Tải bản đầy đủ (.docx) (137 trang)

Tội cướp giật tài sản trong luật hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh đắk lắk)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (830.28 KB, 137 trang )


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận vãn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận vãn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tât cả các mơn học
và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội.
Tôi xỉn chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Dương Thị Bích Dịu

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt


Danh mục các bảng
MỞ ĐÀU........................................................................................................................ 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA LUẬT
HÌNH Sự VIỆT NAM VÈ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN...............................6
1.1.

Khái niệm tội cướp giật tài sản....................................................................... 6

1.2.


Khái quát lịch sử lập pháp của tội cướp giật tài sản..................................... 8

1.2.1. Tội cướp giật tài sản theo quy định của pháp luật hình sự giai đoạn
1945-1985........................................................................................................9
1.2.2. Tội cướp giật tài sản theo quy định của pháp luật hình sự giai đoạn
1985-2015..................................................................................................... 11
1.2.3. Tội cướp giật tài sản theo quy định của pháp luật hình sự từ năm 2015
đến nay..........................................................................................................16
1.3.

Những dấu hiệu pháp lý và trách nhiệm hình sự của tội cướp giật tài
sản theo quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam 2015 (sửa đổi bổ sung năm
2017)................................................................................................................ 18

1.3.1. Các dấu hiệu định tội..................................................................................... 18
1.3.2. Trách nhiệm hình sự đốivới người phạm tộicướp giật tài sản.....................25
1.4.

Phân biệt tội cướp giật tàisản với một số tội phạm khác......................... 35

1.4.1. Phân biệt tội cướp giật tài sản với tội cưóp tài sản.......................................35


1.4.2. Phân biệt tội cướp giật tài sản với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản..........37
1.4.3. Phân biệt tội cướp giật tài sản với tội trộm cắp tài sản.................................39
1.4.4. Phân biệt tội cướp giật tài sản với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.................40
Chương 2: THựC TIỄN XÉT xử TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TẠI ĐỊA BÀN TỈNH
ĐẮK LẮK VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BƠ LUẬT HÌNH sụ VÈ
TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN.......................................................................... 42

2.1.

Thực tiễn xét xử tội cướp giật tài sản trên địa bàn tính Đắk Lắk..............42

2.1.1.

Tình hình xét xử tội cướp giật tài sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk (Từ
năm 2015 đến năm 2020)...............................................................................42

2.1.2.

Một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn xét xử tội cướp giật tài sản....47

2.1.3.

Nguyên nhân những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn xét xử................77

2.2.

Các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng
quy định của Bộ luật Hình sự về tội cướp giật tài sản................................ 79

2.2.1.

Hồn thiện các quy định pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản.............79

2.2.2.

Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật Hình
sự về tội cướp giật tài sản.............................................................................83


KÉT LUẬN................................................................................................................. 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................... 89


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẤT

BCA:
BLDS:
BLHS:
BLTTHS:
BTP:
LHS:

Bộ Công an
Bô Luât Dân sư
•••
Bơ lt Hình sư
•••
Bộ Luật Tố tụng Hình sự

XHCN:
XXPT:

Bộ Tư pháp
Lt hình sư
••
Tịa án nhân dân Tối cao
Trách nhiêm hình sư
••

Viên kiểm sát nhân dân Tối cao

Xã hội chủ nghĩa
Xét xử phúc thẩm

XXST:

Xét xử sơ thẩm

TANDTC:
TNHS:
VKSNDTC:


DANH MỤC CÁC BẢNG

So niêu

Tên bảng



Bảng 2.1

Trang

Số vụ án/bị cáo XXST về tội cướp giật tài sản so với tổng số
vụ án/bi cáo trên đia bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2015 đến năm

Bảng 2.2


2020
số liệu vụ án xét xử phúc thẩm tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk về tội cướp giật tài sản từ năm 2015 đến năm 2020

