MỤC LỤC
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ VIỆT NAM ................................................... 32
SANG HOA KỲ ....................................................................................................................... 32
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................98
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Biểu đồ 1: Kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam sang Hoa Kỳ giai đoạn
2001-2006..............................................................................................42
Biểu đồ 2: Cơ cấu sản phẩm đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ..............44
Bảng 1.1: Kim ngạch nhập khẩu đồ gỗ và nội thất của Hoa Kỳ mã HTS 94
giai đoạn 2001-2006. ..................................................................................
Bảng 1.2: Kim ngạch nhập khẩu mặt hàng đồ gỗ mã HS-9403 của Mỹ
giai đoạn 2001-2006 ...................................................................................
Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam giai đoạn 1996-2006 ..................
Bảng 2.2: Kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam sang EU ...........................................
Bảng 2.3: Kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam sang Nhật Bản .................................
Bảng 2.4: Kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam sang Hoa Kỳ ....................................
Bảng 2.5: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ sang Hoa Kỳ trong tổng giá trị
xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam ....................................................................
Bảng 2.6: Cơ cấu sản phẩm gỗ xuất khẩu sang Hoa Kỳ ...............................................
Bảng 2.7: Thị phần các nước xuất khẩu đồ gỗ sang Hoa Kỳ ........................................
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, Đảng và nhà nước ta
đã xác định xuất khẩu là bước đột phá trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ổn định và
nâng cao đời sống nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội.
Trong vài năm trở lại đây, Ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam đã trải qua
một giai đoạn phát triển với những đổi mới và tiến bộ không ngừng. Từ một nước
xuất khẩu gỗ nguyên liệu là chủ yếu, Việt Nam đã vươn lên trở thành một nước xuất
khẩu sản phẩm gỗ có tên tuổi trên thế giới và trong khu vực. Đặc biệt là năm 2004
với kim ngạch xuất khẩu vượt mức 1 tỷ USD, tốc độ tăng 85%- là mức tăng kỷ lục
chưa có bất kỳ hàng xuất khẩu nào ngoài gỗ đạt được. Liên tiếp hai năm sau đó
ngành gỗ tiếp tục khẳng định vị thế của mình với kim ngạch xuất khẩu năm 2005 đạt
1,6 tỷ USD và năm 2006 đạt 1.9 tỷ USD. Xuất khẩu đồ gỗ đang trở thành một ngành
hàng xuất khẩu chủ lực, tạo bước đột phá trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam đem
lại nguồn thu ngoại tệ lớn, tạo ra động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế quan
trọng.
Hiện nay, tuy đồ gỗ Việt Nam đã chiếm được những thị trường trọng điểm của
thế giới và thị phần cũng ngày càng tăng, giá trị xuất khẩu tăng 30-40%/năm, nhưng
phải thừa nhận rằng các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu mặt hàng gỗ của Việt
Nam vẫn còn nhiều hạn chế, năng lực từng doanh nghiệp còn yếu, quy mô sản xuất
còn nhỏ lẻ, việc tổ chức liên kết hợp tác sản xuất giữa các doanh nghiệp lại chưa
được triển khai. Do thiếu vốn nên các doanh nghiệp chưa làm được những đơn hàng
lớn, thường bỏ qua các cơ hội làm ăn mang lại lợi nhuận cao. Một khó khăn khác, đó
là sự thiếu hụt nguồn nguyên liệu.Theo tính toán của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt
Nam, nguyên liệu dùng cho ngành chế biến gỗ hiện mới chỉ đáp ứng được 20%, số
còn lại phải phụ thuộc vào nhập khẩu.
1
Xuất phát từ những vấn đề lý luận trên và thực tiễn của toàn ngành, cùng với
nhận thức về tầm quan trọng của ngành hàng gỗ xuất khẩu chuyên đề lấy đề tài: “
Xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam sang Hoa Kỳ- Thực trạng và giải pháp” làm chuyên
đề nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài: tập trung làm rõ 3 vấn đề
• Hệ thống hoá lý luận về xuất khẩu đồ gỗ
• Phân tích và đánh giá thực trạng xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam sang Hoa
Kỳ (2001-2006)
• Đề xuất định hướng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam
sang Hoa Kỳ trong giai đoạn mới
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu:
+ Lý luận chung về xuất khẩu đồ gỗ sang Hoa Kỳ và các nhân tố ảnh hưởng
đến xuất khẩu đồ gỗ sang Hoa Kỳ.
+ Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam sang Hoa Kỳ.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn đi sâu nghiên cứu xuất khẩu và đẩy mạnh xuất
khẩu đồ gỗ Việt Nam sang Hoa Kỳ giai đoạn 2001 đến 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm
phương pháp nghiên cứu cơ bản. Đồng thời trong từng nội dung cụ thể, luận văn sử
dụng các phương pháp thống kê, diễn giải và so sánh, dự đoán và phân tích tổng hợp
để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, đề tài được chia
làm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam sang Hoa
Kỳ.
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam sang Hoa Kỳ
Chương 3: Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu đồ gỗ của
Việt Nam sang Hoa Kỳ.
2
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ
VIỆT NAM SANG HOA KỲ
1.1 ĐỒ GỖ VÀ KHẢ NĂNG XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ CỦA VIỆT NAM
1.1.1 Những đặc điểm của sản phẩm đồ gỗ xuất khẩu
Đồ gỗ là tư liệu tiêu dùng truyền thống và rất gần gũi với cuộc sống loài người.
Đồ gỗ là sản phẩm rất gần gũi với cuộc sống với con người trong suốt quá trình
phát triển của lịch sử cho đến nay và là tư liệu tiêu dùng rất quen thuộc. Theo những
tài liệu đáng tin cậy, ngay từ thời kỳ đồ đá, người ta đã biết dùng cây gỗ để tạo dựng
nơi ở của mình, chế tác gỗ thành những công cụ sinh hoạt, lao động, vũ khí đi săn và
chiến đấu. Trong quá trình tiến hoá, gỗ và đồ gỗ ngày càng chiếm vị trí quan trọng
trong cuộc sống cộng đồng. Con người sử dụng gỗ ngày càng rộng rãi hơn và với
trình độ tinh xảo hơn. Khi con người phát minh ra kim loại thì cũng là bước đột phá
lớn của công nghệ chế biến gỗ gắn liền với sự phát triển chung của nền văn minh
nhân loại. Trong cuộc sống hiện đại, đồ gỗ có mặt ở khắp mọi nơi, trong mọi căn
nhà, mọi văn phòng, công sở, ở các công trình công cộng,.., và là tư liệu sinh hoạt
không thể thiếu đối với con người.
Đồ gỗ là sản phẩm có nguồn gốc thuần tuý từ tự nhiên
Không giống các sản phẩm công nghiệp, đồ gỗ có nguồn gốc thuần tuý từ tự
nhiên với chất liệu hoàn toàn từ thực vật.Gỗ sau khi được khai thác, qua các khâu chế
biến từ xẻ thô, tạo phôi đến tinh chế qua các công đoạn sử dụng công cụ lao động là
cơ khí hay thủ công, thành sản phẩm hoàn chỉnh. Tuy nhiên, toàn bộ quá trình đó
không làm thay đổi tính chất tự nhiên của gỗ mà chỉ làm thay đổi về hình dáng để
thoả mãn một giá trị sử dụng nhất định theo nhu cầu của con người. Cho dù trong đời
sống hiện đại, người ta có thể kết hợp chất liệu gỗ cùng các chất liệu khác như vải,
da, inox, nhựa...nhưng gỗ vẫn chiếm tỉ trọng lớn nhất và không thể thay thế trong sản
phẩm.
3
Đồ gỗ là sản phẩm mang tính nghệ thuật, phản ánh nét đặc trưng văn hoá.
Trong cuộc sống hàng ngày, con người không chỉ sử dụng gỗ để làm ra những
công cụ, vật dụng thông thường cho sinh hoạt vật chất mà còn sử dụng gỗ để sáng tác
nghệ thuật, thoả mãn khát khao sáng tạo, làm giàu thêm đời sống tinh thần. Đó chính
là các hoạt động điêu khắc, kiến trúc, thiết kế... Đây cũng là giai đoạn con người ghi
dấu ấn sâu đậm hơn của mình vào lịch sử và khắc hoạ nên nét đặc trưng văn hoá của
dân tộc mình.
