Tải bản đầy đủ (.docx) (112 trang)

Tội buôn bán hàng cấm trong luật hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh đắk lắk)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (772.88 KB, 112 trang )


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tỉnh
chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Hồng Bảo Thụy


MỤC LỤC
••

Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chừ viết tắt
Danh mục các bảng

2.1.

Thực tiên áp dụng pháp luật hình sự đơi với Tội bn bán
hàng cấm trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk tù’ năm 2016 đến



DANH MỤC CÁC CHỮ VIÉT TẮT

BLHS:

Bơ lt Hình sư
•••

TAND:

Tịa án nhân dân

TANDTC:

Tịa án nhân dân Tối cao
Trách nhiêm hình sư
••
Xã hội chủ nghĩa
Trật tự quản lý kinh tế

TNHS:
XHCN:
TTQLKT:


DANH MỤC CÁC BẢNG

số hỉêu

Tên bảng




Bảng 2.1

Thực trạng xét xử sơ thẩm Tội buôn bán hàng cấm trên đĩa
bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2016 đến năm 2020

Bảng 2.2


Cơ cấu Tội buôn bán hàng cấm trong thực tiễn xét xử sơ
thẩm trên đĩa bàn tỉnh Đắk Lắk từ 2016 - 2020

Bảng 2.3

Trang


Tình hình xét xử phúc thẩm Tội bn bán hàng cấm trên

49

51

đĩa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2016 đến năm 2020


54



MỞ ĐẦU
1.

Tính câp thiêt của đê tài
Mồi một quốc gia, tổ chức hay tập thể theo vĩ mô hay vi mơ đều có

những điều luật riêng nhằm duy trì sự phát triển vững mạnh. Một trong những
vấn đề mà hầu như quốc gia nào cũng đang kiểm sốt đó là nguồn hàng xuất
nhập khẩu và hàng cấm. Đó là vấn đề tất yếu và quan trọng mà mỗi quốc gia nói
riêng và tồn thế giới nói chung có sự liên kết cùng thực hiện. Trong những năm
gần đây cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội của đất nước, tình hình tội
phạm trên phạm vi tồn quốc có diễn biến ngày một phức tạp hơn, gia tăng về
số lượng với tính chất, mức độ nguy hiểm ngày càng cao, càng tinh vi, xảo
quyệt hơn. Công cuộc đối mới đã mang lại cho đất nước ta nhiều thành tựu quan
trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phịng và an ninh.
Với đường lối của Đảng và Nhà nước ta là đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành nước
cơng nghiệp theo hướng hiện đại, thốt khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại, thốt khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao đời sống vật chất


và tinh thần. Tuy nhiên đi cùng với sự phát triển là những mặt trái của nó. Đặc
biệt trong hoạt động kinh tế, với nhiệm vụ chính là sản xuất hàng hóa, tạo điều
kiện cho xã hội phát triển, kinh tế mang ý nghĩa quan trọng đối với đất nước
nhưng do đặc thù của nền kinh tế thị trường, do sức ép cạnh tranh và những yếu
kém trong quản lý kinh tế nên nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm về kinh tế có mơi
trường phát sinh, phát triển, và trở nên tinh vi, nguy hiểm hơn bao giờ hết, trong
đó có Tội bn bán hàng cấm.



Quyên tự do kinh doanh là một trong những quyên cơ bản của công dân
được nhà nước ghi nhận tại Điều 33 Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền
tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật khơng cấm”. Vì vậy
việc kinh doanh, sản xuất, bn bán là quyền của mỗi người thực hiện trong
phạm vi pháp luật cho phép và bảo vệ và được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên thực
tế hiện nay cho thấy bên cạnh hoạt động kinh doanh hợp pháp, các hoạt động
bất hợp pháp vẫn diễn ra và cịn có chiều hướng gia tăng, tạo nên sự mất cân đối
trên thị trường ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế và ảnh
hưởng tới tình hình an ninh trật tự. Trong quá trình phát triến nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, việc đấu tranh chống tội phạm nói chung và Tội
bn bán hàng cấm nói riêng đang là một trong những vấn đề cấp thiết đặt ra
mà Đảng, Nhà nước cùng các ngành, các cấp cần phải quan tâm giải quyết.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã quan tâm chỉ đạo sát sao cơng tác đấu
tranh phịng, chống tội phạm buôn bán hàng cấm. Các ngành, các cấp, đã có
nhiều cố gắng triển khai các biện pháp đấu tranh phòng ngừa, phát hiện xử lý
nhưng hiệu quả thấp và cịn nhiều hạn chế. Vì vậy, để đấu tranh, phịng chống
tội phạm bn bán hàng cấm sẽ thực hiện như thế nào? Cơ sở lý luận về hình sự
hóa, khái niệm hàng cấm, quy định Tội bn bán hàng cấm trong Luật Hình sự
như thế nào và nhận thức về hàng cấm trong thực tiễn ra sao, cũng như chúng ta
8


