Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

Tội cướp giật tài sản trong luật hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh đắk lắk) (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (550.44 KB, 44 trang )


Cơng trình được hồn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN CHÍ CƠNG

Phản biện 7: PGS.TS Cao Thị Oanh
Phản biện 2: GS.TS Đỗ Ngọc Quang

Luận văn được bảo vệ tại Hội đông châm luận văn, họp
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi 15 giờ 00, ngày 26 tháng 01 năm 2022


Có thể tìm hiểu luận văn tại
Trung tâm tư liệu Khoa Luật - Đại học Quôc gia Hà Nội Trung
tâm tư liệu - Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội


MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng


Chương 2: THựC TIỄN XÉT xử TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TẠI ĐỊA
BÀN TỈNH ĐẮK LAK VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN


PHÁP LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH
CỦA Bộ LUẬT HÌNH sự VỀ TỘI CỪỚP GIẬT TAI SẢN

42
2.1. Thực tiễn xét xử tội cướp giật tài sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
...42
2.1.1. Tình hình xét xử tội cướp giật tài sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
(Từ
năm
2015
đến
năm
2020)
...........................................................................................................
42
2.1.2. Một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn xét xử tội cướp
giật
tài
sản
...........................................................................................................
47
2.1.3. Nguyên nhân những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn xét xử
77
2.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng
quy định của Bộ luật Hình sự về tội cướp giật tài sản 79
2.2.1. Hồn thiện các quy định pháp luật hình sự về tội cưóp giật tài sản
79
5



2.2.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật

6


MỞ ĐẦU
1.

Tính câp thiêt của đê tài
Qua 15 năm thực hiện Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của
Bộ Chính trị về chiến luợc cải cách tu pháp đến năm 2020, được sự quan
tâm, nỗ lực của Đảng, Nhà nước và của tồn dân thì tình hình an ninh trật
tự an tồn xã hội nhìn chung đã được giữ vừng, tội phạm từng bước được
kiểm sốt, tạo mơi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc
tế, xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, với sự chuyển đổi kinh tế thị
trường, tình hình tội phạm ngày càng diễn biến tinh vi, phức tạp, đặc biệt
là các tội xâm phạm quyền sở hữu có chiều hướng gia tăng. Điều này gây
ảnh hưởng không nhỏ việc bảo vệ, bảo đảm các quyền cơ bản của cơng
dân trong đó có quyền sở hữu. Liên quan đến các tội phạm xâm hại về sở
hữu, tội phạm cướp giật tài sản trở thành vấn đề đáng lưu tâm, gây tâm lý
bất ổn trong nhân dân gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị.
Đắk Lắk là một tỉnh có diện tích lớn thứ tư cả nước, nằm ở trung
tâm vùng Tây Nguyên, miền Trung Việt Nam. Kinh tế chủ đạo của Đắk
Lắk chủ yếu dựa vào sản xuất và xuất khẩu nơng sản, lâm sản, đời sống
người dân có nhiều huyện cịn gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí chưa
đồng đều. Bên cạnh những thuận lợi cho việc phát triển kinh tế thì cũng là


điều kiện cho một số tội phạm phát triển, trong đó có tội phạm cướp giật
tài sản chiếm tỷ lệ lớn trong các tội phạm xâm phạm sở hữu, có tính chất

