Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Báo cáo " Cơ cấu tổ chức của ASEAN - từ Tuyên bố Băng Cốc đến Hiến chương " pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.92 KB, 9 trang )

Tæng quan vÒ ASEAN


8 t¹p chÝ luËt häc sè 9/2008





ThS. Lª Minh TiÕn *
ới định hướng phát triển đặc thù,
“thống nhất trong đa dạng” và “linh
hoạt” trong các thời kì hoạt động, cơ cấu tổ
chức của ASEAN đã được linh hoạt thay
đổi, phù hợp với tình hình và yêu cầu hợp
tác đặt ra trong mỗi giai đoạn khác nhau.
Qua 40 năm hình thành và phát triển, cơ cấu
tổ chức của ASEAN đã trải qua 4 lần cải tổ:
thời kì 1967 đến 1976, thời kì 1976 đến
1992, thời kì 1992 đến Hiến chương 2007 và
thời kì theo Hiến chương 2007.
I. KHÁI QUÁT VỀ CƠ CẤU TỔ
CHỨC CỦA ASEAN TRƯỚC KHI CÓ
HIẾN CHƯƠNG
1. Giai đoạn từ khi thành lập đến Hội
nghị thượng đỉnh Bali năm 1976
Trong giai đoạn đầu tiên, cơ cấu tổ chức
của ASEAN được thiết kế một cách đơn giản
và gọn nhẹ. Theo Điều 7 Tuyên bố Băng
Cốc 1967, cơ cấu tổ chức của ASEAN trong
giai đoạn này bao gồm các cơ quan


(1)
:
- Hội nghị ngoại trưởng (AMM);
- Uỷ ban thường trực;
- Ban thư kí ASEAN quốc gia;
- Các uỷ ban thường trực khác, uỷ ban
đặc biệt hoặc ad hoc về các lĩnh vực hoặc
vấn đề hợp tác cụ thể. Trong thực tế, đến
năm 1976, ASEAN đã thành lập 11 Ủy ban
thường trực và 9 uỷ ban đặc biệt.
Như vậy, trong giai đoạn này, cơ cấu tổ
chức của ASEAN còn khá lỏng lẻo, chỉ đủ
để duy trì hoạt động hợp tác giữa các quốc
gia khi cần thiết. Thậm chí, Ban thư kí chung
của ASEAN còn chưa được thành lập mà
mới chỉ có các Ban thư kí ở các quốc gia.
2. Giai đoạn từ năm 1976 đến Hội nghị
thượng đỉnh Singapore năm 1992
Sang giai đoạn này, cơ cấu tổ chức của
ASEAN đã có những thay đổi lớn. Theo
Tuyên bố về sự hoà hợp ASEAN được thông
qua tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ nhất tại
Bali ngày 24/02/1976, cơ cấu tổ chức của
ASEAN trong giai đoạn này gồm các hội
nghị bộ trưởng, các uỷ ban và ban thư kí.
(2)

Mặc dù Hội nghị ngoại trưởng vẫn được
coi là cơ quan hoạch định chính sách cao nhất
nhưng 5 hội nghị bộ trưởng khác cũng đã

được thiết lập để thảo luận và thông qua các
chương trình hợp tác khác của ASEAN, gồm:
- Hội nghị bộ trưởng kinh tế (AEM);
- Hội nghị bộ trưởng lao động (ALM);
- Hội nghị bộ trưởng phụ trách phúc lợi
xã hội (ASWM);
- Hội nghị bộ trưởng giáo dục (AEM);
- Hội nghị bộ trưởng thông tin (AIM).
Trong số 5 hội nghị trên, Hội nghị bộ
trưởng kinh tế có tầm quan trọng lớn nhất.
Tất cả các ủy ban thường trực và ủy ban ad
hoc trước đó đã được tổ chức lại thành 9 ủy
ban sau:
- Ủy ban về công nghiệp, khoáng sản và
năng lượng;
V

* Giảng viên Khoa luật quốc tế
Trường Đại học Luật Hà Nội
Tæng quan vÒ ASEAN


t¹p chÝ luËt häc sè 9/2008
9
- Ủy ban về thương mại và du lịch;
- Ủy ban về lương thực, nông nghiệp và
lâm nghiệp;
- Ủy ban về tài chính và ngân hàng;
- Ủy ban về vận tải và liên lạc;
- Ủy ban về ngân sách;