Các sản phẩm đồ gỗ truyền thống đều mang đậm nét văn hoá của từng dân tộc
trên thế giới. Người Châu Âu, Châu Á, Châu Mỹ, Châu Phi, Châu Đại Dương đều có
những sản phẩm gỗ đặc trưng riêng. Nét riêng ấy không chỉ bắt nguồn từ sự khác
nhau về văn hoá của từng châu lục mà còn xuất phát từ đặc điểm khác nhau của từng
loại cây gỗ ở các vùng khí hậu, đặc điểm sinh trưởng và tính chất của từng chủng loại
gỗ.
Tuy nhiên, khi thế giới loài người đã đạt đến sự phát triển cao như ngày nay, sự
giao thoa văn hoá trong xu hướng hội nhập, tự do hoá thương mại toàn cầu, đồ gỗ
không còn dừng lại ở các vật phẩm tiêu dùng thông thường mà được nâng lên thành
những tác phẩm kiến trúc nghệ thuật, điêu khắc riêng có của từng quốc gia, từng khu
vực.
Đồ gỗ là sản phẩm vừa truyền thống, vừa hiện đại
Trong cuộc sống hiện đại, cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật- công nghệ, đặc
biệt là cách mạng công nghệ thông tin đã làm thay đổi căn bản cuộc sống loài người.
Bên cạnh xu hướng ưa thích các sản phẩm công nghệ cao như máy vi tính, điện thoại
di động, các thiết bị thông minh, tự động hoá, con người càng muốn bảo toàn những
giá trị tinh hoa truyền thống của các sản phẩm gỗ.
Đồ gỗ vừa mang tính gần gũi với thiên nhiên lại mang đậm nét nghệ thuật sang
trọng và quyến rũ. Cuộc sống càng hiện đại con người lại càng muốn quay về với
thiên nhiên. Sản phẩm gỗ đáp ứng được cùng một lúc nhiều nhu cầu của con người
trong cuộc sống hiện đại: thân thiện, gần gũi với thiên nhiên mà lại sang trọng, hiện
đại, nghệ thuật có tính thẩm mỹ và văn hoá cao.
4
Đồ gỗ đang là mặt hàng có mức tăng trưởng cao và có sức hút mạnh mẽ trên
thị trường thế giới.
Hiện nay, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm gỗ trên thế giới đang gia tăng rất nhanh,
bình quân 8%/năm. Các thị trường tiêu thụ gỗ lớn nhất thế giới tập trung ở các quốc
gia phát triển gồm Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản. Hiện Hoa Kỳ là quốc gia tiêu thụ đồ gỗ
nhiều nhất thế giới, tiếp theo là Đức, Pháp, Anh và Nhật Bản.
Trước tình hình đó, ngành công nghiệp chế biến đồ gỗ của thế giới đang phát
triển rất nhanh, cả về số lượng và chất lượng. Các quốc gia sản xuất đồ gỗ hàng đầu
thế giới hiện nay là Trung Quốc, Hoa Kỳ, Canada, Mexico, Đức...Các nước Đông
Nam Á là Indonesia, Malaysia, Việt Nam, Thái Lan...cũng đang nổi lên là quốc gia
xuất khẩu đồ gỗ tiêu biểu của thế giới.
1.1.2 Những lợi thế và tiềm năng xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam
Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam không ngừng gia tăng, có mặt
ở hơn 120 quốc gia và vùng lãnh thổ. Năm 2004 đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam được
ghi tên vào “ Câu lạc bộ 1 tỷ USD” và trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực quốc
gia. Đồng thời, mặt hàng này giúp tạo lập vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
khi các nhà nghiên cứu đưa Việt Nam vào danh sách “ Top 10 quốc gia xuất khẩu đồ
gỗ lớn nhất Châu Á” và “ Top 10 nước xuất khẩu đồ gỗ lớn nhất vào Mỹ”. Những lợi
thế và tiềm năng cơ bản là:
1.1.2.1Nguồn lao động dồi dào, khéo léo, giá rẻ
Việt Nam là một nước đông dân (trên 82 triệu dân) và có dân số trẻ (lực lượng
lao động chiếm trên 50%). Hiện cả nước có khoảng trên 2.000 doanh nghiệp, cơ sở
sản xuất- chế biến gỗ với lượng lao động trong toàn Ngành ước tính hơn 250.000
người, chiếm 0,16% lực lượng lao động nhưng lại tạo ra được 3,85% tổng kim ngạch
xuất khẩu cả nước tính trong năm 2004.
Do trình độ phát triển kinh tế chưa cao nên chi phí lao động ở Việt Nam tương
đối rẻ, chỉ bằng 1/3 giá lao động ở Thái Lan, 1/100 so với lao động ở Châu Âu. Chi
phí nhân công trung bình trong Ngành công nghiệp chế biến gỗ đang ở mức 0,2-0,5
USD/ giờ. Lực lượng lao động này rất dồi dào và khéo tay, có khả năng tiếp thu
5
nhanh khoa học công nghệ. Chính yếu tố này đã giúp cho hàng Việt Nam có được
chất lượng cao tương đối và đủ điều kiện cạnh tranh về giá để bước vào các thị
trường như Hoa kỳ, EU và Nhật Bản. Đặc thù trong Ngành chế biến gỗ, nguyên liệu
và công nghệ sản xuất chiếm khoảng 60-70% giá trị chế biến, phần còn lại là do tay
nghề của người lao động tạo ra. Các sản phẩm của Việt Nam có tính vượt trội về độ
tinh xảo so với các sản phẩm sản xuất cùng loại được sản xuất từ Trung Quốc,
Malays, Indonesia..khi chúng được sản xuất trên cùng một dây truyền công nghệ.
Hơn nữa, tay nghề người lao động giúp giảm tỷ lệ phế phẩm, nâng cao hiệu quả
của quá trình sản xuất.Trong khi đó, tỷ lệ phế phẩm trong Ngành sản xuất - chế biến
sản phẩm gỗ thế giới là khá cao.
1.1.2.2Giàu tiềm năng về gỗ nguyên liệu
Việt Nam có ¾ diện tích lãnh thổ là đồi núi nên tài nguyên rừng cực kỳ phong
phú với rất nhiều loại gỗ quý. Tuy không thể so sánh về quy mô với những cánh rừng
nhiệt đới rậm rạp của Indonesia, Malaysia nhưng lợi thế về rừng của Việt Nam hơn
hẳn Trung Quốc, và nếu xét về chủng loại, chất lượng thì cũng không thua kém gì
rừng Indonesia, Malaysia.Năm 1943, tổng diện tích rừng nước ta vào khoảng 14,3
triệu ha.