manh động, liều lĩnh, gây ảnh hưởng lớn đến trật tự trị an của địa phương,
cướp giật tài sản đang là loại tội phạm trở thành vấn nạn vô cùng bức xúc,
được dư luận xã hội quan tâm.
Cướp giật tài sản là một trong những tội thuộc nhóm tội xâm phạm
quyền sở hữu được quy định tại Bộ luật Hình sự Việt Nam. Qua thực tiễn
xét xử tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk thì tình hình tội phạm về cướp giật tài sản
ngày càng diễn biến phức tạp, nhiều thủ đoạn tinh vi và việc áp dụng pháp
luật trong thực tiễn xét xử cịn nhiều khó khăn, vướng mắc. Để đảm bảo
truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội thì việc nghiên cứu,
phân tích các dấu hiệu pháp lý cơ bản về tội cướp tài sản là cần thiết để áp
dụng quy phạm này vào thực tiễn xét xử đạt hiệu quả cao đồng thời qua
hoạt động xét xử phát hiện những điêm còn vướng măc, những mặt tơn
tại, hạn chế từ đó có những giải pháp để hồn thiện, nâng cao chất lượng
xét xử là địi hỏi bức thiết, qua đó góp phần hồn thiện pháp luật, nâng
cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về tội cướp
giật tài sản. Vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài: “Tội cướp giật tài sản
trong Luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)
” để nghiên cứu làm luận văn Thạc sĩ Luật học.


2.

Tình hình nghiên cứu của đề tài
Cướp giật tài sản là một trong những tội phạm được quy định rất
sớm trong pháp luật hình sự ở thế giới nói chung và nước ta nói riêng.
Cho đến nay đã có những cơng trình nghiên cứu về tội cướp giật tài sản ở
những cấp độ khác nhau như: Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, đề tài khoa
học, khóa luận tốt nghiệp và những khía cạnh khác nhau như: Tội phạm
học, khoa học Luật hình sự
Các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Luật học chuyên ngành Tư pháp

hình sự nghiên cứu về các tội xâm phạm sở hữu như: Đỗ Kim Tuyến, Đấu
tranh phòng, chống tội cướp tài sản trên địa bàn Hà Nội, Luận án tiến sĩ
Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001; Lê Thị Khanh; Lê Thị Thu
Hà, Tội cướp giật tài sản theo luật hình sự Việt Nam, một số khía cạnh
pháp lý hình sự và tội phạm học, Luận văn Thạc sĩ, khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2014.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu, sách chuyên khảo, bài viết
liên quan đến tội cướp giật tài sản thường tập trung đi sâu tới vấn đề lý
luận về dấu hiệu định tội của tội cướp giật tài sản hoặc nhìn nhận vấn đề

• •


X •


dưới góc độ tội phạm học, đấu tranh phịng ngừa tội cướp giật tài sản hoặc
đấu tranh phòng ngừa tội xâm phạm tài sản trên một địa bàn nhất định.


Tuy nhiên, đến nay chưa có cơng trình nghiên cứu nào nghiên cứu một
cách tồn diện, có hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử đối với
tội cướp giật tài sản ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học kể từ khi
BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) có hiệu lực, vì vậy Tác giả
chọn đề tài “7ợz cướp giật tài sản trong Luật hĩnh sự Việt Nam (Trên cơ
sở thực tiễn địa bàn tỉnh Đẳk Lẳk) ” để nghiên cứu chuyên sâu về tội
cướp giật tài sản cũng như việc áp dụng chế định này vào trong thực tiễn
xét xử. Những vướng măc, tôn tại trong việc áp dụng pháp luật, từ đó đưa
ra một sơ giải pháp đề nâng cao hiệu quả áp dụng.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu và làm sáng rõ những vấn đề lý luận, dấu hiệu
pháp lý, thực trạng pháp luật hiện hành, thực tiễn xét xử tội cưóp giật tài
sản và những vướng mắc, tồn tại từ đó đưa ra một số giải pháp hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả của công tác xét xử tội cưóp giật tài sản
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Trong khn khổ của Luận văn thạc sỹ, tác giả khơng có tham vọng
nghiên cứu về tất cả các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử đối với tội cướp
giật tài sản. Việc nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định của pháp
luật hình sự về tội cướp giật tài sản được thực hiện đối với quá trình xét
xử tại các Tòa án trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong những năm gần đây. Do


vậy, các kiến nghị đưa ra cũng tập trung cho việc nâng cao hiệu quả của
cơng tác xét xử.
4.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
•••~
Luận văn được thực hiện nhằm mục đích làm rõ những vấn đề lý
luận











