quân Lê Văn Duyệt.
[23] Hay còn được gọi là Phụng Thành, Phượng Thành do vua Minh Mạng ra lệnh xây mới sau khi
thành Quy bị phá. Thành tồn tại từ năm 1836 đến 1859 thì bị phá hủy khi người Pháp chiếm được
thành từ tay quan quân nhà Nguyễn.
[24] Tiếng Pháp The Pearl of the Far East.
[25] Tiếng Pháp Paris de l'Extrême-Orient.
11
[26] Thời Việt Nam Cộng hòa là địa điểm Tổng Ngân khố, nay là Trường đào tạo cán bộ ngân
hàng trên đường Nguyễn Huệ.
[27] Là tuyến xe lửa đầu tiên ở Việt Nam (và cả Đông Dương), được xây dựng sau khi thực dân
Pháp xâm chiếm nước ta.
[28] Tiếng Pháp là Marais Boresse.
[29] Tên đặt theo viên Thị trưởng thành phố Sài Gòn (Xã Tây) Cuniac.
[30] Số liệu thống kê từ Ban quản lý chợ.
[31] Tên gọi trước đây dinh Độc Lập, dinh Thống Nhất hay dinh Norodom.
[32] Lục tỉnh Nam Kỳ khi đó bao gồm Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An
Giang và Hà Tiên.
[33] Người phác thảo đồ án Tòa thị sảnh Hongkong.
[34] Napoleon đệ tam (Napoléon III), cũng được biết như Louis-Napoléon Bonaparte (tên đầy
đủ là Charles Louis-Napoléon Bonaparte) là tổng thống đầu tiên của nền cộng hòa Pháp và
hoàng đế duy nhất của Đế chế Pháp thứ nhì.
[35] Chiến tranh Pháp - Phổ (diễn ra ngày 19/7/1870 và kết thúc ngày 10/5/1871. Cuộc chiến
này còn có tên gọi là Chiến tranh Pháp - Đức (do sự nhất thống của nước Đức ở thời điểm ấy,
hay Chiến tranh Pháp - Đức (1870 - 1871). Ở Pháp thường được biết đến là Chiến tranh 1870.
[36] Lấy theo tên của Quốc vương Campuchia lúc bấy giờ là là Norodom (1834-1904).
[37] Toàn quyền Đông Dương (tiếng Pháp: Gouverneur-général de l'Indochine Française),
còn gọi là Toàn quyền Đông Pháp, là chức vụ đứng đầu trong Liên bang Đông Dương.
[38] Quốc gia Việt Nam là một chính thể thuộc Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp
cai quản về mặt danh nghĩa toàn bộ lãnh thổ Việt Nam (thực tế nhiều vùng do Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa quản lý, tồn tại trong giai đoạn từ giữa năm 1948 – 1955.
[39] Là cuộc tổng tuyển cử năm 1955 tại miền Nam nhằm xác định lãnh đạo tương lai của
Quốc gia Việt Nam. Sau cuộc bỏ phiếu, Ngô Đình Diệm đắc cử lên làm tổng thống.
[40] Mục đích của cuộc tấn công là nhằm ám sát Tổng thống Ngô Đình Diệm, gia đình ông và
những người tham gia triều chính.
[41] Ngô Quyết Thụ sinh năm 1926, mất 2000, là người Việt Nam đầu tiên đạt giải Khôi
nguyên La Mã 1955, là tác giả công trình kiến trúc khác như Viện Hạt nhân Đà Lạt, nhà thờ
chính tòa Phủ Cam…
[42] Nay là Bảo tàng thành phố Hồ Chí Minh tại 86 Lê Thánh Tôn, Bến Nghé, Quận 1,
Tp. Hồ Chí Minh.
[43] Nguyễn Thành Trung (1947 -) là một cựu Đại tá Không quân Nhân dân Việt Nam được
đưa vào làm gián điệp trong hàng ngũ quân Ngụy. Ông là người Việt Nam đầu tiên lái máy
bay Boeing 767 và 777.
[44] Đô đốc dưới thời phong kiến của Trung Quốc và Việt Nam là chức quân chính cao cấp.
Trải qua các thời kỳ khác nhau, đô đốc có những quyền lực khác nhau. Ngày nay, trong tiếng
Việt, đô đốc được hiểu như là quân hàm của sĩ quan cao cấp trong nhiều lực lượng Hải quân
và quốc gia.
[45] Còn gọi là kinh Charner, kéo dài từ vàm Bến Nghé đến thành Gia Định xưa. Hai bờ kênh
là hai con đường rộng - đường Rigault de Genouilly và đường Quảng Đông. Năm 1887, người
Pháp cho lấp kênh và sáp nhập hai con đường lại thành đại lộ Charner. Chính là đại lộ
Nguyễn Huệ ngày nay.