cần có những biện pháp nào để đấu tranh phịng, chống Tội bn bán hàng cấm
có hiệu quả trên cả nước nói chung và tỉnh Đắk Lắk nói riêng? Đây là những
vấn đề thực tiễn đặt ra.
Tại tỉnh Đắk Lắk, tình hình tội phạm bn bán hàng cấm ngày càng diễn
ra phức tạp và có chiều hướng tăng về số lượng, chủng loại hàng cấm, mở rộng
quy mơ và tính chất nguy hiểm. Do đó cơng tác đấu tranh tại địa bàn trở nên
khó khăn khi đối tượng phạm tội có nhiều phương thức thủ đoạn tinh vi và liên

tục thay đổi để né tránh sự kiểm soát của cơ quan chức năng.
Tình hình trên đã đặt ra một vân đê rât bức thiêt là phải có những giải
pháp hiệu quả, phù hợp với tình hình địa phương để nâng cao cơng tác đấu tranh
phịng, chống loại tội phạm này. Đồng thời giúp các cơ quan tư pháp xử lý
nghiêm minh, đúng người đúng tội, hoàn thành nhiệm vụ đấu tranh tội phạm
trên cả nước nói chung và địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng, tạo điều kiện thuận
lợi cho quá trình phát triển của đất nước.
Từ những vấn đề trên, tác giả chọn đề tài: “Tội buôn bán hàng cẩm
trong Luật Hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk) ”
làm Luận văn thạc sĩ Luật học.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài
9


Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn công tác đấu tranh phịng chống tội phạm
về bn bán hàng cấm trong Luật hình sự Việt Nam, trong thời gian qua nhiều
nhà nghiên cứu, các tác giả cũng rất quan tâm tới vấn đề về tội phạm nói chung
và Tội bn bán hàng cấm trong Luật hình sự Việt Nam nói riêng. Trong đó
đáng chú ý là những cơng trình sau:
về giáo trình, sách chuyên ngành: Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần
các tội phạm), của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội, 2011; Bình luận khoa học hình sự phần các tội phạm, Tập VI, của tác
giả Đinh Văn Quế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; Bình luận khoa học
Bộ luật Hình sự (phần các tội phạm), GS.TS Võ Khánh Vinh, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2013; Giáo trình Luật hình sự Việt Vưm (phần các tội
phạm), Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội,
2016.
về luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ: “Phòng ngừa tội phạm sản xuất, tàng

trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cẩm của lực lượng cảnh sát kinh tế trên địa
bàn miền Đông Nam Bộ ” - Luận án tiến sĩ của Lê Trung Kiên năm 2015;
“Tội sản xuât, tàng trữ, vận chuyên, buôn bán hàng câm theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Kiên Giang ” - Luận văn thạc sĩ luật học, Học
• •



<2?


10







Z




viện Khoa học xã hội của Học viên cao học Trần Thị Trâm Anh (2015);
“Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyến, bn bán hàng cấm trong luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh” - Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội của Học viên cao học Nguyễn Thị Huyền
Trang (2016).
Các bài viết, đề tài khoa học: - Nguyễn Chí Cơng (2015), Hồn thiện các

quy định về hình phạt đối với các tội xâm phạm trật tự quản lỷ kinh tế trong Bộ
luật Hình sự, Tạp chí Tịa án số 3. - Nguyễn Chí Cơng (2016), Những điểm mới
của Bộ luật Hình sự năm 2015 về nhóm tội xâm phạm trật tự
G2J