- Ủy ban về phát triển xã hội;
- Ủy ban về văn hoá và thông tin;
- Ủy ban về khoa học và kĩ thuật.
Ngoài ra, còn có một số tiểu ban đã
được thành lập nhằm hỗ trợ cho các ủy ban
nói trên để giải quyết các vấn đề cụ thể.
Ban thư kí ASEAN là cơ quan hành
chính của ASEAN và đã được thành lập năm
1978 theo Hiệp định về Ban thư kí ASEAN
(Bali, 1976).
Như vậy, sau 9 năm hoạt động, cơ cấu tổ
chức của ASEAN đã có những cải tiến quan
trọng, phản ánh sự trưởng thành của ASEAN
nhằm tăng cường hợp tác về chính trị và
nâng cao hiệu quả hoạt động của ASEAN,
đặc biệt là đã bắt đầu có Ban thư kí chung
của Hiệp hội. Việc thay đổi cơ cấu này được
những người đứng đầu chính phủ ASEAN 5
đánh giá trong Tuyên bố Kuala Lumpur là:
“những điều chỉnh cần thiết được thực hiện
đối với cơ cấu tổ chức ASEAN đã làm cho bộ
máy đó có thể thực hiện được những hoạt
động ngày càng tăng trong Chương trình
hành động được vạch ra trong tuyên bố về
sự hoà hợp ASEAN” (Điểm 53).
3. Giai đoạn từ năm 1992 đến nay
Từ đầu thập niên của thế kỉ XX, thế giới
bước sang đà phát triển vũ bão theo xu
hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá. Mức độ
liên kết của các tổ chức quốc tế khu vực

ngày càng cao. Cùng với xu thế đó, ASEAN
cũng phải có những điều chỉnh thích hợp về
mọi mặt để đáp ứng nhu cầu hợp tác trong
điều kiện mới, nhất là đối với các hoạt động
trong hợp tác kinh tế, khi này đã trở thành
linh hồn hợp tác trong khối.
Về cơ cấu tổ chức, Hội nghị thượng đỉnh
lần thứ tư tại Singapore năm 1992 đánh dấu
mốc quan trọng trong quá trình cải cách bộ
máy tổ chức của ASEAN. Theo Điểm 8
Tuyên bố Singapore năm 1992, bộ máy của
ASEAN trong giai đoạn này được cơ cấu lại
như sau
(3)
:
Các cơ quan hoạch định chính sách gồm:
- Hội nghị cấp cao ASEAN (ASEAN Summit);
- Hội nghị ngoại trưởng (ASEAN
Ministerial Meeting);
- Hội nghị bộ trưởng kinh tế (ASEAN
Economic Ministers);
- Hội nghị bộ trưởng các ngành;
- Hội nghị liên Bộ trưởng - JMM (Joint
Ministerial Meeting).
Các cơ quan chấp hành gồm:
- Uỷ ban thường trực ASEAN - ASC
(ASEAN Standing Committee);
Uỷ ban thường trực ASEAN được thành
lập năm 1987,
(4)

bao gồm chủ tịch là bộ
trưởng ngoại giao của nước đăng cai AMM
tiếp theo, Tổng thư kí ASEAN và tổng vụ
trưởng các ban thư kí ASEAN quốc gia.
- Các uỷ ban hợp tác chuyên ngành;
- Cuộc họp các quan chức cấp cao -
SOM (Senior Officials Meeting);
- Cuộc họp các quan chức kinh tế cao cấp
- SEOM (Senior Economic Officials Meeting);
- Các cuộc họp quan chức cao cấp khác
Ngoài các cuộc họp trên, còn có các cuộc
họp của các quan chức cao cấp về môi
Tæng quan vÒ ASEAN


10 t¹p chÝ luËt häc sè 9/2008

trường, ma túy, khoa học và công nghệ, văn
hoá và thông tin (tương tự như các lĩnh
vực phụ trách của các uỷ ban phi kinh tế).
- Cuộc họp tư vấn chung - JCM (Joint
Consultative Meeting)
- Ban thư kí ASEAN
Tuyên bố Singapore năm 1992 sau Hội
nghị thượng đỉnh lần thứ 4 tại Singapore
năm 1992 đã có những sửa đổi nhất định đối
với cơ cấu và chức năng, quyền hạn của Ban
thư kí.
(5)