43

46

MỞ ĐẦU
1. Tính câp thiêt của đê tài

Qua 15 năm thực hiện Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị
về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, được sự quan tâm, nỗ lực của Đảng,
Nhà nước và của tồn dân thì tình hình an ninh trật tự an tồn xã hội nhìn chung đã
được giữ vững, tội phạm từng bước được kiểm sốt, tạo mơi trường ổn định cho sự
phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, với sự
chuyển đổi kinh tế thị trường, tình hình tội phạm ngày càng diễn biến tinh vi, phức tạp,
đặc biệt là các tội xâm phạm quyền sở hữu có chiều hướng gia tăng. Điều này gây ảnh
hưởng không nhỏ việc bảo vệ, bảo đảm các quyền cơ bản của công dân trong đó có
quyền sở hữu. Liên quan đến các tội phạm xâm hại về sở hữu, tội phạm cướp giật tài


sản trở thành vấn đề đáng lưu tâm, gây tâm lý bất ổn trong nhân dân gây ảnh hưởng
xấu đến tình hình an ninh chính trị.
Đắk Lắk là một tỉnh có diện tích lớn thứ tư cả nước, nằm ở trung tâm vùng Tây
Nguyên, miền Trung Việt Nam. Kinh tế chủ đạo của Đắk Lắk chủ yếu dựa vào sản
xuất và xuất khẩu nông sản, lâm sản, đời sống người dân có nhiều huyện cịn gặp
nhiều khó khăn, trình độ dân trí chưa đồng đều. Bên cạnh những thuận lợi cho việc
phát triển kinh tế thì cũng là điều kiện cho một số tội phạm phát triển, trong đó có tội

phạm cướp giật tài sản chiếm tỷ lệ lớn trong các tội phạm xâm phạm sở hữu, có tính
chất manh động, liều lĩnh, gây ảnh hưởng lớn đến trật tự trị an của địa phương, cướp
giật tài sản đang là loại tội phạm trở thành vấn nạn vô cùng bức xúc, được dư luận xã
hội quan tâm.
Cướp giật tài sản là một trong những tội thuộc nhóm tội xâm phạm quyền sở hữu được
quy định tại Bộ luật Hình sự Việt Nam. Qua thực tiễn xét xử tại địa bàn ••• • • • • •
tỉnh Đắk Lắk thì tình hình tội phạm về cướp giật tài sản ngày càng diễn biến phức tạp,
nhiều thủ đoạn tinh vi và việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn xét xử còn nhiều khó
khăn, vướng mắc. Đe đảm bảo truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội thì
việc nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu pháp lý cơ bản về tội cướp tài sản là cần thiết
để áp dụng quy phạm này vào thực tiễn xét xử đạt hiệu quả cao đồng


thời qua hoạt động xét xử phát hiện những điêm cịn vướng măc, những mặt tơn tại,
hạn chế từ đó có những giải pháp để hồn thiện, nâng cao chất lượng xét xử là địi hỏi
bức thiết, qua đó góp phần hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng quy định
của Bộ luật Hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản. Vì vậy, tác giả quyết định chọn
đề tài: “Tội cướp giật tài sản trong Luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn
tỉnh Đắk Lắk)” để nghiên cứu làm luận văn Thạc sĩ Luật học.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Cướp giật tài sản là một trong những tội phạm được quy định rất sớm trong
pháp luật hình sự ở thế giới nói chung và nước ta nói riêng. Cho đến nay đã có những
cơng trình nghiên cứu về tội cướp giật tài sản ở những cấp độ khác nhau như: Luận án
tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, đề tài khoa học, khóa luận tốt nghiệp và những khía cạnh khác
nhau như: Tội phạm học, khoa học Luật hình sự ..., cụ thể như:





1





••



y•

Một số giáo trình, sách chun khảo: GS.TSKH Lê Cảm (Chủ biên) - Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà
Nội, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội (2001, tái bản năm 2003 và 2007); GS.TS.
Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Chương XX - Các tội xâm phạm sở hữu trong Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), NXB Công an nhân dân (2010);
GS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên) - Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội
phạm), NXB Công an nhân dân, Hà Nội (2001); Một số cơng trình nghiên cứu khoa
2


học của Ths. Đinh Văn Quế - Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999 - Phần
••••••

các tội phạm, Tập II: Các tội xâm phạm sở hữu, NXB Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí
Minh, 2006; TS. Trần Minh Hường - Tìm hiểu Bộ luật Hình sự nước Cộng hịa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam - Bình luận và chú giải - Chương IV: Các tội xâm phạm quyền sở
hữu, Nxb Lao động, Hà Nội, 2002; PGS.TS Phùng Thế vắc (chủ biên), Bĩnh luận khoa