X







quản lý kinh tế và một số vẩn đề cần lưu ý, Tạp chí Tịa án số 6.
Những cơng trình kể trên đã tiến hành nghiên cứu những vấn đề mang
tính lý luận về tội phạm nói chung và Tội bn bán hàng cấm nói riêng. Tuy
nhiên, chưa có một cơng trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ
thống, tồn diện về Tội bn bán hàng cấm về lý luận, thực tiễn định tội danh,
quyết định hình phạt của Tội bn bán hàng cấm trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Ke
thừa kết quả nghiên cứu của các cơng trình nói trên, người học xin tập trung
nghiên cứu về Tội buôn bán hàng cấm một cách toàn diện trong quy định của
11


Luật Hình sự Việt Nam, trên cơ sở thực tiễn tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk
• •






X







đề ra phương hướng và các giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật hình sự về Tội
buôn bán hàng cấm. Đồng thời nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định
của pháp luật hình sự về Tội bn bán hàng cấm trong cơng tác đấu tranh
phịng, chống loại tội phạm này.
3.

Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn được thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực tiễn đối với Tội buôn bán hàng cấm ở Việt Nam, cụ thể là
tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn hiện nay.Trên cơ sở đó xây dựng hệ thống
giải pháp hồn thiện pháp luật nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm buôn bán hàng cấm trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
Phân tích những vấn đề lý luận về Tội buôn bán hàng cấm tại Việt Nam

(như lịch sử lập pháp, khái niệm, đặc điểm, các dấu hiệu cấu thành tội phạm) để
người đọc có thể tiếp cận và hình dung một cách rõ nhất về tội này. Luận văn sẽ

tiếp tục kế thừa, phát huy các kết quả của những cơng trình nghiên cứu đã được
cơng bố trước đây từ đó đi đến thống nhất nhận thức chung về Tội buôn bán
12


hàng cấm tại Việt Nam. Tiến hành hệ thống hóa các văn bản pháp luật quy định
về hàng cấm tại Việt Nam và qua đó chỉ ra những tồn tại và bất cập cần khắc
phục. Luận văn sẽ hệ thống, phân tích những vấn đề lý luận về Tội bn bán
hàng cấm tại Việt Nam. Đánh giá tình hình hoạt động của tội phạm này trên cơ
sở thực tiễn tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Từ đó chỉ ra những kết quả thành tựu cũng
như vướng mắc tồn tại, nguyên nhân làm phát sinh loại tội phạm này và tìm
cách khắc phục và đưa ra những kiến nghị cụ thể trên các phương diện để hồn
thiện cơng tác đấu tranh, phịng ngừa Tội bn bán hàng cấm tại Việt Nam nói
chung và địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn là những vấn đề lý

luận về Tội bn bán hàng cấm; pháp luật hình sự Việt Nam về Tội buôn bán
hàng cấm và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về Tội bn bán hàng cấm trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu Tội buôn bán hàng cấm theo Điều 190
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Nghiên cứu khái quát lịch sử lập
pháp hình sự Việt Nam quy định vê Tội buôn bán hàng câm. Đông thời, luận
văn cũng đi sâu nghiên cứu hoạt động điều tra, truy tố, xét xử tội phạm này
13


trong vòng 5 năm từ năm 2016 đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

5.

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin

và tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng và Nhà nước, quy định
trong Hiến pháp năm 2013. Luận văn được nghiên cứu chủ yếu bằng phương
pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử; kết hợp với các
phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống khác như: Tổng hợp, so sánh,
thống kê, nghiên cứu thực tiễn, phân tích tình huống, vụ việc và một số phương
pháp luận khác.
6.

Tính mới và những đóng góp của đề tài
Trước khi tác giả thực hiện đề tài này đã có rất nhiều cơng trình nghiên

cứu Tội bn bán hàng cấm dưới góc độ luật hình sự được cơng bố. Những
cơng trình đó đã tiến hành nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận về tội
phạm nói chung và Tội bn bán hàng cấm nói riêng. Tuy nhiên, việc nghiên
cứu tìm ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phịng
chống tội phạm bn bán hàng cấm vẫn chưa được thực hiện một cách có hệ
thống trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Việc nghiên cứu đề tài này cũng là vấn đề quan
trọng trong nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự và trong cơng tác đấu tranh
14


phịng chống tội phạm tại cả nước nói chung và tỉnh Đắk Lắk nói riêng. Thơng
qua nghiên cứu, đánh giá tình hình Tội bn bán hàng cấm để ra những tồn tại
hạn chế của thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm này. Trên cơ sở đó
xây dựng hệ thống giải pháp hoàn thiện pháp luật nâng cao hiệu quả của cuộc

đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn bán hàng cấm trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
7.