- Ban thư kí ASEAN quốc gia
Ngoài các cơ quan trên, để thực hiện cơ
chế hợp tác đối với bên thứ ba, ASEAN còn
có hội nghị sau hội nghị ngoại trưởng, các
cuộc họp của ASEAN với các bên đối thoại
và Ủy ban ASEAN ở các nước thứ ba.
II. CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA ASEAN
THEO HIẾN CHƯƠNG
Hiến chương ASEAN là nhu cầu tất yếu
khách quan và là bước chuyển giai đoạn
quan trọng của Hiệp hội sau 40 năm tồn tại
và phát triển, phản ánh sự trưởng thành của
ASEAN, thể hiện tầm nhìn và quyết tâm
chính trị của các nước ASEAN, đặc biệt là
mục tiêu xây dựng một ASEAN liên kết chặt
chẽ hơn, hiệu quả hơn và vững mạnh hơn.
Văn bản pháp lí hợp nhất này của ASEAN sẽ
tạo ra khuôn khổ pháp lí và thể chế mới cho
hợp tác ASEAN trong tương lai, qua đó hỗ
trợ thiết thực không chỉ cho quá trình hướng
tới Cộng đồng ASEAN mà còn nâng cao vị
thế của Hiệp hội với các đối tác và các tiến
trình khác ở khu vực hiện nay cũng như sau
này.
Cùng với sự ràng buộc pháp lí với tư
cách là hiến chương của một tổ chức quốc tế
liên chính phủ, sự đổi mới về phương thức
hoạt động thì sự cải tổ về cơ cấu tổ chức
trong Hiến chương sẽ giúp ASEAN thực
hiện các thỏa thuận nghiêm túc, kịp thời,

nâng cao chất lượng và hiệu quả hợp tác.
MÔ HÌNH CƠ CẤU TỔ CHỨC cu¶ ASEAN THEO HIẾN CHƯƠNG
Hội đồng điều phối
Hội đồng
C

ng
đồ
ng an ninh-chính tr

Hội đồng
Cộng đồng kinh tế
Hội đồng
C

ng
đồ
ng v
ă
n hóa-xã h

i
Các c
ơ
quan chuyên ngành
c

p b

tr

ưở
ng (14 c
ơ
quan)
Các c
ơ
quan chuyên ngành
c

p b

tr
ưở
ng (17 c
ơ
quan)
Các c
ơ
quan chuyên ngành
c

p b

tr
ưở
ng (6 c
ơ
quan)
HỘI NGHỊ CẤP CAO
Các cơ quan giúp

việc trực thuộc
Các cơ quan giúp
việc trực thuộc
Các cơ quan giúp
việc trực thuộc
Ban th− kÝ
Ủy ban
thường trực

Tæng quan vÒ ASEAN


t¹p chÝ luËt häc sè 9/2008 11

Chương IV của Hiến chương quy định
về cơ cấu tổ chức của ASEAN, cụ thể:
1. Hội nghị cấp cao - Summit (Điều 7)
Hội nghị cấp cao ASEAN bao gồm các
nguyên thủ quốc gia hoặc những người đứng
đầu chính phủ của các quốc gia thành viên.
Hội nghị cấp cao tiến hành họp 2 lần một
năm và do quốc gia thành viên giữ chức Chủ
tịch ASEAN chủ trì và tổ chức, ngoài ra hội
nghị cấp cao sẽ được nhóm họp bất thường
khi cần thiết.
ASEAN Summit vẫn là cơ quan quyền lực
cao nhất của ASEAN nhưng điểm mới của
Hiến chương là thể chế hoá cụ thể, rõ ràng
chức năng nhiệm vụ của hội nghị cấp cao:
- Xem xét, đưa ra chỉ đạo về đường lối