học Bộ luật Hình sự năm 1999 (Phần các tội phạm) - Chương IV: Các tội xâm phạm
sở hữu, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; TS. Cao Thị Oanh, Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) - Chương IV: Các tội phạm sở hữu, Nxb Giáo
dục, 2010; ThS. Đinh Thế Hoàng và ThS. Trần Văn Biên, Bĩnh luận Bộ luật Hình sự
của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã sửa đôi, bỏ sung năm 2009 Chương XIV: Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Lao động, 2010; Th.sỹ Đoàn Tấn Minh,
Luật gia Nguyễn Ngọc Điệp, Phương pháp định tội danh với 538 Tội danh trong Bộ
luật Hình sự Năm 2015, được sủa đối bố sung năm 2017', TS. Trần Văn Biên, TS.
Đinh Thế Hùng, Bĩnh luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015 (sủa đổi bơ sung năm
2017).
Các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Luật học chuyên ngành Tư pháp hình sự
nghiên cứu về các tội xâm phạm sở hữu như: Đỗ Kim Tuyến, Đấu tranh phòng, chống
tội cướp tài sản trên địa bàn Hà Nội, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, 2001; Lê Thị Khanh; Lê Thị Thu Hà, Tội cướp giật tài sản theo luật hình sự Việt
3


Nam, một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm học, Luận văn Thạc sĩ, khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu, sách chuyên khảo, bài viết liên quan
đến tội cướp giật tài sản thường tập trung đi sâu tới vấn đề lý luận về dấu hiệu định tội
của tội cướp giật tài sản hoặc nhìn nhận vấn đề dưới góc độ tội phạm học, đấu tranh
phòng ngừa tội cướp giật tài sản hoặc đấu tranh phòng ngừa tội xâm phạm tài sản trên
một địa bàn nhất định. Tuy nhiên, đến nay chưa có cơng trình nghiên cứu nào nghiên
cứu một cách tồn diện, có hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử đối với tội
cướp giật tài sản ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học kể từ khi BLHS năm 2015 (sửa
đổi bổ sung năm 2017) có hiệu lực, vì vậy Tác giả chọn đề tài “T0Z cưóp giật tài sản
trong Luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)” để nghiên
cứu chuyên sâu về tội cướp giật tài sản cũng như việc áp dụng chế định này vào trong
thực tiễn xét xử. Những vướng mắc, tồn tại trong việc áp dụng pháp luật, từ đó đưa ra
một số giải pháp đề nâng cao hiệu quả áp dụng.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Luận văn nghiên cứu và làm sáng rõ những vấn đề lý luận, dấu hiệu pháp lý,
thực trạng pháp luật hiện hành, thực tiễn xét xử tội cướp giật tài sản và những vướng
mắc, tồn tại từ đó đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
của công tác xét xử tội cướp giật tài sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
4


Trong khuôn khổ của Luận văn thạc sỹ, tác giả khơng có tham vọng nghiên cứu
về tất cả các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử đối với tội cướp giật tài sản. Việc nghiên
cứu thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản
được thực hiện đối với quá trình xét xử tại các Tòa án trên địa bàn tỉnh Đắk
•♦•1•♦

Lắk trong những năm gần đây. Do vậy, các kiến nghị đưa ra cũng tập trung cho việc
nâng cao hiệu quả của cơng tác xét xử.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài






ơ

Luận văn được thực hiện nhằm mục đích làm rõ những vấn đề lý luận về tội











J





cướp giật tài sản trong Luật hình sự Việt Nam, đồng thời nghiên cứu thực trạng áp
dụng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, làm sáng rõ những bất cập, hạn chế, để đưa ra những
kiến nghị và giải pháp tăng cường hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự Việt
Nam về tội cướp giật tài sản.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Nghiên cứu những vấn đề chung, dấu hiệu pháp lý, lịch sử lập pháp hình sự
đối với tội cướp giật tài sản trong Luật hình sự Việt Nam.
- Phân biệt tội cướp giật tài sản với một số tội phạm xâm phạm quyền sở hữu
khác.
- Thực tiễn tình trạng tội phạm về cướp giật tài sản trên địa bản tỉnh Đắk Lắk,
đánh giá thực trạng áp dụng Pháp luật. Dựa trên kết quả phân tích những ưu điểm,
5