Kêt câu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

nội dung của luận văn gồm 2 chưong
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và pháp luật về Tội buôn bán hàng
câm theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Chương 2'. Thực tiễn và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
hình sự đối với Tội bn bán hàng cấm tại tỉnh Đắk Lắk.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VÈ TỘI BUÔN BÁN
HÀNG CÁM THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH sự NẢM 2015
1-í ĩl <

r

r

_ Ạ______Ã____
-»Ạ
_________Ạ____rp A • 1

A

__




1 < 1 __ A
A____1 F___1 A

_

_ A____________

_

_

F

.1. Mot so vân đê lý luậnvê Tội buôn ban hang cam

15


1.1.1.

Khái niệm hàng cẩm; Tội buôn bán hàng cẩm

1.1.1.1.

Khái niệm hàng cẩm

Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của
con người thơng qua trao đổi hay buôn bán.
Theo Luật giá năm 2013, hàng hố là tài sản có thế trao đổi, mua, bán
trên thị trường, có khả năng thỏa mãn nhu cầu của con người, bao gồm các loại

động sản và bất động sản.
- Theo Từ điển Việt Nam: Hàng hóa là một trong những phạm trù cơ bản
của kinh tế chính trị. Theo nghĩa hẹp, hàng hóa là vật chất tồn tại có hình dạng
xác định trong khơng gian và có thể trao đổi, mua bán được. Theo nghĩa rộng,
hàng hóa là tất cả những gì có thể trao đổi, mua bán được.
- Theo Luật Thương mại năm 2005: Tại khoản 2 Điều 3 của Luật phân
loại hàng hoá thành 2 nhóm:
+ Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
+ Những vật gắn liền với đất đai.
- Theo kinh tế chính trị Marx-Lenin:
Trong kinh tế chính trị Marx-Lenin, hàng hóa cũng được định nghĩa là
sản phẩm cùa lao động thông qua trao đổi, mua bán. Hàng hóa có thể là hữu

hình như sắt thép, quyển sách hay ở dạng vơ hình như sức lao động. Karl Marx
16


định nghĩa hàng hóa trước hết là đồ vật mang hình dạng có khả năng thỏa mãn
nhu cầu con người nhờ vào các tính chất của nó. Để đồ vật trở thành hàng hóa
cần phải có: Tính ích dụng đối với người dùng; Giá trị (kinh tế), nghĩa là được
chi phí bởi lao động; Sự hạn chế để đạt được nó, nghĩa là độ khan hiếm
Hàng hóa có vai trị vô cùng quan trọng đôi với cuộc sông của con người,
Nhà nước luôn tạo điều kiện để hoạt động sản xuất, trao đổi, kinh doanh hàng
hóa phát triển, thúc đẩy nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó, có những
loại hàng hóa được Nhà nước liệt kê vào danh mục hàng cấm.
Hàng cấm được hiểu là những mặt hàng bị nhà nước cấm bị cấm sản
xuất, vận chuyển, tiêu thụ và bn bán bằng bất cứ hình thức nào. Điều này
cũng được quy định rõ ràng bởi pháp luật quốc tế cũng như của mỗi quốc gia
kèm các khung hình phạt cho người vi phạm. Hàng cấm được pháp luật quy
định rõ và được liệt kê vào danh mục để theo dõi dễ dàng. Sở dĩ những mặt

hàng đó được liệt vào danh sách hàng cấm là vì chúng có thể gây hậu quả xấu
cho kinh tế, xã hội và môi trường. Cơ sở xác định những mặt hàng này là dựa
trên mức độ nguy hại cho con người, làm mất an ninh trật tự, mất an toàn xã hội
và nguy hại cho nền kinh tế. Từ các chất kích thích độc hại, vũ khí, chất độc tới
những sản phẩm từ động vật quý hiếm đều là những hàng cấm.
+ Theo từ điển pháp luật hình sự: Hàng cấm là hàng hóa Nhà nước cấm
17