J•

về tội cướp giật tài sản trong Luật hình sự Việt Nam, đồng thời nghiên cứu
thực trạng áp dụng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, làm sáng rõ những bất cập,
hạn chế, để đưa ra những kiến nghị và giải pháp tăng cường hiệu quả áp
dụng quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra
là:
-Nghiên cứu những vấn đề chung, dấu hiệu pháp lý, lịch sử lập pháp hình
sự đối với tội cưóp giật tài sản trong Luật hình sự Việt Nam.
-Phân biệt tội cưóp giật tài sản với một số tội phạm xâm phạm quyền sở
hữu khác.
-Thực tiễn tình trạng tội phạm về cưóp giật tài sản trên địa bản tỉnh Đắk
Lắk, đánh giá thực trạng áp dụng Pháp luật. Dựa trên kết quả phân tích
những ưu điểm, những vấn đề cịn tồn tại. Từ đó đưa ra những kiến nghị
hồn thiện các quy định của Pháp luật hình sự Việt Nam về tội cưóp giật


tài sản và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực tiễn.
5.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lên
Nin, đó là chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, tư
tưởng Hồ Chí Minh; những chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng,
Nhà nước về chính sách hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt, trong đó có tội cưóp giật tài sản.
Luận văn còn sử dụng trong một tổng thể các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích và tổng họp; Phương pháp so
sánh; Phương pháp thống kê; Phương pháp kết họp giữa lý luận và thực
tiễn. Đồng thời, Luận văn còn sử dụng một số phương pháp của các ngành

khoa học khác như: Phương pháp thống kê xã hội, Phương pháp lơgic học.
6.
Tính mói và những đóng góp của đề tài
Tội cướp giật tài sản trong các nghiên cứu cũng mới chỉ phân tích
thuần tuý trên phương diện pháp lý mà chưa đề cập phân tích về thực tiễn
áp dụng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, nơi có những đặc thù riêng. Bởi vậy,
việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về cấu thành tội phạm này cũng như
thực tiễn xét xử đối với tội cưóp giật tài sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk là
việc làm cần thiết có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, Luận văn hoàn thành sẽ
là chuyên khảo khoa học phục vụ việc nghiên cứu, học tập về tội danh


này.
7.

Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Ket luận và Danh mục tài liệu tham khảo thì
luận văn gồm 02 chương sau:
Chương 1.- Một số vấn đề lý luận và quy định của Luật hình sự Việt
J

1 e/ •



Nam về tội cướp giật tài sản.
Chương 2: Thực tiễn xét xử tội cướp giật tài sản tại địa bàn tỉnh
Đắk Lắk và các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng
quy định của Bộ luật Hình sự về tội cướp giật tài sản.
Chương 1

MỘT SÓ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH sự
VIỆT NAM VÈ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
•••

1.1.

Khái niệm tội cướp giật tài sản
Tội cướp giật tài sản là hành vi nguy hiếm cho xã hội được quy định
trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện
với lỗi cổ ỷ trực tiếp, chiếm đoạt tài sản của người khác bằng cách


cơng khai, nhanh chóng giật lẩy tài sản của người khác rồi tẩu
thoát.
1.2.
Khái quát lịch sử lập pháp của tội cưóp giật tài sản
1.2.1.
Tội cướp giật tài sản theo quy định của pháp luật hình sự
giai đoạn 1945-1985
Tội cướp giật tài sản XHCN và Tội cướp giật tài sản riêng của cơng
dân đã được cụ thể hóa thành hai điều luật riêng nằm trong hai pháp lệnh
khác nhau: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN ngày 21
tháng 10 năm 1970 và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng
của công dân ngày 21 tháng 10 năm 197. Ngoài hai Pháp lệnh trên, Ban bí
thư Trung ưong Đảng đã ra Chỉ thị số 185 ngày 09/12/1970 về tăng cường
bảo vệ tài sản XHCN nhằm chỉ đạo thi hành nội dung hai Pháp lệnh trong
thực tế.
Sau khi Miền Nam được giải phóng, Chính phủ Cách mạng lâm thời
Miền Nam Việt Nam đã ban hành sắc Luật số 03-SL/76 ngày 15/03/1976
quy định Tội phạm và Hình phạt, tuy tội cướp giật tài sản không được quy