Đặc điểm của gỗ rừng tự nhiên là gỗ cứng, màu sắc, hoa văn đẹp, độ bền cao
rất thích hợp cho sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ. Tuy nhiên, những năm gần đây Ngành
hàng này phát triển quá “nóng” nên tài nguyên rừng nhanh chóng bị cạn kiệt. Theo
cục phát triển Lâm nghiệp Việt Nam: năm 2001, tổng diện tích rừng chỉ còn khoảng
11,3 triệu ha, với trữ lượng hơn 550 triệu m
3
gỗ và 750 tỷ cây tre nứa, độ che phủ
33,2% và diện tích đất không có rừng vào khoảng 8 triệu ha. Theo tính toán của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, để đạt được 1 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu sản
phẩm gỗ cần tới 3 triệu m
3
gỗ tròn nguyên liệu / năm. Nhưng nhà nước ta đã giới hạn
khai thác gỗ rừng tự nhiên chỉ khoảng 300.000 m
3
gỗ mỗi năm trong giai đoạn từ
2000-2010 để bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Những năm gần đây do gia
tăng mạnh xuất khẩu nhà nước đã cho phép khai thác tới 900.000 m
3
như vậy vẫn
thiếu hụt khoảng trên 2 triệu m
3
gỗ tròn. Bởi vậy nguồn nguyên liệu cho sản phẩm gỗ
6
xuất khẩu chuyển hướng từ chỗ dựa vào rừng tự nhiên là chính sang dựa vào nguồn
gỗ nhập khẩu và gỗ rừng trồng. Gỗ rừng trồng có đặc điểm là lớn nhanh, năng suất
cao, chóng tái sinh rất thích hợp cho sản xuất các loại ván ghép thanh, ván ép, ván
MDF, ván dăm…và làm nguyên liệu cho ngành giấy. Đây là những loại nguyên liệu
nhân tạo để sản xuất đồ gỗ công nghiệp xuất khẩu như ván sàn, đồ nội thất, bàn ghế
ngoài trời, thay thế một phần cho gỗ tự nhiên. Năm 1998, Chính phủ ta đã ra quyết
định về thực hiện chương trình trồng 5 triệu ha rừng, trồng mới 3 triệu ha rừng kinh
tế trong đó có 2 triệu ha rừng lấy gỗ và 1 triệu ha cây công nghiệp (bao gồm cả cao
su), nhằm tăng độ che phủ rừng đồng thời tạo nguồn nguyên liệu ổn định đầu vào
cho Ngành hàng gỗ. Một tiềm năng lớn đáng chú ý xét vế cơ cấu gỗ có tỷ trọng rất
cao về gỗ giá trị như gỗ quế, hương, lim. Việt Nam vẫn tạm nhập nguyên liệu gỗ từ
hai nước giàu tiềm năng về gỗ nguyên liệu là Indonesia và Malaysia. Lợi thế của
Việt Nam là ở gần hai nước này nên chi phí vận chuyển thấp, cùng là thành viên
ASEAN nên thuế suất nhập khẩu ưu đãi hơn các nước khác.
1.1.2.3Làng nghề gỗ mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam với đông đảo đội
ngũ nghệ nhân có tay nghề tinh xảo
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hiện có 1.400 làng
nghề truyền thống trải khắp lãnh thổ Việt Nam trong đó có khoảng 342 làng nghề gỗ
mỹ nghệ truyền thống với sự phát triển mạnh mẽ cả về lượng và chất song hành với
Ngành công nghiệp gỗ chế biến. Những làng nghề lớn và nổi tiếng như Vân Hà (Hà
Nội), Hữu Bằng, Dư Vụ, Vạn Điểm, Chuyên Mỹ, Nhị Khê (Hà Tây), Bích Chu (Vĩnh
Phúc), Đồng Kỵ (Bắc Ninh), La Xuyên (Nam Định)... Các cơ sở sản xuất, xuất khẩu
đồ gỗ có xu hướng tập trung về những thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh hay ngay tại các làng nghề. Việc phân bổ rộng khắp và khá đồng đều của các
cơ sở sản xuất, chế biến gỗ từ miền Đông Nam bộ đến Trung Trung bộ, gần hệ thống
giao thông, đặc biệt là các cảng biển là một trong những yếu tố quan trọng để phát
triển ngành gỗ.
Đồ gỗ truyền thống Việt Nam được đánh giá rất cao bởi tính nghệ thuật độc
7
đáo, mang đậm hồn Việt mà phản ánh nét tài hoa duyên dáng riêng có, được bạn bè
quốc tế rất ưa chuộng. Đồ gỗ truyền thống của Việt Nam tập trung chủ yếu ở đồ gỗ
mỹ nghệ với chất liệu chế tác là các loại gỗ rừng tự nhiên có chất lượng cao từ những
loại gỗ quý như trắc bá, lim, giáng hương, cẩm lai, sao, sến, táu…Song giá trị chủ
yếu kết tinh trong sản phẩm gỗ mỹ nghệ lại nằm trong lao động nghệ thuật của các
nghệ nhân làm ra các sản phẩm. Đó là những nét văn hoa trạm trổ, nét sơn mài, khảm
đồi mồi trên sản phẩm, nét vân gỗ được bàn tay khéo léo của người thợ thể hiện trên
sản phẩm. Đồ gỗ mỹ nghệ của Việt Nam được khách hàng đánh giá là độc đáo, tinh
xảo rất đặc trưng, có sức quyến rũ, đậm đà bản sắc văn hoá Việt.
1.1.2.4Vị trí địa lý, khí hậu nhiệt đới thuận lợi cho phát triển rừng (rừng tự
nhiên và rừng trồng)
Vùng Tây nguyên rộng lớn với đất đỏ bazan dọc theo dãy Trường Sơn rất thuận
lợi cho tăng trưởng và tái tạo rừng, cho nên nguồn rừng tự nhiên mặc dù trữ lượng
không cao song do tiềm năng lớn đối với phát triển rừng trồng trong thời gian ngắn
nhất là cây cao su, cây pơ-mu, chỉ cần 4 năm tăng trưởng là có thể khai thác trong khi
tại Bắc Âu phải cần tới 30 năm.
1.1.2.5Môi trường đầu tư và kinh doanh chung
Mức độ mở cửa của nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua gia tăng đáng
kể, song song đó là những biện pháp, chính sách tích cực nhằm cải thiện môi trường
đầu tư trong nước. Chỉ tính riêng trong năm 2005, Việt Nam đã sửa đổi và thông qua
29 luật.
Các chỉ tiêu kinh tế khác của Việt Nam cũng khá tốt. Vốn đầu tư trực tiếp của
nước ngoài chiếm tới 20% các nguồn vốn đầu tư cần thiết của Việt Nam. Tốc độ tăng
trưởng GDP của quốc gia đảm bảo đạt trung bình năm trên 7,5%, lạm phát khống chế
dưới hai con số, bội chi ngân sách nhà nước kiểm soát dưới 5% GDP, kim ngạch xuất
khẩu đạt gần 60% GDP… theo đánh giá khách quan Việt Nam đã đang và sẽ trở
thành một đối tác ít rủi ro hơn đối với đối tác doanh nhân các nước.
1.1.2.6 Ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam đang trong giai đoạn tăng
8
trưởng nhanh
Đồ gỗ đã trở thành một trong 6 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất quốc
gia, đưa Việt Nam thành một trong 4 quốc gia xuất khẩu hàng gỗ chế biến lớn nhất ở
khu vực Đông Nam Á.
Xét về năng lực chế biến, hiện nay cả nước có hơn 2.000 doanh nghiệp chế biến
gỗ với năng lực chế biến 2,2 - 2,5 triệu m3 gỗ tròn/năm phục vụ xuất khẩu (gồm 450
công ty chuyên sản xuất hàng xuất khẩu: 120 công ty chuyên sản xuất hàng ngoài
trời, 330 công ty chuyên sản xuất hàng nội thất).
Xét về cơ cấu sơ hữu vốn, tham gia vào chế biến gỗ xuất khẩu có 374 doanh
nghiệp Nhà nước, 49 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài từ Singapore, Đài
Loan, Malaysia, Na Uy, Trung Quốc, Thụy Điển… với tổng vốn đăng ký trên 105
triệu USD.
Xét về cơ cấu lãnh thổ, hầu hết các doanh nghiệp chế biến gỗ đều tập trung ở 3
vị trí:
Thứ nhất, tại các thành phố lớn có nhiều điều kiện thuận lợi về đầu tư công
nghệ, hoàn thiện quy trình chế biến, là các trung tâm giao dịch xuất nhập khẩu của cả
nước và khu vực, có các khu chế xuất, khu công nghiệp đang hoạt động hiệu quả như
là Tp. HCM, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu
Hiện nay, Tp.HCM đã trở thành trung tâm chế biến gỗ lớn nhất nước, với số
doanh nghiệp sản xuất chế biến chiếm trên 50% trong tổng số 2.000 doanh nghiệp và
chiếm 70% năng lực chế biến. Tính từ năm 2000 đến năm 2006, nếu kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam tăng trung bình 45 – 50%/năm, riêng Tp.HCM đạt tốc độ bình
quân 70%/năm. Tuy nhiên do phát triển quá nhanh, lao động lành nghề thiếu nghiêm
trọng, vay vốn khó khăn, 80% gỗ nguyên liệu chủ yếu nhập khẩu, rừng chỉ có khoảng
35 nghìn ha (trong khi Đông Nam bộ có gần 1,6 triệu ha) nên mới chỉ có khoảng 25%
số doanh nghiệp đổi mới dây chuyền hiện đại, phần lớn đang trong tình trạng bị
động, bấp bênh, có nguy cơ thua lỗ (do giá nguyên liệu gỗ tăng nhanh hơn 10% so
với giá bán thành phẩm), giá xăng dầu, điện nước tăng vọt
Thứ hai, khai thác nguyên liệu tại chỗ ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên
9
(Bình Định, Gia Lai, Đắc Lắc…)
Thứ ba, gần các làng nghề gỗ mỹ nghệ truyền thống (phía Bắc: khu vực đồng
bằng sông Hồng, Bình Dương, Đồng Nai).