chính sách và quyết định các vấn đề then chốt
liên quan đến việc thực hiện các mục tiêu
của ASEAN, các vấn đề quan trọng mà các
quốc gia thành viên quan tâm và tất cả các
vấn đề mà Hội đồng điều phối ASEAN, các
hội đồng Cộng đồng ASEAN và các cơ quan
chuyên ngành cấp bộ trưởng đệ trình lên;
- Chỉ đạo các bộ trưởng liên quan thuộc
các hội đồng tiến hành các hội nghị liên bộ
trưởng đặc biệt và giải quyết các vấn đề
quan trọng của ASEAN có liên quan đến các
hội đồng Cộng đồng (tuy nhiên, quy định về
thủ tục tiến hành các hội nghị này sẽ do Hội
đồng điều phối ASEAN thông qua);
- Thực thi những biện pháp thích hợp để
xử lí các tình huống khẩn cấp tác động tới
ASEAN;
- Quyết định các vấn đề liên quan đến cơ
chế ra quyết định (quy định tại Chương VII Hiến
chương) và cơ chế giải quyết tranh chấp (được
đề cập tại Chương VIII của Hiến chương);
- Cho phép thành lập và giải tán các cơ
quan chuyên ngành cấp bộ trưởng và các thể
chế khác của ASEAN;
- Bổ nhiệm Tổng thư kí ASEAN.
2. Hội đồng điều phối-Coordinating
Council (Điều 8)
Hội đồng điều phối ASEAN bao gồm
các ngoại trưởng ASEAN, họp ít nhất 2 lần
một năm. Hội đồng điều phối ASEAN sẽ

được các quan chức cao cấp liên quan hỗ trợ.
Hội đồng điều phối có chức năng và
thẩm quyền:
- Chuẩn bị các phiên họp cho hội nghị
cấp cao;
- Điều phối việc triển khai các thỏa thuận
và quyết định của hội nghị cấp cao;
- Phối hợp với các hội đồng Cộng đồng
ASEAN nhằm tăng cường tính đồng bộ về
chính sách, hiệu quả và hợp tác giữa các cơ
quan này;
- Tổng hợp các báo cáo của các hội
đồng Cộng đồng ASEAN để trình lên hội
nghị cấp cao;
- Xem xét báo cáo hàng năm của Tổng
thư kí về các hoạt động của ASEAN;
- Xem xét báo cáo của Tổng thư kí về
chức năng, nhiệm vụ và hoạt động của Ban
thư kí ASEAN và các cơ quan liên quan khác;
- Thông qua việc bổ nhiệm và miễn
nhiệm các phó Tổng thư kí theo khuyến nghị
của Tổng thư kí;
- Thực thi các nhiệm vụ khác được nêu
trong Hiến chương hoặc những chức năng
khác do hội nghị cấp cao chỉ thị.
3. Các hội đồng cộng đồng -Community
Council (Điều 9)
Các hội đồng cộng đồng bao gồm Hội
Tæng quan vÒ ASEAN



12 t¹p chÝ luËt häc sè 9/2008

đồng Cộng đồng chính trị-an ninh, Hội đồng
Cộng đồng kinh tế, Hội đồng Cộng đồng văn
hoá-xã hội ASEAN. Mỗi quốc gia thành viên
sẽ chỉ định một đại diện quốc gia tham dự
cuộc họp của hội đồng Cộng đồng ASEAN,
trực thuộc mỗi hội đồng cộng đồng sẽ có các
cơ quan chuyên ngành cấp bộ trưởng.
Để thực hiện các mục tiêu của từng trụ
cột trong ba trụ cột của cộng đồng, mỗi hội
đồng cộng đồng ASEAN có nhiệm vụ:
- Đảm bảo việc triển khai các quyết định
có liên quan của hội nghị cấp cao;
- Điều phối công việc của các ngành
khác nhau thuộc phạm vi mình phụ trách và
các vấn đề có liên quan đến các hội đồng
cộng đồng khác;
- Đệ trình các báo cáo và khuyến nghị
lên hội nghị cấp cao ASEAN về những vấn
đề thuộc phạm vi trách nhiệm của mình.
Mỗi hội đồng Cộng đồng họp ít nhất 2
lần 1 năm và do bộ trưởng có liên quan của
quốc gia thành viên giữ cương vị chủ tịch
ASEAN chủ trì. Mỗi hội đồng cộng đồng
ASEAN sẽ được hỗ trợ bởi các quan chức
cao cấp có liên quan.
4. Các cơ quan chuyên ngành cấp bộ
trưởng - Sectoral Ministerial Bodies (Điều 10)