định cụ thể, chi tiết trong một điều luật riêng nhưng cũng đã được quy
định chung trong Điều 4 cùng với các tội xâm phạm sở hữu khác.
Tại Thông tư số 03-BTP/TT tháng 4 năm 1976 của Bộ Tư pháp giải
thích Sắc Luật số 03-SL/76 ngày 15/03/1976 “Cướp giật là lợi dụng sơ


hở vướng mắc của người giữ tài sản bẩt thần giằng giật lẩy tài sản tư trên
tay người đó hoặc công nhiên lẩy từ nơi để tài sản rồi chạy trốn hoặc bỏ
đi, mà không dùng bạo lực để lấy”.
Như vậy, trước khi Bộ luật Hình sự năm 1985 ra đời thì các tội
phạm • e/7
• •

• X

xâm phạm sở hữu nói chung và tội cướp giật nói riêng được quy định ở
các văn bản dưới luật đã góp phần trấn áp tội phạm cũng như đảm bảo trật
tự xã hội.
1.2.2.
Tội cướp giật tài sản theo quy định của pháp luật hình sự
giai đoạn 1985-2015
Bộ luật Hình sự 1985 là Bộ luật Hình sự đầu tiên của nước ta. Bộ
luật Hình sự năm 1985 nhằm chi tiết và cụ thể hóa các quy định trong
Hiến pháp 1980. Dựa vào hình thức sở hữu bị xâm phạm mà nhà làm luật
chia tội cướp giật tài sản ra làm hai Điêu luật khác nhau: Điêu 131 và
Điêu 154 Bộ luật hình sự 1985.
Quy định pháp luật điều chỉnh tội cưóp giật tài sản trong Bộ luật
Hình sự 1985 cũng có những điểm mới: BLHS năm 1985 quy định mức
phạt tối đa cao hon.
Nguyên tắc xử lý quy định trong BLHS năm 1985 nói chung khơng



có gì thay đổi so với Pháp lệnh năm 1970.
BLHS năm 1999 được Quốc hội thơng qua ngày 21/12/1999, có
hiệu lực từ ngày 01/7/2000. Tội cướp giật tài sản XHCN và tội cướp giật
tài sản riêng của công dân nay chỉ cịn quy định chung là tội cưóp giật tài
sản được quy định tại Điều 136, Chương XIV: Các tội xâm phạm sở hữu
của BLHS năm 1999 mà không chung với tội cơng nhiên chiếm đoạt tài
sản.
Nhìn chung, những quy định về tội cướp giật tài sản trong giai đoạn
này đã được nhà làm luật thay đổi cho phù họp với tình hình mới, khơng
cịn phân biệt giữa tội cưóp giật tài sản Xã hội chủ nghĩa và tội cưóp giật
tài sản của công dân và tội cướp giật tài sản cũng đã được quy định ở một
điều luật riêng.
1.2.3.
Tội cướp giật tài sản theo quy định của pháp luật hình sự từ
năm 2015 đến nay
Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017) ra đời đánh
dấu một bước tiến quan trọng. Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi bổ
sung năm 2017) đã sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm sở hữu
(Chương XVI) theo hướng bảo đảm đối xử bình đẳng giữa chính sách xử
lý hành vi xâm phạm tài sản của Nhà nước với hành vi xâm phạm tài sản
của cá nhân theo tinh thần của Hiến pháp 2013.