những vấn đề cịn tồn tại. Từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định của
Pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật trong thực tiễn.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lên Nin, đó là
chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh;
những chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước về chính sách hình sự
đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, trong đó có tội cướp giật tài
sản.
Luận văn cịn sử dụng trong một tổng thể các phương pháp nghiên cứu cụ thể
như: Phương pháp phân tích và tơng hợp; Phương pháp so sánh; Phương pháp
thông kê; Phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Đồng thời, Luận văn
còn sử dụng một số phương pháp của các ngành khoa học khác như: Phương
pháp thống kê xã hội, Phương pháp lơgic học.
6. Tính mói và những đóng góp của đề tài

Tội cướp giật tài sản trong các nghiên cứu cũng mới chỉ phân tích thuần tuý
trên phương diện pháp lý mà chưa đề cập phân tích về thực tiễn áp dụng trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk, nơi có những đặc thù riêng. Bởi vậy, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận
về cấu thành tội phạm này cũng như thực tiễn xét xử đối với tội cướp giật tài sản trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk là việc làm cần thiết có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, Luận văn
6


hoàn thành sẽ là chuyên khảo khoa học phục vụ việc nghiên cứu, học tập về tội danh
này.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo thì luận văn gồm
02 chương sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và quy định của Luật hình sự Việt Nam về tội
cướp giật tài sản.

Chương 2: Thực tiễn xét xử tội cướp giật tài sản tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk và
các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật
Hình sự về tội cướp giật tài sản.

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH
CỦA LUẬT HÌNH sự VIỆT NAM VỀ TỘI cu ỚP GIẬT TÀI SẢN
1.1. Khái niệm tội CU’Ó’P giật tài sản

Tội cướp giật tài sản là một trong các tội xâm phạm sở hữu, lần đầu tiên được
quy định trong một điều luật độc lập (Điều 136) trong Bộ luật Hình sự năm 1999 trên
cơ sở tách tội cướp giật tài sản và tội công nhiên chiếm đoạt tài sản của BLHS năm
1985.
Trải qua các Bộ luật Hình sự, điều luật quy định về tội cướp giật tài sản đều
7


không mô tả hành vi của tội cướp giật tài sản. Tại Điều 171 Bộ Luật Hình sự 2015
(sửa đối bồ sung năm 2017) chỉ quy định tội cướp giật tài sản như sau: “Người nào
cướp giật tài sản của người khác, thì...”. Như vậy, nhà làm luật chỉ nêu tội danh, mà
không quy định cụ thể cấu thành tội phạm, đặc biệt là không mô tả hành vi thuộc mặt
khách quan của tội phạm nên đã dẫn đến nhiều trường họp hiểu và thực hiện khơng
thống nhất, có nhiều trường hợp có sự nhầm lẫn trong việc định tội danh nên vấn đề
đặt ra là cần nghiên cứu, làm rõ khái niệm của tội phạm này, từ đó đi sâu phân tích
những đặc trưng, đánh giá thực tiễn, đề xuất những giải pháp hoàn thiện phù hợp với
yêu cầu của thực tiễn.
Để làm rõ khái niệm tội cướp giật tài sản, chúng ta cần phân tích, làm rõ khái
niệm “Cướp giật”, “Tài sản” từ góc độ Luật hình sự, trên cơ sở đó phân tích, đưa ra
những đặc trưng nội hàm của khái niệm tội cướp giật tài sản.
Khái niệm “Tài sản”, nghĩa Hán Việt là khái niệm dùng để “chỉ chung tiền bạc,

của cải” [3, tr. 622], theo Điều 105 Bộ Luật dân sự 2015, tài sản được hiểu là vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động
sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.
Tuy nhiên, từ góc độ Luật hình sự, đối với các loại tội phạm có tính chất chiếm
đoạt tài sản trong đó có tội cướp giật tài sản, khơng phải lúc nào tài sản theo quan
niệm của Bộ luật Dân sự cũng được coi là đối tượng của tội phạm này, như quyên vê
tài sản cũng không phải là đôi tượng tác động của cướp giật tài sản, các quyền tài sản
8