Các cơ quan chuyên ngành cấp bộ
trưởng ASEAN là các thiết chế trực thuộc
các hội đồng cộng đồng (Hội đồng Cộng
đồng an ninh-chính trị có 6 cơ quan, Hội
đồng cộng đồng kinh tế có 14 cơ quan, Hội
đồng văn hoá-xã hội có 17 cơ quan trực
thuộc,
(6)
có chức năng, quyền hạn:
- Thực hiện các thỏa thuận và quyết định
của hội nghị cấp cao trong lĩnh vực của mình;
- Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực mà
mình phụ trách để hỗ trợ tiến trình liên kết
và xây dựng Cộng đồng ASEAN;
- Đệ trình các báo cáo và khuyến nghị
lên các hội đồng cộng đồng liên quan.
Mỗi cơ quan chuyên ngành cấp bộ trưởng
trong phạm vi chức năng của mình có thể giao
cho các quan chức cao cấp và các cơ quan trực
thuộc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
được nêu trong Phụ lục 1 của Hiến chương.
5. Tổng thư kí và Ban thư kí (Điều 11)
Với phương châm cải tổ cơ cấu tổ chức
nhằm tăng cường hoạt động của ASEAN
ngày càng thiết thực hơn, hiệu quả hơn nên
Tổng thư kí và Ban thư kí ASEAN là những
thiết chế được cải tổ mạnh mẽ trong Hiến
chương với mục đích tăng cường vai trò của
các thiết chế này trong các hoạt động hợp tác
của ASEAN.

5.1. Tổng thư kí
Tổng thư kí ASEAN do hội nghị cấp cao
bổ nhiệm với nhiệm kì 5 năm và không được
tái bổ nhiệm. Tổng thư kí được lựa chọn
trong số công dân của các quốc gia thành
viên ASEAN dựa theo thứ tự luân phiên, có
tính đến sự liêm khiết, năng lực, kinh
nghiệm chuyên môn và sự cân bằng về giới.
Tổng thư kí là quan chức hành chính cao
cấp nhất của ASEAN, tiến hành các chức năng
và nhiệm vụ của mình theo các quy định của
Hiến chương và các văn kiện, nghị định thư
liên quan và các tập quán đã có của ASEAN.
Tổng thư kí có các chức năng, nhiệm vụ:
- Tạo điều kiện và giám sát tiến độ triển
khai các thỏa thuận và quyết định của ASEAN,
đệ trình báo cáo hàng năm về các hoạt động
của ASEAN lên hội nghị cấp cao ASEAN;
Tæng quan vÒ ASEAN


t¹p chÝ luËt häc sè 9/2008 13

- Tham gia các cuộc họp của hội nghị
cấp cao, các hội đồng cộng đồng, hội đồng
điều phối, các cơ quan chuyên ngành cấp bộ
trưởng và các cuộc họp khác có liên quan
của ASEAN;
- Thể hiện quan điểm của ASEAN và
tham gia vào các cuộc họp với các đối tác

bên ngoài phù hợp với chức năng và nhiệm
vụ của Tổng thư kí;
- Khuyến nghị việc bổ nhiệm và miễn
nhiệm các phó Tổng thư kí lên Hội đồng
điều phối ASEAN phê duyệt.
Tổng thư kí được hỗ trợ bởi bốn phó
Tổng thư kí với hàm thứ trưởng. Các phó
Tổng thư kí sẽ chịu trách nhiệm trước Tổng
thư kí trong việc thực thi chức trách của
mình. Bốn phó Tổng thư kí sẽ không cùng
quốc tịch với Tổng thư kí và đến từ 4 quốc
gia thành viên ASEAN khác nhau, bao gồm:
- Hai Phó tổng thư kí có nhiệm kì 3 năm,
không được tái bổ nhiệm và được lựa chọn
trong số công dân của các quốc gia thành
viên ASEAN trên cơ sở luân phiên, có tính
đến sự liêm khiết, phẩm chất, năng lực, kinh
nghiệm, và bình đẳng giới;
- Hai phó tổng thư kí có nhiệm kì 3 năm,
có thể được gia hạn thêm một nhiệm kì. Hai
phó Tổng thư kí này sẽ được tuyển chọn
công khai, dựa trên năng lực.
5.2. Ban thư kí
Ban thư kí ASEAN bao gồm Tổng thư kí
và các nhân viên khác, tùy theo yêu cầu đặt
ra. Tổng thư kí và các nhân viên Ban thư kí
thực thi nhiệm vụ vì lợi ích của ASEAN mà
không nhân danh bất kì chính phủ nào:
- Giữ vững các chuẩn mực cao nhất về
sự liêm khiết, hiệu quả và năng lực trong khi