Xét về quy mô sản xuất-chế biến, chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm
trên 80% có số vốn hoạt động dưới 30 tỷ đồng, số lao động dưới 300 người (xét theo
qui định của Chính phủ). Tuy nhiên các doanh nghiệp này rất năng động, linh hoạt
nắm bắt nhu cầu thị trường.
Xét về trình độ chế biến, tình hình chung là các doanh nghiệp đang tập trung
đầu tư hiện đại hóa quy trình công nghệ chế biến, kết hợp giữa thủ công và cơ khí
dựa vào phương thức thuê mua tài chính Leasing, tuy hiện nay chưa đáp ứng được
những đơn đặt hàng lớn trên 100 container 40 feet/tháng/doanh nghiệp nhưng cũng
thoả mãn được phần nhiều yêu cầu về chất lượng, mẫu mã sản phẩm.
Xét về cơ cấu sản phẩm gỗ chế biến hướng tập trung vào nâng cao tỷ trọng sản
phẩm có giá trị gia tăng cao, trình độ gia công cao hơn với kỹ thuật áp dụng công
nghệ tẩm, sấy trang bị đạt tiêu chuẩn đặt ra của nhà nhập khẩu, chuyên môn hóa theo
4 nhóm: mộc ngoài trời, mộc trong nhà, mộc mỹ nghệ, dăm gỗ.
Sắp tới đây Việt Nam sẽ triển khai sản xuất ván nhân tạo để làm hàng xuất khẩu
với nhà máy ván sợi MDF Gia Lai công suất 54.000m3 sản phẩm/năm, MDF Sơn La
15.000m3, MDF Bình Thuận 10.000m3, nhà máy ván dăm Thái Nguyên.
Như vậy, mục tiêu đến 2010 kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ đạt 5,5 tỷ
USD là hoàn toàn có tính khả thi.
1.2 NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ
1.2.1 Nghiên cứu thị trường xuất khẩu đồ gỗ
Trước khi tiến hành hoạt động xuất khẩu đồ gỗ, bao giờ doanh nghiệp cũng
phải nghiên cứu thị trường xuất khẩu cho sản phẩm của mình. Đây là việc làm hết
sức quan trọng và cần thiết bởi mặt hàng đồ gỗ đòi hỏi cao về thẩm mỹ cũng như đòi
hỏi phải phù hợp với các giá trị văn hoá, xã hội, khí hậu…Mục đích của việc nghiên
cứu thị trường xuất khẩu là để tìm ra triển vọng bán hàng cho mặt hàng đồ gỗ và
phương pháp để thực hiện mục tiêu xuất khẩu đó. Đây là quá trình thu thập thông tin,
10
số liệu về thị trường, so sánh, phân tích những số liệu đó và rút ra kết luận. Những
kết luận này sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cung cấp để thoả mãn nhu cầu
của thị trường, đồng thời, giúp doanh nghiệp biết được xu hướng và sự biến đổi nhu
cầu, thị hiếu của khách hàng cũng như phản ứng của họ đối với đồ gỗ của doanh
nghiệp mình.
Công tác nghiên cứu thị trường phải trả lời một số câu hỏi quan trọng sau đây:
+ Nước nào là thị trường có triển vọng đối với đồ gỗ của công ty?
+ Khả năng tiêu thụ đồ gỗ trên thị trường đó.
+ Những quy định và đòi hỏi của thị trường đối với đồ gỗ nhập khẩu?
+ Hệ thống phân phối, tiêu thụ đồ gỗ trên thị trường đó?
+ Tình hình cạnh tranh? Có hai phương pháp để nghiên cứu thị trường: phương
pháp nghiên cứu tại bàn (bao gồm việc thu thập thông tin từ các nguồn tư liệu, xuất
bản hay không xuất bản và tìm những nguồn đó) và phương pháp nghiên cứu tại hiện
trường (bao gồm việc thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc với mọi người
trên hiện trường). Phương pháp nghiên cứu tại bàn đỡ tốn kém và phù hợp với khả
năng của những doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường thế giới nhưng mức độ tin
cậy lại có hạn. Còn phương pháp nghiên cứu tại hiện trường lại ngược lại, mức độ tin
cậy cao nhưng tốn nhiều chi phí và công tác tổ chức nghiên cứu cũng phức tạp.
1.2.2 Lập phương án xuất khẩu đồ gỗ
Trên cơ sở những kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận thị
trường đồ gỗ, doanh nghiệp phải lập phương án xuất khẩu cho doanh nghiệp mình.
Phương án này là kế hoạch hoạt động nhằm đạt được những mục tiêu xác định từ
trước. Nội dung xác định phương án xuất khẩu bao gồm:
+ Đánh giá tình hình thị trường đồ gỗ xuất khẩu, khách hàng và môi trường
xuất khẩu.
+ Lựa chọn mặt hàng đồ gỗ, thời cơ, điều kiện và phương thức xuất khẩu cho
phù hợp với nhu cầu của thị trường.
+ Đề ra mục tiêu cụ thể về mặt hàng, giá cả, thị trường thâm nhập
+ Đề ra biện pháp và công cụ thực hiện.
11
+ Sơ bộ đánh giá hiệu quả của hoạt động xuất khẩu.
1.2.3 Tiến hành đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu đồ gỗ
Trong giao dịch ngoại thương, các bên thường có sự khác biệt về chính kiến,
pháp luật, tập quán, ngôn ngữ, tư duy truyền thống và quyền lợi. Sự khác biệt đó dẫn
đến xung đột và để giải quyết, các bên phải tiến hành đàm phán với nhau.
Đàm phán thương mại là quá trình trao đổi ý kiến của các chủ thể trong một
xung đột nhằm đi tới thống nhất cách nhận định, thống nhất quan niệm, thống nhất
cách xử lý các vấn đề nảy sinh trong quan hệ buôn bán giữa hai hoặc nhiều bên.
Những vấn đề thường trở thành nội dung của các cuộc đàm phán trong xuất khẩu đồ
gỗ là: tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng,bao bì đóng gói, giao hàng, giá cả,
thanh toán, bảo hiểm, bảo hành, khiếu nại, phạt và bồi thường thiệt hại, trọng tải,các
trường hợp bất khả kháng. Từ các cuộc đàm phán đó, các bên đi tới thống nhất về các
điều khoản trong hợp đồng xuất khẩu đồ gỗ và tiếp tục tiến hành việc soạn thảo và ký
kết hợp đồng kinh tế.
1.2.4 Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu đồ gỗ
Sau khi hợp đồng mua bán đồ gỗ đã được ký kết, doanh nghiệp xuất khẩu phải
tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Để thực hiện một hợp đồng xuất khẩu đồ gỗ, doanh
nghiệp xuất khẩu phải tiến hành các công việc sau đây:
- Giục mở L/C và kiểm tra L/C (nếu hợp đồng quy định sử dụng phương thức
thanh toán tín dụng chứng từ):
Tín dụng chứng từ là sự thoả thuận mà một ngân hàng theo yêu cầu của bên
mua, cam kết sẽ trả tiền cho bên bán hoặc cho bất cứ người nào theo lệnh của bên
bán, khi bên bán xuất trình đầy đủ các chứng từ và thực hiện đầy đủ các yêu cầu
được quy định trong một văn bản gọi là thư tín dụng – L/C.