Tội cướp giật tài sản được quy định tại Điều 171 Bộ luật Hình sự
2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017. Nhìn chung, BLHS năm 2015 ban hành,
quy định đối với tội cưóp giật tài sản đã sửa đổi, bổ sung thêm một số tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và bỏ đi được một số tình tiết tăng nặng
khơng cịn phù hợp, gây bối rối và thiếu nhất quán cho các cơ quan tiến

hành tố tụng. Tuy nhiên, vẫn còn hạn chế là vẫn chưa đưa ra được một
định nghĩa pháp lý về tội cướp giật tài sản trong điều luật cụ thể.
1.3.
Những đặc điêm pháp lý của tội cướp giật tài sản theo quy
định của Bộ luật Hình sự Việt Nam 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017)
1.3.1.
Các dấu hiệu định tội
Tội cướp giật tài sản quy định tại Điều 171 BLHS 2015 (Sửa đổi bồ
sung năm 2017), có các dấu hiệu pháp lý của bốn yếu tố cấu thành tội
phạm bao gồm:
1.3.1.1.
Khách thể của tội cướp giật tài sản
Khách thể của tội cướp giật tài sản cùng một lúc xâm phạm đến hai
khách thể là quan hệ tài sản và tín mạng, sức khỏe , nhưng chủ yếu là
quan hệ tài sản. Do đó BLHS năm 2015 khi quy định tội cướp giật tài sản
đã đưa vào trong cấu thành dấu hiệu về thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ
và coi đây là những tình tiết định khung hình phạt.
1.3.1.2.
Mặt khách quan của tội cướp giật tài sản


Điều 171 BLHS 2015 quy định tội cưóp giật tài sản không mô tả
hành vi khách quan của tội cướp giật tài sản nhưng căn cứ vào khái niệm,
thực tiễn, các yếu tố cấu thành tội phạm thì người phạm tội cướp giật tài
sản có hành vi đặc trưng là “Giật tài sản”, tức là giằng mạnh lấy tài sản
về mình một cách nhanh chóng, qua đó chúng ta dễ nhận thấy được bản
chất của hành vi phạm tội.
Hành vi chiếm đoạt ở tội cướp giật tài sản có hai dấu hiệu đặc trưng,
đó là dấu hiệu cơng khai và dấu hiệu nhanh chóng.
Dấu hiệu cơng khai: Hành vi giật tài sản của người phạm tội được

thực hiện một cách cơng khai, khơng có ý thức che dấu hành vi của mình
đối với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản và những
người khác.
Dấu hiệu nhanh chóng: Hành vi giật tài sản một cách nhanh chóng
đã tạo ra yếu tố bất ngờ đối với chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản,
làm cho những người này khơng có khả năng giữ được tài sản mà mình
đang quản lý. Dấu hiệu này phản ánh phương thức thực hiện hành vi
chiếm đoạt của người phạm Tội cướp giật tài sản một cách khẩn trương,
vội vã.
Việc dùng vũ lực ở tội cướp và cướp giật tài sản khác nhau về phạm
vi, mức độ và mục đích. Dấu hiệu chạy trốn là dấu hiệu của tội cưóp giật


tài sản nhưng không phải là dấu hiệu bắt buộc,
Vê hậu quả phạm tội: Hậu quả của tội cướp giật tài sản trước hêt là
những thiệt hại về tài sản, ngồi ra cịn có những thiệt hại về tính mạng,
sức khỏe hoặc những thiệt hại khác.
về lý luận, thì tội cướp giật tài sản là tội phạm có cấu thành vật chất,
tức là: cấu thành tội phạm mà mặt khách quan của nó được luật quy định
bằng các dấu hiệu của hành vi phạm tội, cũng như cả các dấu hiệu của hậu
quả phạm tội nữa (hậu quả nguy hiểm cho xã hội trong trường hợp này
được coi là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm tương ứng), do đó,
chỉ khi nào người phạm tội giật được tài sản thì tội phạm mới hồn thành,
khi tội phạm hồn thành, hậu quả trên thực tế đã xảy ra qua sự biến đổi
nhất định trong thực tế khách quan dưới dạng thiệt hại về vật chất hoặc
phi vật chat. Neu có hành vi giật nhưng chưa giật được tài sản thì thuộc
trường họp phạm tội chưa đạt.
1.3.1.3.
Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm (đồng thời là chủ thể của TNHS) khi có tổng