thi hành nhiệm vụ;
- Không tìm kiếm hoặc nhận sự chỉ đạo
từ bất kì chính phủ hoặc đối tượng nào
ngoài ASEAN.
- Không tham gia vào bất kì hành động
nào có thể ảnh hưởng đến vị trí của mình là
các quan chức của Ban thư kí ASEAN và chỉ
chịu trách nhiệm với ASEAN.
- Các quốc gia thành viên ASEAN cam
kết tôn trọng tính chất đặc thù trong chức
năng của Tổng thư kí và các nhân viên Ban
thư kí và không tìm cách gây ảnh hưởng đến
họ trong quá trình họ thực thi nhiệm vụ.
5.3. Ban thư kí ASEAN quốc gia (Điều 13)
Mỗi quốc gia thành viên ASEAN thành
lập một ban thư kí ASEAN quốc gia với
nhiệm vụ:
- Đóng vai trò là đầu mối quốc gia trong
các hoạt động liên quan đến ASEAN;
- Là nơi lưu trữ thông tin về tất cả các vấn
đề liên quan đến ASEAN ở cấp độ quốc gia;
- Điều phối việc triển khai các quyết
định của ASEAN ở cấp độ quốc gia;
- Điều phối và hỗ trợ công tác chuẩn bị
của quốc gia cho các cuộc họp ASEAN;
- Thúc đẩy xây dựng bản sắc và nhận
thức về ASEAN ở cấp độ quốc gia;
- Đóng góp vào việc xây dựng Cộng
đồng ASEAN.
6. Ủy ban đại diện thường trực bên

cạnh ASEAN - Committee of Permanent
Representatives to ASEAN (Điều 12)
Mỗi quốc gia thành viên ASEAN bổ
nhiệm một đại diện thường trực có hàm đại
sứ bên cạnh ASEAN đặt tại Takarta. Ủy ban
đại diện thường trực bao gồm các vị đại sứ
của các quốc gia có chức năng nhiệm vụ:
Tæng quan vÒ ASEAN


14 t¹p chÝ luËt häc sè 9/2008

- Hỗ trợ công việc cho các hội đồng
cộng đồng và các cơ quan chuyên ngành
cấp bộ trưởng;
- Phối hợp với Ban thư kí ASEAN quốc
gia và các cơ quan chuyên ngành cấp bộ
trưởng khác của ASEAN;
- Liên hệ với Tổng thư kí và Ban thư kí
ASEAN về tất cả các vấn đề liên quan đến
công việc của mình;
- Hỗ trợ hợp tác giữa ASEAN với các
đối tác bên ngoài;
- Thực thi các nhiệm vụ khác do Hội
đồng điều phối ASEAN quyết định.
7. Ủy ban ASEAN ở nước thứ ba và
các tổ chức quốc tế (Điều 43)
Ủy ban ASEAN ở các nước thứ 3 có thể
được thành lập tại các nước ngoài khối
ASEAN, bao gồm người đứng đầu cơ quan

đại diện ngoại giao của các quốc gia thành
viên ASEAN tại quốc gia đó. Các uỷ ban
tương tự có thể được lập ra bên cạnh các tổ
chức quốc tế. Các uỷ ban này sẽ thúc đẩy lợi
ích và bản sắc ASEAN tại nước chủ nhà và
các tổ chức quốc tế.
Thủ tục hoạt động của các uỷ ban này sẽ
do hội nghị ngoại trưởng ASEAN quy định
cụ thể.
Ngoài các cơ quan trên, Hiến chương
còn quy định sẽ thành lập một Cơ quan nhân
quyền hoạt động theo Quy chế do hội nghị
ngoại trưởng quyết định để thúc đẩy và bảo
vệ nhân quyền và các quyền tự do cơ bản,
phù hợp với mục tiêu và các nguyên tắc của
Hiến chương.
8. Một số nhận xét và đánh giá về cơ
cấu tổ chức của ASEAN theo Hiến chương
Cơ cấu tổ chức của ASEAN theo Hiến
chương đã có những cải cách lớn so với
trước đây nhằm đảm bảo cho bộ máy của
ASEAN thực hiện có hiệu quả các tôn chỉ,
mục đích đã đề ra trong Hiến chương.
Những thay đổi này chủ yếu tập trung ở các
điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, với tư cách là hiến chương -
văn bản gốc và hợp nhất của một tổ chức
quốc tế thì tất cả các thiết chế pháp lí của
ASEAN đều đã được thể chế hoá ngay tại
Hiến chương mà không còn được quy định