- Chuẩn bị hàng hoá: Thực hiện cam kết trong hợp đồng xuất khẩu đồ gỗ, chủ
hàng xuất khẩu phải tiến hành chuẩn bị hàng xuất khẩu. Căn cứ để chuẩn bị hàng là
hợp đồng đã ký với nước ngoài hoặc L/C. Công việc chuẩn bị này gồm các khâu chủ
yếu sau:
+ Thu mua nguyên liệu: Do đặc điểm của mặt hàng đồ gỗ là sản phẩm của
ngành công nghiệp chế biến, nên để có được sản phẩm phục vụ cho xuất khẩu, đòi
12
hỏi trước tiên đối với doanh nghiệp là phải có đủ số lượng nguyên liệu (gỗ) cần
thiết.
+ Tổ chức chế biến đồ gỗ xuất khẩu.
+ Đóng gói bao bì và kẻ ký mã hiệu hàng xuất khẩu: Trong quá trình vận
chuyển, đồ gỗ cần phải được đóng gói bao bì cẩn thận. Yêu cầu chung về bao bì đóng
gói là “ an toàn, rẻ tiền và thẩm mỹ”. Điều này có nghĩa là: Bao bì phải đảm bảo sự
nguyên vẹn về chất lượng và số lượng hàng hoá từ nơi sản xuất đến tay người tiêu
dùng, phải đảm bảo hạ giá thành sản phẩm nhưng đồng thời phải đảm bảo thu hút sự
chú ý của người tiêu dùng.
Sau khi đóng gói bao bì xong, phải tiến hành kẻ ký mã hiệu cho hàng hoá. Kỹ
mã hiệu là những ký hiệu bằng chữ, bằng số hoặc bằng hình vẽ được ghi trên các bao
bì bên ngoài nhằm thông báo những chi tiết cần thiết cho việc giao nhận, bốc dỡ hoặc
bảo quản hàng hoá.
Ký mã hiệu cần phải bao gồm: những ký hiệu cần thiết đối với người nhận
hàng, những chi tiết cần thiết cho việc tổ chức vận chuyển hàng hoá, những dấu hiệu
hướng dẫn cách xếp đặt, bốc dỡ và bảo quản hàng hoá trên đường vận chuyển.
- Kiểm tra chất lượng hàng hoá
Trước khi giao hàng, nhà xuất khẩu có nghĩa vụ kiểm tra hàng về phẩm chất, số
lượng, trọng lượng, bao bì. Việc kiểm tra được tiến hành ở hai cấp: cơ sở và cửa
khẩu, trong đó việc kiểm tra ở cơ sở có vai trò quyết định nhất và có tác dụng triệt để
nhất. Còn việc kiểm tra hàng hoá ở cửa khẩu có tác dụng thẩm tra lại kết quả kiểm tra
ở cơ sở và thực hiện thủ tục quốc tế.
- Thuê tàu lưu cước (Nếu điều kiện cơ sở giao hàng là CIF hoặc CFR)
- Làm thủ tục hải quan: Gồm 3 bước chủ yếu sau:
+ Khai báo hải quan: Nội dung khai báo gồm: Loại hàng, tên hàng, số lượng,
khối lượng, trị giá hàng, tên phương tiện vận chuyển, đơn vị nhập khẩu, phần kê khai
thuế xuất khẩu và thuế giá trị gia tămg…
+ Mang hàng đến địa điểm quy định để hải quan kiểm tra thực tế
+ Thực hiện các quyết định của hải quan
13
- Giao hàng lên tàu.
Mặt hàng đồ gỗ thường được vận chuyển bằng đường biển. Khi đó, chủ hàng
phải tiến hành các công việc sau: Đăng ký hàng chuyên chở cho người vận tải, trao
đổi với cơ quan điều độ cảng để nắm vững ngày giờ làm hàng, bố trí phương tiện
đem hàng vào cảng, xếp hàng lên tàu, lấy biên lai thuyền phó và đổi lấy vận đơn
đường biển.
- Làm thủ tục thanh toán.
Kết thúc giao hàng người bán sẽ phải làm các thủ tục thanh toán theo đúng yêu
cầu của ngân hàng phù hợp với phương thức thanh toán lựa chọn. Công việc này chủ
yếu liên quan đến lập bộ chứng từ thanh toán và xuất trình chứng từ thanh toán cho
ngân hàng trong thời hạn quy định.
1.2.5 Đánh giá kết quả thực hiện hợp đồng xuất khẩu đồ gỗ
Việc đánh giá kết quả thực hiện hợp đồng xuất khẩu đồ gỗ góp phần giúp doanh
nghiệp xuất khẩu xác định chính xác hiệu quả của hoạt động xuất khẩu cũng như rút
kinh nghiệm về những hạn chế và nhược điểm gặp phải trong quá trình thực hiện hợp
đồng xuất khẩu. Mặt khác, qua việc đánh giá kết quả thực hiện hợp đồng, các doanh
nghiệp xuất khẩu sẽ có được những hiểu biết và đánh giá được khả năng của phía đối
tác trong thực hiện hợp đồng.Những kết luận rút ra từ việc đánh giá rất hữu ích và
cần thiết cho doanh nghiệp trong việc chuẩn bị và thực hiện các hợp đồng xuất khẩu
tiếp theo.
1.3 THỊ TRƯỜNG ĐỒ GỖ HOA KỲ VÀ NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN ẢNH HƯỞNG
ĐẾN XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ SANG HOA KỲ
1.3.1 Nghiên cứu khái quát về thị trường đồ gỗ Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới. Tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) đạt gần 13 nghìn tỷ USD, chiếm khoảng 31% GDP toàn cầu. Kim ngạch
xuất, nhập khẩu của Hoa Kỳ chiếm khoảng 25% GDP, lớn nhất thế giới. Năm 2006,
Hoa Kỳ xuất khẩu hàng hoá trị giá hơn 1 nghìn tỷ USD, nhập khẩu trị giá 1,8 nghìn
tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ liên tục tăng trong các năm gần đây,
đạt 3,5% năm 2006, tăng 4 lần so với 0,8% năm 2001.
14
HIện nay, Hoa Kỳ là nước nhập khẩu gỗ, sản phẩm gỗ và đồ gỗ nội thất hàng đầu
thế giới, hàng năm nước này nhập một khối lượng trên 40 tỷ USD đồ gỗ và gỗ nội thất.
Năm 2002 Hoa Kỳ nhập khẩu khoảng gần 16 tỷ USD gỗ và sản phẩm gỗ (HTS44) và 27
tỷ đồ nội thất và đồ gỗ (HTS 94). Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu Công nghiệp đồ
nội thất (Furniture Inducstry Research Institure) sức tiêu thụ đồ nội thất ở Mỹ sẽ tăng
25,5% trong giai đoạn 2000-2010, đạt mức 80,04 tỷ USD năm 2010.
Qua bảng 1.1, kim ngạch nhập khẩu đồ nội thất của Hoa Kỳ mã HTS 94 nhìn chung
tăng qua các năm từ 2001, với mức tăng bình quân giai đoạn 2001-2006 là 12,7%
Bảng 1.1: Kim ngạch nhập khẩu đồ gỗ và nội thất của Hoa Kỳ
mã HTS 94 giai đoạn 2001-2006.
Đvt: tỷ USD
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Kim ngạch 23,2 26,7 29,7 33,8 38 47,5
% tăng trưởng 15 11 13,5 11,3 12,5
Nguồn: Bộ thương mại Mỹ
Tình hình đó cũng diễn ra tương tự đối với mã HS-9403 (đồ nội thất bằng gỗ).
Kim ngạch nhập khẩu đồ gỗ mã HS-9403 tăng liên tục từ năm 2001 đến nay với tốc
độ tăng bình quân khá cao. Kim ngạch nhập khẩu đồ gỗ nội thất của Mỹ năm 2004
chiếm gần 40% mức nhập khẩu đồ gỗ nội thất toàn cầu (hơn 35,5 tỷ USD).