[46] Kiến trúc Roman là phong cách kiến trúc của các vùng Trung và Tây Âu vào khoảng thế
kỷ XI, XII.
[47] Kiến trúc Gothic (hay francigenum opus) là một phong cách kiến trúc bắt đầu phát triển từ
nửa sau thời Trung cổ ở Tây Âu. Sự khác biệt dễ nhận thấy nhất giữa kiến trúc Roman và Gothic
là nếu kiến trúc Roman theo kiểu vòm cong tròn thì kiến trúc Gothic lại theo kiểu vòm nhọn.
[48] Marseille là một thành phố cảng lớn nhất của nước Pháp. Đây là thành phố lớn thứ hai
sau Paris. Thành phố tọa lạc tại tỉnh Provence trước đây, nằm bên Địa Trung Hải.
[49] Giám mục là chức sắc được tấn phong trong một số giáo hội thuộc cộng đồng Kitô giáo,
nắm giữ các vị trí quyền lực trong giáo hội.
12
[50] Là cách gọi quen thuộc của người miền Nam để chỉ Trụ sở của Thống đốc đặt tại Sài
Gòn (về sau gọi là Dinh Gia Long).
[51] Còn gọi là Giám mục Bá Đa Lộc hoặc Giám mục Adran vì vị này làm Giám mục hiệu
tòa Adran.
[52] Nay là cuối đường Hai Bà Trưng, gần bờ sông Sài Gòn.
[53] Pietrasanta là một thị xã của ý, thuộc tỉnh Lucca trong trong vùng Toscana.
[54] Hồng y là một tước hiệu danh dự trong Giáo hội Công giáo do giáo hoàng phong, dành
cho những người đang đảm nhận các chức vụ chủ chốt trong Giáo triều Rôma hoặc đang cai
quản các giáo hội địa phương quan trọng trên khắp thế giới.
[55] Tòa Thánh dùng để chỉ Giáo phận Rôma, nơi giáo hoàng cai quản với tư cách giám mục.
Theo giáo luật Công giáo Rôman, danh từ Tòa Thánh và Điện Tông Tòa dùng để chỉ chung
cho giáo hoàng và Giáo triều Rôman.
[56] Chartres là tỉnh lỵ của tỉnh Eure – et – Loir thuộc vùng hành chính Centre của nước Pháp
[57] Inch, tiếng Việt đọc như "in-sơ", số nhiều là inches; ký hiệu hoặc viết tắt là in, đôi khi là
″ - dấu phẩy trên kép là tên của một đơn vị chiều dài được sử dụng trong một số hệ thống đo
lường Anh và Mỹ.
Tài liệu tham khảo
1. Ngô Kim Anh (2000), “Quan hệ du lịch - văn hoá và triển vọng ngành du lịch Việt Nam”,
Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 2/2000.
2. Huỳnh Thị Mỹ Đức (2002), “Suy nghĩ về giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong hoạt động
du lịch", Tạp chí Khoa học xã hội, Số 6/2002.
3. Bùi Thị Nga (1996), “Những giải pháp chủ yếu để phát triển du lịch trên địa bàn Hà
Nội", Luận án Tiến sĩ của, Hà Nội.
4. Trần Nhoãn (2002), “Về hiệu quả kinh tế - xã hội của văn hoá qua hoạt động du lịch”, Tạp
chí Văn hoá nghệ thuật, số 4/2002.
5. Trần Quốc Vượng và nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thường, Nguyễn Vinh Phúc (1996)
“Hà Nội trung tâm du lịch của Việt Nam”, Nxb Thế giới, Hà Nội.
Tài liệu internet
1. Wikipedia.org/wiki/Pietrasanta, cập nhật ngày 20/10/2012.
2. Wikipedia.org/wiki/Nhà_thờ_Đức_Bà_Sài_Gòn, cập nhật ngày 20/10/2012.
3. Wikipedia.org/wiki/Nam_Kỳ, cập nhật ngày 20/10/2012.
4. Wikipedia.org/wiki/Kiến_trúc_Gothic, cập nhật ngày 20/10/2012.
5. Wikipedia.org/wiki/Kiến_trúc_Roman, cập nhật ngày 20/10/2012.
6. Wikipedia.org/wiki/Chợ_Bến_Thành, cập nhật ngày 20/10/2012.
7. Wikipedia.org/wiki/Hội_trường_Thống_Nhất, cập nhật ngày 20/10/2012.
8. Wikipedia.org/wiki/Thành_phố_Hồ_Chí_Minh, cập nhật ngày 20/10/2012.
9. Wikipedia.org/wiki/Lịch_sử_Thành_phố_Hồ_Chí_Minh, cập nhật ngày 20/10/2012.
10. Www.dinhdoclap.gov.vn/show.aspx?cat=012&nid=163, cập nhật ngày 20/10/2012.