kinh doanh [22, tr. 110].
+ Theo Khoản 6 Điều 3 Nghị định 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013
của Chính phủ quy định về xử phạt hành chính trong hoạt động thương mại, sản
xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có nêu:
“Hàng cấm là những mặt hàng bị cấm sử dụng; hàng hóa chưa được phép lưu
hành, sử dụng tại Việt Nam” [15, tr. 13],
Việc quy định và xác định những đối tượng hàng cấm sẽ tuân thủ theo
công ước quốc tế và pháp luật ở mồi quốc gia và có sự thay đổi theo thời gian
và thường xuyên được điều chỉnh tương thích với các đặc điểm kinh tế - xã hội.
Có những mặt hàng tại nước này là hàng hợp pháp nhưng khi chuyển sang quốc
gia khác thì lại thuộc danh mục hàng cấm. Trong danh mục đó có loại hàng cấm
có tính chất vĩnh viễn, không thay đổi như các chất ma tuý nhưng cũng có loại
hàng câm khơng có tính chât như vậy như thc lá điếu của nước ngồi, pháo
nổ... Hành vi phạm tội liên quan đến hàng cấm được pháp luật quy định khá cụ
thể, những hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến hàng cấm đều bị xử lý
nghiêm minh theo quy định, theo đó có thể xử phạt hành chính hoặc xử lý hình
sự tùy thuộc vào mức độ vi phạm và tính chất của hành vi đó.
Từ những phân tích trên và thực tiễn áp dụng pháp luật chúng ta có thể
đưa ra định nghĩa về hàng cấm như sau: Hàng cấm là những hàng hóa Nhà nước
18



thống nhất quản lý, không được phép sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán.
1.1.1.2.

Khái niệm Tội buôn bán hàng cẩm

BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực từ ngày
01/01/2018 thì Tội bn bán hàng cấm được quy định tại Điều 190, theo đó, Tội
bn bán hàng cấm có những dấu hiệu sau:
- Hành vi bn bán hàng cẩm có tính nguy hỉêm cao cho xã hội
Tội phạm, theo quy định của luật hình sự Việt Nam, trước hết là hành vi
nguy hiểm cho xã hội ở mức độ cao cần phải xử lý bằng biện pháp hình sự. Tính
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đó là hành vi đã hoặc sẽ gây ra thiệt hại cho
xã hội và theo Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) Đại học Quốc
gia Hà Nội, năm 2003 nêu rõ: “tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm có sự
thể hiện về chất lượng và sổ lượng’’. Nói cách khác, tội phạm là hành vi có tính
chất, mức độ nguy hiểm cao cho xã hội so với vi phạm và cần phải áp dụng chế
nghiêm khắc của luật hình sự là hình phạt đe áp dụng đối với người phạm tội.
Hành vi buôn bán hàng cấm được xác định là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, bởi nó đã xâm phạm đến TTQLKT của Nhà nước, kìm hãm sự phát triền
kinh tế, gây tổn thất cho người tiêu dùng, ảnh hưởng đến trật tự xã hội.Với mục
tiêu xây dựng, phát triên nên kinh tê thị trường, định hướng XHCN cân phải có
sự tăng trưởng sản xuất, đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng và toàn xã
19


hội bằng cách cung cấp một lượng hàng hoá nhiều về số lượng, chủng loại, nhãn
hiệu và kiểu dáng. Mục tiêu này chỉ có thể đạt được trong sự phát triển lành
mạnh, khơng có có nạn bn bán hàng cấm. Hàng cấm là những hàng hóa nhà
nước cấm khơng được sản xuất, lưu hành nên khi thực hiện hành vi buôn bán

hàng cấn đã ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc dân, đến trật tự xã hội, an ninh
quốc phòng, các cơng ty kinh doanh hợp pháp và đến lịng tin đối với người tiêu
dùng. Ngồi ra việc bn bán hàng cấm còn ảnh hưởng đến nhiều mặt về đời
sống, kinh tế, an ninh, chính trị, lịng tin cùa người tiêu dùng, của doanh nghiệp
đối với các cơ quan quản lý nhà nước, đến sự hợp tác và hội nhập kinh tế quốc
tế. Vì vậy, hành vi bn bán hàng cấm đã xâm hại đến TTQLKT của Nhà nước
làm thiệt hại lớn về kinh tế, vi phạm đạo đức, gây mất trật tự xã hội, ảnh hưởng
đến chính trị xã hội, làm các cơ quan Nhà nước khó khăn trong hoạch định
chính sách kinh tế xã hội.
- Hành vi bn bán hàng cấm được thực hiện một cách có lỗi
Nếu mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện ra bên ngồi của tội
phạm thì mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm, là thái độ
tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực
hiện và với hậu quả do hành vi ấy gây ra cho xã hội. Mặt chủ quan của tội phạm
20