Bảng 1.2: Kim ngạch nhập khẩu mặt hàng đồ gỗ mã HS-9403
của Mỹ giai đoạn 2001-2006
Đvt: tỷ USD
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Kim ngạch 10 11,6 12,8 14,4 16,5 19
% tăng trưởng 16 10,3 12,5 14,6 15,2
Nguồn: Bộ thương mại Mỹ
Phân tích cơ cấu mặt hàng gỗ nhập khẩu của Mỹ cho thấy những mặt hàng nhập
khẩu lớn nhất là: bàn ghế gỗ (chiếm 15% nhập khẩu của nhóm HTS94), phụ tùng ghế
dùng cho xe cộ bằng kim loại (13%), đồ gỗ nhà bếp (8%), bàn ghế văn phòng (7%),
gỗ tùng bách (39% nhập khẩu của nhóm HTS44). Phần lớn nhóm hàng gỗ và gỗ chế
15
biến được nhập khẩu để phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa, một phần được chế biến
để xuất khẩu và tái xuất khẩu.
Các quốc gia xuất khẩu chủ yếu gỗ và sản phẩm gỗ vào thị trường Mỹ bao gồm:
Trung Quốc chiếm phần lớn thị phần (khoảng 37%), Canada đứng thứ hai (18%) và
Mehico đứng thứ ba (17%).
Không chỉ nhập khẩu, Mỹ cũng là nước xuất khẩu gỗ và đồ gỗ hàng đầu thế
giới và ngành công nghiệp gỗ của Mỹ cũng rất năng động. Tổng số các công ty chế
biến gỗ ở Mỹ lên tới 86.000 công ty, trong đó có khoảng 19.000 công ty sản xuất gỗ,
53.000 công ty sản xuất đồ gỗ và 14.000 công ty chế tạo nội thất. Oregon là bang sản
xuất đồ gỗ lớn nhất của Mỹ, trong khi bang North Caronia là bang sản xuất đồ gỗ nội
thất lớn nhất. Ngành công nghiệp gỗ của Mỹ rất chủ động trong việc xuất khẩu và
kim ngạch xuất khẩu trung bình hàng năm đạt 5-6 tỷ USD. Tuy nhiên, trong những
năm gần đây, mức độ năng động của ngành công nghiệp gỗ bị giảm sút, nguyên nhân
chủ yếu là vì hàng hoá Mỹ bị đội giá do giá lao động cao và tỷ giá đô la Mỹ ngày
càng cao so với nhiều đồng tiền khác.
1.3.2 Xu hướng tiêu dùng đồ gỗ của người Mỹ
Người Mỹ không quan tâm nhiều đến chất liệu, màu sắc có tự nhiên hay không,
họ cần hoàn thiện sản phẩm một cách chu đáo, phong cách trang trí đơn giản và màu
sắc thích hợp, thể hiện qua cách đánh bóng, độ mịn bề mặt, bản lề và các phụ kiện
chắc chắn, độ khít sản phẩm, đóng mở tiện lợi dễ dàng.
Phong cách trang trí đóng một vai trò hết sức quan trọng để họ quyết định có
nên mua hay không. Hầu hết thiết kế nhà của người Mỹ đều mang phong cách hiện
đại nên đồ trang trí nội thất cũng phải phù hợp với phong cách đó. Hàng đồ gỗ chạm
khảm hoa lá hiếm khi thấy xuất hiện trên thị trường Mỹ, thậm chí những đường cong,
đường uốn cũng phải được giảm thiểu một cách tối đa. Trang trí chủ yếu là các
đường thẳng chìm hoặc nổi và các nắm tay cầm to hình tròn bằng gỗ hoặc bằng đồng.
Tất cả đều đi thành bộ với nhau như giường, bàn ghế, tủ áo quần, tủ đựng thuốc…
Một số sản phẩm rất được ưa chuộng gần đây là các loại tủ nhiều ngăn (4-6 ngăn) có
tay cầm hình tròn, khung ảnh và khung gương to bản…
Nói chung thị trường Mỹ không quá khó tính và nhiều khi mẫu mã sản phẩm đã
16
cũ kỹ đối với bang này nhưng lại bán rất chạy khi chuyển đến bang khác. Ngoài ra,
cách phân phối hàng thường kết hợp giữa việc bán hàng trên mạng và phân phối tại
các hệ thống cửa hàng bán lẻ nên các nhà nhập khẩu thường yêu cầu đối tác có khả
năng cung cấp số lượng lớn và rút ngắn thời gian giao hàng.Nếu một lô hàng sản xuất
mất hai tháng, thì thời gian từ khi đặt hàng đến tay người nhận và tung ra thị trường
mất khoảng từ 4-5 tháng là quá lâu, nhiều doanh nhân Mỹ yêu cầu rút ngắn thời gian
sản xuất một lô hàng xuống còn 20-25 ngày.
Bên cạnh đó, người tiêu dùng Mỹ cũng thích đồ gỗ làm từ nguyên liệu gỗ cứng,
tốt nhất là gỗ của Bắc Mỹ hơn là đồ gỗ làm từ các loại gỗ mềm.Tuy nhiên, theo kinh
nghiệm của một số doanh nghiệp chế biến đồ gỗ Việt Nam thì người tiêu dùng Mỹ
có vẻ ưa chuộng vẻ đẹp bên ngoài, họ không thích “ tốt gỗ hơn tốt nước sơn” mà
ngược lại “ tốt nước sơn hơn tốt gỗ”. Họ không cần các sản phẩm được làm bằng các
loại gỗ tốt như lim, gụ…mà chỉ cần gỗ cao su, gỗ thầu đâu, thậm chí là MDF (ván gỗ
ép) nhưng nước sơn phủ bên ngoài phải thật đẹp. Để đạt được nước sơn phủ lên các
sản phẩm đồ gỗ xuất khẩu sang Mỹ khá phức tạp, khó hơn nhiều so với yêu cầu của
các thị trường EU, thường để hoàn tất chu trình sơn một sản phẩm hoàn hảo cho thị
trường Mỹ có khi phải sơn đến 10 lần.
1.3.3 Những định chế và đòi hỏi của thị trường
1.3.3.1 Những vấn đề chung về hải quan
Nhìn chung hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ được phân thành 3 loại chủ yếu: hàng
hoá để sử dụng ngay, hàng hoá được lưu giữ trong kho hàng và hàng quá cảnh. Yêu
cầu nhập khẩu cho cả ba loại hàng này là như nhau, nhưng thời gian để hoàn tất các
thủ tục hải quan cho mỗi loại là khác nhau.
Để nhập khẩu hàng hoá, nhà nhập khẩu (thường là người mua hàng hay nhà môi
giới hải quan) ngoài việc phải trả một khoản lệ phí hải quan, phải trình những giấy tờ
khác gồm: Vận đơn, hoá đơn thương mại của nhà xuất khẩu, bản kê khai hàng hoá
chở trên tàu (mẫu hải quan số 7533) hoặc đơn xin và giấy phép đặc biệt cho giao
hàng ngay (mẫu hải quan số 3461), phiếu đóng gói
Theo quy định của Hải quan Mỹ, sau khi xuất trình các chứng từ trên, hàng hoá
sẽ được thông quan nếu không có vi phạm gì về pháp luật hoặc hành chính. Hồ sơ
17
nhập khẩu sẽ được lưu và thuế nhập khẩu ước tính phải được thanh toán trong vòng
10 ngày làm việc kể từ lúc giải phóng hàng hoá ở trạm hải quan được chỉ định.
Đối với mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ, các thủ tục rời bến được cho là quá nhiều
khó khăn cho các nhà xuất khẩu. Hải quan Mỹ đã thay đổi phân loại gỗ dán (HS
4412) và nhiều loại đã bị tăng thuế từ 0% lên 8%. Còn với hàng gỗ nội thất (HS94),
thủ tục hải quan không quá khó khăn. Việc nhập khẩu hàng gỗ và gỗ nội thất phụ
thuộc vào phạm vi điều chỉnh của các quy định chung như được xác định trong các
bộ luật của các quy định liên bang (các văn bản nhập khẩu- 19 CRF 141; điều tra Hải
quan – 19 CFR 151 và thuế Hải quan 19 CFR –159).