rải rác trong các văn kiện khác nhau như
trước đây. Đồng thời, chức năng nhiệm vụ
của từng cơ quan này cũng được quy định
chi tiết và cụ thể ở ngay trong Hiến chương
chứ không cần các thỏa thuận riêng biệt khác
như trước đây (điển hình như các quy định
về chức năng, nhiệm vụ của hội nghị cấp
cao, Tổng thư kí và Ban thư kí).
Thứ hai, Hiến chương đã thiết kế, sắp
xếp và cơ cấu lại bộ máy của ASEAN theo
mô hình “hình chóp quyền lực”, vừa đảm
bảo sự tập trung (bên cạnh hội nghị cấp cao
là cơ quan quyền lực cao nhất, Hiến chương
đã thành lập các cơ quan điều phối của
ASEAN như: Hội đồng điều phối để phối
hợp một cách thống nhất và đồng bộ tất cả
các hoạt động của ASEAN trong mọi lĩnh
vực, thành lập 3 hội đồng cộng đồng chịu
trách nhiệm vừa triển khai, vừa điều phối các
hoạt động của các ngành chuyên môn trong
3 trụ cột của ASEAN; đồng thời chức năng
và thẩm quyền của các cơ quan hoạch định
chính sách cũng đã thể hiện sự tập trung hơn
so với trước đây v.v ), vừa đảm bảo sự
chuyên sâu, chuyên trách (như trong mỗi hội
đồng cộng đồng lại có các cơ quan chuyên
Tæng quan vÒ ASEAN


t¹p chÝ luËt häc sè 9/2008 15


ngành cấp bộ trưởng trực thuộc, mỗi cơ quan
chuyên ngành này lại có các cơ quan chuyên
trách cấp dưới giúp việc v.v). Điều này giúp
cho bộ máy của ASEAN vận hành nhịp
nhàng hơn, không dàn trải và chồng chéo
như trước đây.
Thứ ba, cùng với việc sắp xếp và cơ cấu
lại bộ máy theo hướng vừa tập trung vừa
đảm bảo tính chuyên trách thì sự phân công,
phân nhiệm và mối quan hệ giữa các cơ quan
trong bộ máy cũng được xác định rõ ràng,
chặt chẽ hơn trước; đặc biệt là mối quan hệ
giữa cơ quan hoạch định chính sách với các
cơ quan chấp hành, giữa cơ quan điều phối
với cơ quan thực hiện, giữa cơ quan trụ cột
với cơ quan chuyên ngành và giữa cơ quan
cấp trên với cơ quan trực thuộc v.v
Thứ tư, cũng cần phải nói rằng nếu đặt
trong mối quan hệ so sánh với Liên minh
châu Âu thì trong các cơ quan của ASEAN
được thể chế hoá tại Hiến chương vẫn chưa
có nhiều các cơ quan hoạt động thường kì
(chỉ có 2 cơ quan là Ủy ban đại diện thường
trực và Ban thư kí so với các cơ quan còn lại
chỉ tiến hành họp theo định kì hoặc khi cần
thiết). Điều này một mặt khiến cho mối liên
kết giữa các cơ quan của Hiệp hội còn lỏng
lẻo, mặt khác, do chỉ hoạt động theo cơ chế
kì họp nên có thể sẽ làm hạn chế khả năng