bao gồm các nội dung: lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội.
Theo quy định của Điều 190 BLHS năm 2015, Tội buôn bán hàng cấm
được thực hiện bởi lỗi cố ý, người phạm tội biết được hành vi buôn bán những
mặt hàng nhà nước cấm nhưng vẫn thực hiện nhằm thu lời bất chính. Như vậy,
trong trường hợp này người phạm tội biết được tính nguy hiểm và hậu quả nguy
hiểm cho xã hội của hành vi buôn bán hàng cấm nhưng vẫn thực hiện gây ra hậu
quả nguy hiểm cho xã hội.
- Hành vi buôn bán hàng câm mang tính trải pháp luật hình sự và người
vi phạm phải chịu hình phạt
Bn bán hàng cấm là hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải được hình
sự hóa. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là dấu hiệu cơ bản nói nên bản
chất chính trị, xã hội của tội phạm, dấu hiệu này được coi là dấu hiệu nội dung
quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm. Một hành vi sở dĩ bị quy định

trong luật hình sự là tội phạm và phải chịu TNHS vì nó có tính nguy hiểm cho
xã hội do đã gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội
được luật hình sự bảo vệ. Tầm quan trọng của quan hệ xã hội do tính chất của
quan hệ đó trong các thang giá trị xã hội do giai cấp thống trị thiết lập. Do đó,
tính chất của quan hệ xã hội có thể bị thay đổi ở những xã hội khác nhau hoặc
ngay trong một chế độ xã hội nhưng ở những thời kỳ khác nhau thì tính chất của
21


quan hệ xã hội cũng có thể thay đổi. Điều đó địi hởi nhà làm luật khi xem xét
tính chất quan trọng của quan hệ xã hội để đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phải dựa trên hoàn cảnh lịch sử cụ thể, xuất phát từ lợi ích giai cấp,
trên lập trường giai cấp. Tuy nhiên, tính chất quan trọng của quan hệ xã hội bị
xâm hại không thể là yếu tố duy nhất phản ánh mức độ của tính nguy hiểm cho
xã hội của hành vi mà chỉ khi được kết hợp với những yếu tố khác nó mới phản
ánh hành vi là nguy hiểm đã đến mức coi là tội phạm và cần phải xử lý bằng chế
tài hình sự hay khơng. Tính nguy hiểm cho xã hội được phản ánh ở hai đại
lượng: tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi. Tính chất của hành vi là đặc
tính về "chất" của thiệt hại, được xác định căn cứ vào tính chất của quan hệ xã
hội bị thiệt hại, quan hệ xã hội càng quan trọng thì tính chất của thiệt hại càng
nghiêm trọng. Mức độ của thiệt hại là đặc tính về "lượng" của thiệt hại, tùy theo
từng loại thiệt hại mà mức độ đó được biểu hiện khác nhau. Vì vậy, tính chất và
mức độ









•ụy



của thiệt hại là một căn cứ để đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi,
khi kêt hợp với các căn cứ khác nó phản ánh một hành vi là nguy hiêm "đáng
kể" hay "không đảng kể" cho xã hội, tạo cơ sở để nhà làm luật tội phạm hóa và
phi tội phạm hóa.
Hành vi bn bán hàng cấm phải là hành vi phạm tội được quy định
trong BLHS, người phạm tội đã làm một việc mà pháp luật hình sự cấm khơng
22