hợp 05 dấu hiệu cần và đủ, bắt buộc và pháp luật hình sự quy định như
sau: 1) Phải có năng lực TNHS; 2) phải đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
3) người đó đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội gây thiệt hại cho
quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ, ở tội cưóp giật tài sản là


quan hệ sở hữu 4) Hành vi mà người đó thực hiện phải bị luật hình sự
cấm; 5) Người đó phải có lỗi trong việc thực hiện hành vi phạm tội, ở tội
cưóp giật tài sản là lỗi cố ý trực tiếp.
1.3.1.4.
Mặt chủ quan của tội phạm
Tội cướp giật tài sản được thực hiện do lỗi cố ý. Mục đích của
người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Người phạm tội
nhận thức được hành vi của mình, thực hiện hành vi đó một cách cơng
khai và hồn tồn khơng có ý định che giấu hành vi đó. Người phạm tội
thấy trước khả năng xảy ra hậu quả và cố ý để hậu quả thực tế xảy ra là
chiếm được tài sản từ người khác.
Hậu quả của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc cho nên người cố ý trực
tiếp khơng những nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi của mình mà ngay khi thực hiện hành vi cũng đã thấy trước được
hậu quả của nó
Căn cứ vào mục đích chiêm đoạt tài sản của người phạm tội thì ở tội
cướp giật tài sản, người phạm tội phải có động cơ tư lợi. Người phạm tội
mong muốn chiếm hữu tài sản của người khác để phục vụ cho nhu cầu và
lợi ích của bản thân.
1.3.2.
Trách nhiệm hình sự đoi với người phạm tội cướp giật tài
sản



Khung 1: Cưóp giật tài sản thuộc khoản 1 Điều 171 BLHS quy định
hình phạt tù từ 01 năm đen 05 năm tù.
Khung 2: Cướp giật tài sản thuộc khoản 2 Điều 171 BLHS, hình
phạt tù từ 03 năm đến 10 năm tù áp dụng đổi với các trường họp phạm tội
có tình tiết định khung tăng nặng sau: Có tổ chức; Có tính chất chun
nghiệp; Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới
200.000.000 đồng; Dùng thủ đoạn nguy hiểm; Hành hung để tẩu thốt;
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể từ 11 % đến 30%; Phạm tội với người dưới 16 tuổi, phụ
nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người khơng có khả năng tự vệ;
Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; i) Tái phạm nguy
hiểm.
Khung 3: Cướp giật tài sản thuộc khoản 3 Điều 171 BLHS, hình
phạt tù từ 07 năm đến 15 năm tù áp dụng đối với các trường hợp phạm tội
có tình tiết định khung tăng nặng sau:Chiếm đoạt tài sản trị giá từ
200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; Gây thưomg tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thưomg cơ thể từ 11%
đến 30%; Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh
Khung 4: Cướp giật tài sản thuộc khoản 4 Điều 171 BLHS, hình
phạt tù từ 12 năm đến 20 năm tù áp dụng đổi với các trường hợp phạm tội


có tình tiết định khung tăng nặng sau: Chiếm đoạt tài sản trị giá
500.000.000 đồng trở lên:Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ
của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61 % trở lên hoặc gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể của mồi người 31% trở lên; Làm chết người; Lợi dụng hồn
cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Ngồi hình phạt chính, người phạm tội cịn có thể bị phạt tiền từ
10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.