Tất cả hàng hoá được nhập vào Mỹ phải được dán nhãn xuất xứ. Hải quan Mỹ
có một yêu cầu chung cho việc ghi nước xuất xứ vào tất cả các mặt hàng ngoại nhập
vào Mỹ. Các mặt hàng này phải được dãn nhãn dễ đọc với tên tiếng Anh của nước
xuất xứ trừ phi pháp luật có quy định khác. Trong các sản phẩm gỗ, chỉ gỗ xẻ, rào gỗ,
gỗ lát nền là không cần dán nhãn xuất xứ. Nhãn mác xuất xứ phải dễ đọc và phải dán
ở mặt dễ nhận thấy, đồng thời phải khó tẩy xoá và lâu bền cùng sản phẩm. Tuy nhiên
bất kỳ một biện pháp hợp lý trong dãn nhãn đều được chấp nhận kể cả mác dính. Chỉ
có một điều kiện duy nhất là mác dính đó phải luôn dính trên sản phẩm và chỉ có thể
bị phá huỷ bởi các hành động có chủ tâm.
Các hàng hoá được yêu cầu phải dán nhãn xuất xứ nếu nhập vào Mỹ mà không
có nhãn mác xuất xứ sẽ phải nộp thuế phụ thu hoặc bị phá huỷ theo yêu cầu điều của
hải quan trước khi đưa vào Mỹ. Các nhà xuất khẩu nên dán nhãn xuất xứ vào sản
phẩm một cách chính xác để tránh bị phạt và nộp phí bổ sung tại Hải quan. Thông
thường, trong các trường hợp này mức phạt vào khoảng 10% (áp dụng 19CFR 134)
1.3.3.2 Quy định về thuế và thuế nhập khẩu
Mức thuế ở Mỹ nói chung là thấp. Đối với đồ gỗ thuộc mã HS44, thuế quan
thay đổi từ 0-10,7%. Trên thực tế, thuế đánh vào gỗ dán cao nhất (8 và 10,7%). Thuế
suất được áp dụng cho hàng gỗ nội thất (mã HS 94) đa số là 0% và có một số mặt
hàng đệm giường bằng lông vịt có mức thuế 9 và 13% (HTS 94043080 và 94049085
là 13%).
Một số công ty sản xuất gỗ làm sàn nhà đã phàn nàn về gánh nặng thuế phụ thu
18
đánh vào các nhà nhập khẩu, điều này sẽ làm tăng mức thuế nhập khẩu. Cụ thể:
+ Phí xử lý hàng hoá (MPF) (0,21%) theo giá FOB, trị giá từ 25 USD đến 485
USD. Phí này do Hải quan Mỹ và Puerto Rico thu
+ Thuế bảo quản cầu cảng (HMT) (0,125%) giá FOB.
+ Loại khác: Phí thanh quản và tiền đặt cọc (bond) nộp cho Hải quan
Biểu thuế nhập khẩu của Mỹ được đăng trên mạng của Uỷ ban Thương mại
Quốc tế của Mỹ là : www. usitc.gov.
1.3.3.3 Các chứng chỉ và tiêu chuẩn của Mỹ đối với mặt hàng đồ gỗ
Ổ rơm hay đồ bao bọc bằng gỗ khi nhập vào Mỹ phải có giấy chứng nhận vệ
sinh dịch tễ. Giấy chứng nhận này có thể do nhà xuất khẩu cung cấp. Giấy chứng
nhận cần xác nhận rằng các sản phẩm không bị nhiễm bệnh hay dịch của gỗ. Quy
định này do Văn phòng điều tra sức khoẻ động thực vật ban hành tại các điều khoản
của 7 CFR 300 và 7 CFR 319. Giấy chứng nhận xử lý nhiệt cũng được yêu cầu đối
với việc nhập khẩu các nguyên liệu đóng gói bằng gỗ.
Hiệp hội ngành gỗ CEI Bois đã chuyển đến ban tư vấn những phàn nàn liên
quan đến các khó khăn mà các thành viên gặp phải trong việc tuân thủ một số tiêu
chuẩn của Mỹ:
+ Gỗ thông xẻ khung: chất lượng của các bộ phận của gỗ xẻ phải được Uỷ ban
tiêu chuẩn gỗ Mỹ thử nghiệm và công nhận trên cơ sở vị trí địa lý của khu vực trồng.
+ Gỗ thông đã được cưa (HS 4407): Hệ thống ALS yêu cầu kiểm tra kỹ thuật
thiết yếu và giám sát chất lượng hàng tháng tại xưởng cưa đối với cấp độ xây dựng.
+ Gỗ ván sàn: Chi phí vận tải cao hơn do việc hạn chế khối lượng vận tải (21
tấn/xe chở). Theo các nhà xuất khẩu và nhập khẩu của Mỹ, quy định vận tải của Mỹ
không cho phép các xe có trọng lượng vượt quá 21 tấn.
Ngoài ra còn những vấn đề khác như: các quy tắc vệ sinh dịch tễ và các yêu cầu
về chứng chỉ vệ sinh dịch tễ đối với đồ gỗ nội thất được nhồi đệm quá phiền phức
hay các quy định kiểm tra gỗ thông của Mỹ khác với quy định của EU.
Các công ty nhập khẩu chủ yếu phàn nàn về các quy tắc phân loại gỗ. Chương
trình phân cấp gỗ này do Uỷ ban tiêu chuẩn gỗ Mỹ (ALSC) thực hiện. Uỷ ban này
bao gồm các nhà sản xuất, phân phối, sử dụng và người tiêu dùng, hoạt động như một
uỷ ban thường trực về tiêu chuẩn gỗ thông của Mỹ (tiêu chuẩn sản phẩm tự nguyện
19
PS 20). Uỷ ban này cũng phụ trách quản lý các chương trình uỷ nhiệm phân loại cấp
bậc gỗ được sản xuất theo PS20. Hệ thống tiêu chuẩn gỗ của Mỹ (ALS) là một bộ
phận thống nhất của nền kinh tế công nghiệp gỗ, là cơ sở cho giao dịch thương mại
của tất cả các loại gỗ thông tại khu vực Bắc Mỹ. Hệ thông này cũng đưa ra các tiêu
chuẩn chấp thuận gỗ và giá trị kiểu dáng gỗ thông qua việc xây dựng một bộ luật
chung cho toàn liên bang.
Như đã ghi nhận ở trên, chức năng của hệ thống ALS là để đảm bảo các tiêu
chuẩn gỗ thông của Mỹ. Uỷ ban ALSC theo thủ tục phát triển các tiêuc chuẩn hàng
hoá một các tự nguyện của Bộ Thương mại Mỹ, thông qua quá trình đồng thuận sẽ
thiết lập các tiêu chuẩn kích cỡ, các khoản điều tra, các chính sách, các yêu cầu dán
nhãn phân loại và các chế tài cho chương trình chứng nhận. Các hoạt động trên được
Uỷ ban ALSC thực hiện hoặc thông qua khuôn khổ do ALSC, PS20 và Uỷ ban quy
tắc phân loại quốc gia(NGRC) thành lập. Uỷ ban NGRC là một cơ quan có thẩm
quyền hoạt động theo quyết định của ALSC trong một số lĩnh vực cụ thể liên quan
đến việc đảm bảo các quy tắc phân loại quốc gia cho hàng gỗ kích thước lớn.
Thậm chí nếu các tiêu chuẩn của ALDS có vẻ như không bắt buộc thì các nhà
xuất khẩu hàng vào Mỹ cũng nên xem xét việc tôn trọng các tiêu chuẩn của Mỹ để
tiêu thụ hàng hoá của mình tại Mỹ. Việc tôn trọng các tiêu chuẩn này sẽ gây ra các
chi phí bổ sung cho các công ty xuất khẩu, bởi vì họ sẽ phải tiền hành những bước
thử nghiệm mới và phải lắp đặt máy móc mới.
Theo chính sách đối với gỗ ngoại nhập của ALSC, các văn phòng công ty nước
ngoài có thể được chứng nhận, phân loại hàng gỗ. Đối với gỗ có nguồn gốc nước
ngoài được phân loại theo hệ thống ALSC. Việc phân loại phải được thực hiện trên
cơ sở các thủ tục đã được ALSC quy định và các quy định phân cấp quốc gia cho gỗ
có kích thước lớn hoặc quy tắc phân loại do Văn phòng hoạch định quy tắc Mỹ ban
hành.