được làm và sẽ phải chịu hình phạt và các biện pháp cưỡng chế hình sự khác khi
thực hiện hành vi đó. Tội bn bán hàng cấm được quy định tại Điều 190 BLHS
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), theo đó, hành vi bn bán hàng cấm bị
pháp luật hình sự cấm, nếu người hoặc pháp nhân thương mại vi phạm sẽ bị coi
là tội phạm và phải chịu hình phạt.
Tội bn bán hàng cấm được quy định áp dụng đối với người phạm tội
thể hiện thái độ nghiêm khắc của Nhà nước đối với tội phạm này. Hành vi bn
bán hàng cấm, tùy theo tính chất, mức độ có thể là vi phạm hoặc tội phạm, do
đó, hình phạt chỉ được áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại thực
hiện hành vi phạm tội, có mức độ nguy hiểm cao cho xã hội.
Từ những phân tích trên, căn cứ Điều 8, Điều 190 BLHS năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017) có thể đưa ra khái niệm Tội buôn bán hàng cấm như
sau: Tội buôn bán hàng cấm là Hành vi nguy hiếm cho xã hội xâm phạm vào
trật tự quản lý kinh tế, các quy định về quản lý lưu thơng hàng hóa được quy
định tại Điều 190 của Bộ luật hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình
sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách co ý, bằng việc dùng mọi

phương thức, thủ đoạn đê buôn bán hàng cấm nhằm mục đích thu lời bẩt chỉnh
và bị áp dụng chế tài hình sự theo quy định của pháp luật.

23


1.1.2.

Cơ sở và ý nghĩa của việc quy định Tội bn bán hàng cấm

trong Luật hình sự
Hoạt động bn bán hàng cấm là một trong những hoạt động kinh doanh
bất hợp pháp, hoạt động này cùng với tình hình tội phạm nói chung có chiều
hướng ngày càng phát triển và tinh vi, khiến cho mất cân đối trên thị trường.
Hành vi buôn bán hàng câm là hành vi nguy hiêm cho xã hội, vì nó xâm hại đến
chế độ thống nhất quản lý về hàng cấm của Nhà nước và ảnh hưởng đến sự phát
triển kinh tế của đất nước. Đối tượng tác động của tội phạm này là hàng hóa mà
Nhà nước cấm kinh doanh, khơng cho phép lưu thông trên thị trường, như: các
loại pháo nổ, thuốc lá sản xuất tại nước ngồi, các sản phẩm văn hố phẩm đồi
truy, mê tín dị đoan hoặc đồ chơi nguy hiểm, đồ chơi có hại tới giáo dục nhân
cách và sức khỏe của trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự, an tồn xã hội, ...
vấn nạn bn bán hàng cấm không chỉ ánh hưởng đến quyền lợi, sức
khỏe của người tiêu dùng mà còn khiến hoạt động kinh doanh của nhiều doanh
nghiệp trở nên khó khăn do bị cạnh tranh không lành mạnh. Nếu như chúng ta
không kịp thời ngăn chặn, những hành vi này sẽ gây lũng đoạn thị trường trong
nước, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, vi phạm trật tự quản lý kinh tế nói
chung, xâm hại đến nền kinh tế quốc dân.
Xuất phát từ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong bối cảnh
24



nhiều người đã vì nguồn lợi lớn lao có được từ việc buôn bán hàng cấm mà bất
chấp quy định của pháp luật để thực hiện chúng, mức độ nguy hiểm cho xã hội
ngày càng cao, mà các biện pháp xử lý phi hình sự tỏ ra chưa tương xứng với
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm, chưa đủ sức răn
đe, phòng ngừa, cần phải phịng, chống bằng các biện pháp hình sự. Do đó, cần
thiết phải quy định Tội bn bán hàng cấm trong Luật hình sự để đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật, đáp ứng thực tiễn cuộc sống và yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm.
Cùng với sự phát triển của đất nước, Bộ luật Hình sự nước ta lần đầu tiên
được ban hành ngày 27/6/1985 đã pháp điển hóa các văn bản pháp luật để đáp
ứng yêu cầu thực tiễn của cuộc đấu tranh chống tội phạm nói chung và Tội bn
bán hàng cấm nói riêng.
Tội bn bán hàng cấm là tội phạm nguy hiểm xâm phạm đến trật tự quản lý
kinh tê, có tác động tiêu cực tới nên kinh tê quôc dân, sự phát triên của xã hội
cũng như tác động xấu đến sức khỏe, tính mạng con người. Phương thức, thủ
đoạn của các đối tượng ngày càng tinh vi: lợi dụng thương mại điện tử đe thành
lập Website quảng cáo, kinh doanh qua mạng gây khó khăn cho việc phát hiện,
xử lý ... vv, đã và đang đe dọa gây mất ổn định nền kinh tế đất nước.
Việc quy định Tội buôn bán hàng cấm trong Luật hình sự có vai trị hết
25


×