1.4.
Phân biệt tội cướp giật tài sản vói một sơ tội phạm khác
Phân biệt tội cướp giật tài sản với tội cướp tài sản (Điều 168 BLHS)
Phân biệt tội cướp giật tài sản với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
Phân biệt tội cướp giật tài sản với tội trộm cắp tài sản (Điều 173
BLHS 2015)
Phân biệt tội cướp giật tài sản với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
(Điều 174 BLHS 2015)

Chương 2
THựC TIỄN XÉT XỬ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TẠI ĐỊA BÀN


TỈNH ĐẮK LẮK VÀ CÁC GIÃI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT,
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA Bộ LUẬT
HÌNH Sự VÈ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
2.1.

Thực tiên xét xử tội cướp giật tài sản trên địa bàn tỉnh Đăk

Lăk
2.1.1.

Tình hình xét xử tội cướp giật tài sản trên địa bàn tỉnh Đắk

Lắk (Từ năm 2015 đến năm 2020)

Đắk Lắk là một tỉnh có diện tích lớn thứ tư cả nước, nằm ở trung
tâm vùng Tây Nguyên, miền Trung Việt Nam. Kinh tế chủ đạo của Đắk
Lắk chủ yếu dựa vào sản xuất và xuất khẩu nông sản, lâm sản, đời sống

người dân có nhiều huyện cịn gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí chưa
đồng đều. Bên cạnh những thuận lợi cho việc phát triển kinh tế thì cũng là
điều kiện cho một số tội phạm phát triển, trong đó có tội phạm cướp giật
tài sản.
2.1.1.1.

Tình hình xét xử sơ thẩm

Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, từ năm
2015 đến năm 2020 số vụ án, số bị cáo phạm tội cướp giật tài sản bị đưa


ra xét xử sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk là 99 vụ/165 bị cáo, trong đó
số liệu từng năm được phản ánh qua bảng sau:
Bảng 2.1: Sô vụ án/bị cáo XXST vê tội cướp giật tài sản so vói tơng sơ
vụ án/bị cáo trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2015 đến năm 2020
•••

Năm

2015

Số vu án/bi
Tỷ lệ vụ án cưóp giậ
• • cáo bi Tổng số vụ án/bị cáo bi
tài sản trong tổng s
XXST
XXST
vụ án hình sự (%)



về tội cướp giật
Vu án
Bi cáo
Vu án
Bi cáo
tài sản
•24
•40


1382
2499
1,74

2016
2017

12
24

21
36

1210
1107

2160
1931


1
2,17

2018
2019

13

19

1184

2468

14

1073

1894

2020
*?
FT1 A

12
99

22
27


1168
7.124

2363

1,1
1,3
1,03

13.115

1,39

165

(Ngn: Tòa án nhân dân tỉnh ĐăkLăk)


Qua bảng số liệu trên, chúng ta có thể thấy rằng tình hình tội cướp
giật tài sản ở tỉnh Đắk Lắk có sự biến động qua các năm, trong khoảng từ
12-24 vụ án/năm, 19-40 bị cáo/năm, trong đó cao nhất là năm 2015 với
24 vụ án và 40 bị cáo.
Trong ba năm gần đây, tội phạm này trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk có
xu hướng giảm, nguyên nhân là do sự nhận thức, đề phòng của người dân
được nâng cao và sự quyết liệt của các cơ quan chức năng trong việc đấu
tranh phòng chống tội phạm.
Tuy số lượng vụ việc khơng lớn và có xu hướng giảm nhưng hậu
quả của tội cướp giật tài sản cịn có những thiệt hại về tính mạng, sức
khoẻ ngồi thiệt hại về tài sản. Gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự của địa
phương.

2.1.1.2.
Tĩnh hĩnh xét xử phúc thẩm
Trong công tác xét xử các vụ án hình sự, Tịa án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk đã xét xử phúc thẩm các bản án hình sự sơ thẩm về tội cưóp giật tài
sản bị kháng cáo, kháng nghị, cụ thể:


×