thông thường là quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây
trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm ... Các
quyền này thường gắn liền với nhân thân con người hoặc được thể hiện qua các giấy tờ
có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền. Cho nên, cũng như giấy tờ có giá ghi danh thì
người phạm tội không thể xác lập quyền sở hữu đối với các quyền tài sản của chủ sở
hữu. Tài sản là đối tượng tác động của cướp giật tài sản phải được Nhà nước cho lưu
hành và có thể dịch chuyển được giữa các chủ sở hữu, có thể mua bán trao đổi một
cách hợp pháp, là tài sản hữu hình, có thực, có thể nhìn thấy, sờ thấy. Những tài sản bị
Nhà nước cấm lưu hành như: Băng đĩa hình đồi trụy, ma túy ... không phải là đối
tượng của tội cướp giật tài sản.
Hành vi cướp giật, tức là giằng mạnh lấy tài sản về mình một cách nhanh
chóng (ngay tức khắc). Chính vì hành vi giật tài sản đã bao gồm bản chất của tội cướp
giật nên nhà làm luật không mô tả hành vi khách quan của tội cướp giật trong cấu
thành cũng là điều dễ hiểu.

Tội cưóp giật tài sản nằm trong Chương XVI “Các tội xâm phạm sở hữu” của
Bộ luật Hình sự 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017) và căn cứ vào tính chất chiếm đoạt
thì cướp giật tài sản thuộc nhóm tội “Xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt”.
Các tội phạm xâm phạm sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện

một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến quan hệ sở hữu của cơ quan tổ chức và của
9


công dân” [2, tr. 9].
Theo quan điểm của TSKH.GS Lê Cảm thì “Chiếm đoạt là hành vi cố ý chuyển
biến một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành tài sản của mình hoặc của
một nhóm người hoặc cho người khác mà mình quan tâm” [6, tr. 230].
Hành vi chiếm đoạt tài sản được coi là bắt đầu khi người phạm tội bắt đầu thực
hiện việc làm mất khả năng chiếm hữu của chủ tài sản để tạo khả năng đó cho mình.
Khi người phạm tội làm chủ được tài sản chiếm đoạt thì khi đó hành vi chiêm đoạt
được coi là đã hoàn thành, người phạm tội được coi là đã chiêm đoạt được tài sản.
Như vậy cướp giật tài sản là hành vi của một người có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện có tính chất công khai, chiếm đoạt tài sản một cách nhanh chóng.
Khái niệm tội phạm được định nghĩa cụ thể tại Điều 8, Bộ luật Hình sự 2015
(Sửa đổi bổ sung năm 2017) như sau: "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc
pháp nhân thưong mại thực hiện một cách cố ý hoặc vơ ý..
Trên thực tế có rất nhiều quan điểm về tội danh này. Cụ thể, có quan điểm cho
rằng: “Cướp giật tài sản là (Hành vỉ) công khai chiếm đoạt tài sản một cách nhanh
chóng để tránh phản kháng của chủ tài sản” hay “Tội cướp giật tài sản là hành vi
nhanh chóng chiếm đoạt tài sản một cách cơng khai”.
Thạc sĩ Đinh Văn Quế có quan điểm: “Cướp giật tài sản là hành vi nhanh chóng
giật lấy tài sản của người khác một cách công khai rồi tẩu thoát” [11, tr. 1461
1
0


Theo quan điểm của TSKH.GS Lê Văn Cảm: “Tội cướp giật tài sản là việc
người phạm tội chiếm đoạt tài sản của người khác bằng hành vi nhanh chóng, cơng

khai với thủ đoạn lợi dụng hoặc tạo ra sơ hở, vướng mắc của người quản lý tài sản” [6,
tr. 254].
Như vậy, trên cơ sở tổng kết các quan điểm khác nhau trong khoa học pháp lý
và thực tiễn, chúng ta có thể đưa ra định nghĩa khoa học về tội cướp giật tài sản như
sau: “7ợj cướp giật tài sản là hành vi nguỵ hiểm cho xã hội được quy định trong
BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ỷ trực tiếp,
chiếm đoạt tài sản của người khác bằng cách công khai, nhanh chóng giật lấy tài sản
của người khác rồi tâu thốt”.
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp của tội cướp giật tài sản

Sự hình thành và phát triển của các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam về
các tội xâm phạm sở hữu gắn liền với sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp
luật Việt Nam nói chung kể từ ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hịa. Nó
gắn liền với các giai đoạn của cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân
Pháp, đến cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Khi đất nước được thống
nhất, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội đã tạo ra những cơ sở về chính trị, kinh tếxã hội để thống nhất về mặt luật pháp, trong đó pháp luật hình sự quy định các tội
phạm xâm phạm sở hữu ngày càng được xây dựng và hoàn thiện.
1
1


1.2.1.