Cùng với chương trình chứng nhận gỗ chưa được xử lý, Uỷ ban ALSC cũng
quản lý chương trình dán nhãn chất lượng cho gỗ đã qua xử lý được sản xuất theo
tiêu chuẩn do Hiệp hội bảo tồn gỗ Mỹ ban hành và giám sát, chương trình dán nhãn
20
gỗ nguyên liệu đóng gói không có nguồn gốc công nghiệp do Hiệp ước bảo vệ gỗ
quốc tế quy định. Từ tháng 7/2001, chương trình đóng gói gỗ không có nguồn gỗ
công nghiệp đã được áp dụng
Theo một số công ty, cần phải bỏ nhiều chi phí để đáp ứng các tiêu chuẩn phân
loại của Mỹ. Để có thể xuất khẩu gỗ chưa được xử lý sang Mỹ, các tiêu chuẩn của
Mỹ yêu cầu tiệt trùng cụ thể và các thiết bị để tiệt trùng lại rất đắt. Hơn thế, máy móc
thiết bị sản xuất phải được văn phòng do Mỹ uỷ quyền kiểm tra. Các công ty thường
miễn cưỡng xuất trình kỹ thuật này bởi họ không biết liệu công việc kinh doanh của
mình với Mỹ có thành công hay không. Canada cũng áp dụng quy định tương tự và
chính tình trạng này đã làm hạn chế việc xuất khẩu của các nước vào thị trường Bắc
Mỹ.
1.3.3.4Quy tắc về dán nhãn
Hàng gỗ nội thất cần được dán nhãn theo đúng luật dán nhãn và đóng gói hợp lý
CFR, mục 500-503.
Luật dán nhãn và đóng gói hợp lý yêu cầu mỗi kiện hàng hoá tiêu dùng dành
cho hộ gia đình phải mang nhãn hiệu hàng hoá, theo đó:
+ Tuyên bố xác định hàng hoá
+ Tên và địa chỉ của nơi sản xuất, đóng gói hoặc phân phối
+ Khối lượng tịnh của sản phẩm về mặt trọng lượng, kích thước hay số đếm
(kích thước phải được đo bằng đơn vị inch và cm)
Liên quan đến đồ nội thất gia đình, Uỷ ban Thương mại Liên bang đã thông qua
một hướng dẫn cho ngành công nghiệp đồ gỗ gia dụng. Hàng nội thất và các bộ phận
của nó phải tuân thủ với các quy định cụ thể với mục đích bảo vệ người tiêu dùng.
Hướng dẫn này dự báo từng nhãn hàng hoá cụ thể miêu tả đồ gỗ và hàng nhái cũng
như nhãn hiệu liên quan đến đặc điểm của hàng hoá. Nhãn hiệu cần chứa đựng các
thông tin về kiểu dáng và nguồn gốc xuất xứ hàng hoá. Hướng dẫn này cũng điều
chỉnh việc sử dụng một số thuật ngữ cụ thể. Thông tin đầy đủ của cuốn hướng dẫn
này có thể tham khảo trên website của Uỷ ban Thương mại liên bang. Các quy định
21
này không bắt buộc phải tuân thủ đối với thủ tục Hải quan nhưng phải tuân thủ nếu
muốn bán hàng tại Mỹ.
Bên cạnh đó, đạo luật các chất có khả năng gây hại của Liên bang còn bổ sung
một số yêu cầu đối với hàng gỗ gia dụng dùng cho trẻ em (giường). Các nhà nhập
khẩu hàng nhồi đệm cần phải chú ý rằng một số nước đã quy định dán nhãn bổ sung
đối với đồ gỗ cho trẻ em hoặc các dạng khác của đồ gỗ nội thất.
1.3.3.5 Phân tích luật pháp
Các quy định của Mỹ về gỗ và đồ gỗ như sau:
HTS 44: gỗ và sản phẩm gỗ: Bao gồm gỗ củi, gỗ đốt lấy than, gỗ cây, gỗ vun,
mạt gỗ, gỗ làm đưòng ray, gỗ xẻ, gỗ băm, gỗ lạng, gỗ ván ép, gỗ ép từ vụn gỗ, gỗ
làm khung, gỗ đóng thùng hàng, gỗ mỏ, gỗ xây dựng, v.v.vvà các đồ dùng dụng cụ
bằng gỗ, như mắc áo, đồ gỗ nhà bếp.v.v..
Đối với danh mục này việc nhập khẩu phải:
+ Phù hơp với quy định của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) về giám định hàng
tại cảng đến.
+ Phù hợp với luật liên bang về sâu bệnh ở cây.
+ Phù hợp với luật cách ly và kiểm dịch.
+ Phù hợp với quy định của Hội đồng thương mại liên bang (FTC) và Hội
đồng an toàn tiêu dùng (nếu là hàng tiêu dùng)
+ Phù hợp với các quy định về lập hoá đơn (đối với một số hàng gỗ)
+ Phù hợp với các quy định của FWS về giấy phép nhập khẩu, giấy phép xuất
khẩu của nước xuất xứ, các quy định về tài liệu giao hàng và hồ sơ theo dõi (nếu là
gỗ quý hiếm).
+ Nhập vào cửa khẩu/cảng theo địa chỉ của FWS và phù hợp với các quy định
của FWS và Hải quan về việc thông báo hàng đến và giám định tại cảng đến (nếu
thuộc loại quý hiếm)
+ Nhập khẩu gỗ cây phải xin giấy phép của APHIS thuộc USDA.
+ Nhập khẩu gỗ quý hiếm phải ghi nhãn (Marking) rõ ràng bên ngoài container
22
tên và địa chỉ người xuất khẩu và người nhập khẩu, mô tả chính xác chủng loại gỗ.
Những văn bản pháp luật điều tiết chế độ nhập khẩu hàng hoá thuộc nhóm
HTS44:
Số văn bản Loại biện pháp sử dụng
Các cơ quan nhà nước điều
hành
15 USC 1263 Quy chế an toàn tiêu dùng APHIS,PPQ, FWS, USCS
16 USC 1531 Cấm nhập khẩu thịt thú dữ APHIS,PPQ, FWS, USCS
16 USC 3371 et seq
Cấm nhập khẩu động vật quý
nước khác cấm
APHIS,PPQ, FWS, USCS
18 USC 42 et seq Thủ tục khai báo Hải quan APHIS,PPQ, FWS, USCS
19 CFR 12.10 et seq Thủ tục khai báo Hải quan APHIS,PPQ, FWS, USCS
42 USC 151 et seq Vệ sinh dịch tễ APHIS,PPQ, FWS, USCS
7 CFR Part 351 Vệ sinh dịch tễ APHIS,PPQ, FWS, USCS
CITES
Cấm nhập khẩu động thực
vật quý hiếm
APHIS,PPQ, FW
HTS 94: Đồ nội thất: Bao gồm các loại ghế, đồ đạc dụng cụ trong bệnh viện;
các đồ đạc trong nhà, văn phòng, giường, tủ, bàn ghế, đệm; đèn và các tấm ngăn xây
dựng làm sẵn …Các đồ dùng này có thể làm hoàn toàn bằng kim loại, gỗ, nhựa, hay
làm khung có bọc da, vải hoặc các vật liệu khác.
Đối với danh mục hàng này, việc nhập khẩu phải:
+ Phù hợp các tiêu chuẩn sản phẩm tiêu dùng của Uỷ ban An toàn tiêu dùng
(CPSC) về an toàn tiêu dùng.
+ Đối với đệm: phù hợp với các tiêu chuẩn chống cháy theo luật về vải dễ cháy
FFA.
+ Đối với đồ thắp sáng gia dụng phải phù hợp các tiêu chuẩn Underwriter’s
Laboratory (UL),do CPSC quản lý.
+ Các đồ có thành phần là vải dệt phải ghi theo các quy định của TFPIA xác
định về nguồn gốc vải.
Số văn bản Loại biện pháp sử dụng Các cơ quan nhà
23