Tội cướp giật tài sản theo quy định của pháp luật hình sự giai đoạn 1945-

1985

Sau Cuộc Cách mạng Tháng tám 1945 thành cơng, nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hịa ra đời, việc xây dựng và bảo vệ chế độ sở hữu đóng vai trị quan trọng chính là nền tảng kinh tế xã hội của đất nước, vì vậy, tại Điều 12, Hiến pháp 1946 đã
ghi nhận: “Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm”.

Ngồi ra, Nhà nước cịn ban hành hàng loạt các Thông tư, sắc lệnh như: Thông
tư số 60 - 28/6/1947 của Liên Bộ Tư pháp - Quốc phòng, sắc lệnh số 26-SL ngày 25
tháng 02 năm 1946 quy định các hành vi phá hoại công sản, sắc lệnh số 12-SL ngày 12
tháng 3 năm 1949 trừng trị tội ăn cắp các đồ quân giới, quân trang, quân dụng.
Sau khi giải phóng Miền Bắc, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Thơng tư
442/TTg ngày 19/02/1955 hướng dẫn các Tịa án trừng trị một số tội xâm phạm sở hữu
như trộm cắp, cướp của, lừa đảo, bội tín ... sắc lệnh số 267-SL ngày 15 tháng 6 năm
1956 trừng trị những âm mưu và hành động phá hoại tài sản của Nhà nước, của Hợp
tác xã, của Nhân dân và cản trờ việc thực hiện chính sách kế hoạch Nhà nước. Điều 2
Sắc lệnh số 267-SL quy định: “Người phạm các tội trộm cắp, lãng phí, làm hỏng, hủy
hoại, cướp bóc tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã, của nhân dân với mục đỉch phá
hoại sẽ bị xử phạt từ năm năm đến hai mươi năm tù”.
Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật này, tội cướp giật tài sản chưa được quy
định thành một điều luật cụ thể.

1
2


Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc hồn tồn được giải
phóng. Nhiệm vụ của đất nước ta trong thời kỳ này là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Miền Bắc và tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam để
thống nhất đất nước, việc bảo vệ sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể là vấn đề cấp bách,
được đặc biệt coi trọng. Hiến pháp 1959 ra đời và tại Điều 11 Hiến pháp 1959 đã quy
định:
Ở nước Việt Nam dân chủ cộng hồ trong thời kỳ q độ, các hình thức sở
hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất hiện nay là: hình thức sở hữu của Nhà nước
tức là của tồn dân, hình thức sở hữu của hợp tác xã tức là hình thức sở hữu
tập thể của nhân dân lao động, hình thức sở hữu của người lao động riêng
lẻ, và hình thức sở hữu của nhà tư sản dân tộc.

Tại Điều 40 - Hiến pháp 1959 đã ghi nhận: “Tài sản công cộng của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hịa là thiêng liêng khơng thề xâm phạm. Cơng dân có nghĩa vụ
tơn trọng và bảo vệ tài sản cơng cộng”.
Để cụ thể hóa tinh thần quy định này thì Nhà nước đã thơng qua hai văn bản
pháp luật mới là: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN ngày 21 tháng
10 năm 1970 và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân ngày
21 tháng 10 năm 1970.
Tại Điều 5 của Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN, Tội cướp
giật tài sản XHCN được quy định: “Kẻ nào cướp giật tài sản XHCN thì bị phạt tù từ 1
1
3


năm đến 7 năm”. Tại Điều 4 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của
công dân có ghi: “Kẻ nào Cướp giật tài sản riêng của cơng dân thì bị phạt tù từ 3
thảng đến 5 năm”. Thời kỳ này, Tội cướp giật tài sản XHCN và Tội cướp giật tài sản
riêng của công dân đã được cụ thể hóa thành hai điều luật riêng nằm trong hai pháp
lệnh khác nhau.
Ngoài hai Pháp lệnh trên, Ban bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 185
ngày 09/12/1970 về tăng cường bảo vệ tài sản XHCN nhằm chỉ đạo thi hành nội dung
hai Pháp lệnh trong thực tế. Ngày 16/03/1973, Thông tư liên bộ cùa TANDTC VKSNDTC - BCA hướng dẫn trong đó, tội cướp giật tài sản được hiểu là: “Trường
hợp kẻ phạm tội lợi dụng sơ hở vướng mắc của người giữ tài sản, bất thần giằng lấy
tài sản trên tay người giữ tài sản”. Hướng dẫn này đã khái quát tội cướp giật tài sản
với hành vi khách quan của tội phạm là hành vi chiếm đoạt tài sản một cách nhanh
chóng và cơng khai.
Sau khi Miền Nam được giải phóng, đất nước được thống nhất, đế thực hiện
việc trấn áp các tội phạm sở hữu thì Chính phủ Cách mạng lâm thời Miền Nam Việt
Nam đã ban hành Săc Luật sô 03-SL/76 ngày 15/03/1976 quy định Tội phạm và Hình
phạt, tuy tội cướp giật tài sản không được quy định cụ thể, chi tiết trong một điều luật
riêng nhưng cũng đã được quy định chung trong Điều 4 cùng với các tội xâm phạm sở

hữu khác, Cụ thể:
Điều 4: Tội xâm phạm đến tài sản công cộng.
1
4


“Phạm các tội chiếm đoạt khác như trộm cắp, tham ô, lừa đảo, bội tín, cướp
giật, cưỡng đoạt, chiếm giữ trái phép thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 7 năm. Trường hợp
nghiêm trọng thì phạt đến 15 năm”.
Tại Thông tư số 03-BTP/TT tháng 4 năm 1976 của Bộ Tư pháp giải thích Sắc
Luật số 03-SL/76 ngày 15/03/1976 “Cướp giật là lợi dụng sơ hở vướng mắc của
người giữ tài sản bất thần giằng giật lấy tài sản tư trên tay người đó hoặc cơng nhiên
lấy từ nơi đê tài sản rồi chạy trốn hoặc bỏ đi, mà không dùng bạo lực để lấy”.
Theo tinh thần của Thông tư số 03-BTP/TT tháng 4 năm 1976 của Bộ Tư pháp
thì ta có thể hiểu rằng tội cướp giật tài sản trong sắc Luật số 03-SL/76 ngày
15/03/1976 bao gồm hai dạng hành vi là hành vi giật tài sản và hành vi công khai
chiếm đoạt tài sản.
Như vậy, trước khi Bộ luật Hình sự năm


phạm

7

1985 ra đời thì cáctội phạm xâm
•••



sở hữu nói chung và tội cướp giật nói riêng được quy định ở các


1•

văn bản

dưới
luật đã góp phần trấn áp tội phạm cũng như đảm bảo trật tự xã hội.
1.2.2.

Tội cướp giật tài sản theo quy định của pháp luật hình sự giai đoạn 1985-

2015

Bộ luật Hình sự năm 1985 ra đời trong bối cảnh nước ta đã hoàn toàn độc lập,
tự do. Thời kỳ này đất nước ta có nhiệm vụ là cần bảo vệ nền kinh tế bao cấp chủ yếu
dựa trên hai hình thức sở hữu: Nhà nước và1tập thể theo cơ chế bao cấp. Bộ luật Hình
5


sự 1985 là Bộ luật Hình sự đầu tiên của nước ta dựa trên sự kế thừa và phát huy những
thành tựu của Pháp luật hình sự Việt Nam đồng thời tiếp thu có chọn lọc những kinh
nghiệm lập pháp hình sự của các nước trên thế giới. Đây là bước ngoặc quan trọng
trong lịch sử Pháp luật hình sự Việt Nam. Bộ luật Hình sự năm 1985 nhằm chi tiết và
cụ thể hóa các quy định trong Hiến pháp 1980.
Điêu 12 của Hiên pháp năm 1980 đã đặt ra yêu câu cho công tác lập pháp:
“Nlỉà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường phấp chế xã hội
chủ nghĩa”.
Điều 18 Hiến pháp năm 1980 quy định:
Nhà nước tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất, hướng dẫn, sử dụng và
cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và củng cố chế

độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một nền kinh
tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh
thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập
thể của nhân dân lao động.
Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và được
phát triển ưu tiên.
Chính sự quy định này của Hiến pháp mà quy định về tội cướp giật tài sản
trong Bộ luật Hình sự năm 1985 vẫn cịn phân biệt giữa cướp giật tài sản xã hội chủ
1
nghĩa và tài sản riêng của cơng dân. Dựa vào hình thức sở hữu bị xâm phạm mà nhà
6


làm luật chia tội cướp giật tài sản ra làm hai Điều luật khác nhau.
Điều 131 Bộ luật Hình sự 1985 quy định:
1. Người nào cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản Xã hội Chủ
nghĩa, nếu không thuộc trường hợp quy định ở Điều 129, thì bị phạt tù từ
một năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm
đến mười hai năm:
a. Có tổ chức hoặc có tính chun nghiệp.
b. Dùng thủ đoạn nguy hiểm; hành hung để tẩu thốt.
c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác.
d. Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười
năm đến hai mươi năm.
Điêu 154 Bộ luật Hình sự 1985 quy định:
1. Người nào cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác,
nếu không thuộc trường hợp quy định ở Điều 151, thì bị phạt tù từ ba tháng
đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai
năm đến mười năm:
1 nghiệp.
a. Có tổ chức hoặc có tính chun
7


b. Dùng thủ đoạn nguy hiểm; hành hung để tẩu thốt.
c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác.
d. Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy
năm đến hai mươi lăm năm.
Tội cướp giật tài sản được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1985 về cơ bản
cũng giống sự quy định của tội cướp giật tài sản trong các văn bản pháp luật hình sự
trước đó, tuy nhiên quy định pháp luật điều chỉnh tội cướp giật tài sản trong Bộ luật
Hình sự 1985 cũng có những điểm mới sau:
So với hai Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN và trừng trị các
tội xâm phạm tài sản riêng của cơng dân thì BLHS năm 1985 có mức phạt tối đa cao
hơn. Ó BLHS năm 1985, mức phạt tối đa là 15 năm với tội cướp giật tài sản riêng
công dân và 20 năm với tội cướp giật tài sản XHCN. Mức hình phạt tối thiểu là một
năm với tội cướp giật tài sản XHCN và 3 tháng với tội cướp giật tài sản riêng của công
dân là tương đương với hai Pháp lệnh năm 1970. Thay vì có 2 khung hình phạt ở hai
Pháp lệnh năm 1970, BLHS năm 1985 quy định ba khung hình phạt và đối với các tình
tiết định khung tăng nặng, thì tại Điều 131 và Điều 154 còn quy định thêm hai tình tiết
mới là “dùng thủ đoạn nguy hiểm” và “chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu
quả nghiêm trọng khác”. Khung 3 quy định chung các trường hợp phạm tội có tính
chất đặc biệt nghiêm trọng. Ngồi hình phạt chính cịn có thể áp dụng hình phạt bổ
1
8



sung quy định tại khoản 2 và 3 Điều 142; Khoản 2,3 Điều 163 BLHS năm 1985 bao
gồm hình phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm hay bị tịch thu một
phần hoặc toàn bộ tài sản.
J





• JL





về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: BLHS năm 1985 đã quy định về các quy định
về tình tiết tăng nặng (Điều 39), tình tiết giảm nhẹ (Điều 38), trong đó hầu hết các tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ trong hai Pháp lệnh năm 1970 đã đuọc giữ lại và bổ sung
thêm rất nhiều tình tiết mới. Ngày 28/12/1989, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của BLHS năm 1985, trong đó bổ sung thêm một số tình tiết định
khung tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người “phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp” vào Điểm a Khoản 2 của các Điều luật quy định về tội cướp giật hoặc tội
công nhiên chiếm đoạt tài sản.
Nguyên tắc xử lý quy định trong BLHS năm 1985 nói chung khơng có gì thay
đổi so với Pháp lệnh năm 1970. Theo Điều 3 BLHS năm 1985 thì mọi hành vi phạm
tội nói chung và hành vi xâm phạm sở hữu phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh
chóng, cơng minh theo đúng pháp luật.
Năm 1986, Đảng ta đã thực hiện đường lối đổi mới, phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận động theo co chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Đường

lối đổi mới của Đảng thể hiện quan Hiến pháp 1992 rất rõ.
Điều 15 Hiến pháp 1992 quy định:
Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo co chế thị
1
9


×