chỉ đạo, điều hành của các cơ quan này trước
những biến động, khó khăn bất thường cần
được phối hợp giải quyết ở cấp độ Hiệp hội.
Tuy nhiên, nếu so với trước đây thì
tương quan về mặt số lượng giữa các cơ
quan hoạch định chính sách và cơ quan chấp
hành đã có những cải tổ lớn. Nghiên cứu
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng
cơ quan theo quy định của Hiến chương cho
thấy rằng trong tất cả các cơ quan của
ASEAN chỉ duy nhất hội nghị cấp cao là cơ
quan hoạch định chính sách, các cơ quan còn
lại đều là các cơ quan điều phối, điều hành
và chấp hành. Điều này chắc chắn sẽ làm
tăng hiệu quả, hiệu lực trong thực tế triển
khai các quyết định, chính sách của ASEAN.
Thứ năm, khoảng cách giữa các kì họp
của các hội đồng đã được rút ngắn hơn rất
nhiều so với trước. Hội nghị cấp cao, Hội
đồng điều phối, 3 Hội đồng cộng đồng đều
họp ít nhất 2 lần trong 1 năm so với trước đây
là 3 năm một lần của hội nghị cấp cao và mỗi
năm một lần của các Hội nghị bộ trưởng. Và
vì vậy, sẽ giúp cho các cơ quan này (nhất là
hội nghị cấp cao với tư cách là cơ quan hoạch
định chính sách cao nhất) có khả năng phản
ứng nhanh nhạy, kịp thời và thường xuyên
hơn đối với các vấn đề đặt ra cho Hiệp hội.
Thứ sáu, nhằm tránh sự “lệch pha” giữa
chức chủ tịch của các cơ quan khác nhau trong

bộ máy như trước đây, Hiến chương ASEAN
đã đồng bộ hoá chức chủ tịch của các cơ quan
theo chức Chủ tịch ASEAN. Theo Điều 31,
chức Chủ tịch ASEAN sẽ được luân phiên
hàng năm, theo thứ tự chữ cái tên của các
quốc gia thành viên bằng tiếng Anh.
ASEAN sẽ áp dụng quy chế Chủ tịch
thống nhất trong 1 năm tính theo dương lịch,
theo đó quốc gia thành viên đảm nhiệm chức
Chủ tịch sẽ:
- Chủ trì hội nghị cấp cao ASEAN và các
cấp cao liên quan;
- Các cuộc họp của Hội đồng điều phối
ASEAN;
- 3 Hội đồng cộng đồng ASEAN;
Tæng quan vÒ ASEAN


16 t¹p chÝ luËt häc sè 9/2008

- Cơ quan chuyên ngành cấp bộ trưởng và
các cuộc họp quan chức cao cấp (nếu phù hợp);
- Ủy ban đại diện thường trực ASEAN.
Thứ bảy, nhấn mạnh vị trí của Tổng thư
kí, các phó Tổng thư kí và Ban thư kí trong
bộ máy hoạt động của ASEAN. Hiến chương
đã chuẩn hoá quy chế pháp lí của từng thành
phần trong Ban thư kí, tăng cường hơn nữa
vai trò của Tổng thư kí và Ban thư kí - cơ
quan hành chính thường trực của ASEAN

nhằm thúc đẩy việc xây dựng Cộng đồng
ASEAN và các hoạt động khác của ASEAN
đi vào thiết thực và hiệu quả hơn.
Với những cải tổ toàn diện và đồng bộ
này, Hiến chương ASEAN đã đánh dấu một
bước tiến mới về khuôn khổ thể chế và bộ
máy hoạt động của ASEAN theo hướng rõ
ràng và khoa học hơn, trong đó nhấn mạnh
đến vai trò của Tổng thư kí và Ban thư kí
ASEAN. Khuôn khổ thể chế đầy đủ và chặt
chẽ hơn với quy chế phân công, phân nhiệm
rõ ràng nêu trong Hiến chương ASEAN sẽ
góp phần tăng cường hiệu quả và hiệu lực
của các chương trình hợp tác trong ASEAN
trong thời gian tới./.

(1).Xem thêm: “Hiệp hội các nước Đông Nam Á
(ASEAN)”, Vụ ASEAN, Bộ ngoại giao, Nxb. Chính
trị quốc gia, H. 1995, tr. 22.
(2).Xem thêm: “Hiệp hội các nước Đông Nam Á
(ASEAN)”, Sđd, tr. 22-23.
(3).Xem thêm: “Hiệp hội các nước Đông Nam Á
(ASEAN)”, Sđd, tr. 23-29.
(4).Xem thêm: “35 năm ASEAN hợp tác và phát triển”,
Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia/
Viện kinh tế thế giới, Nxb. Khoa học xã hội, H.2003.
(5).Xem thêm: “Hiệp hội các nước Đông Nam Á
(ASEAN)”, Sđd, tr. 28.
(6).Xem: Phụ lục 1 của Hiến chương.
C

ỘNG
Đ
ỒNG KINH TẾ ASEAN
(tiếp
theo trang 45)
Các nhà đầu tư sẽ tìm đến Việt Nam không
chỉ bởi quy mô thị trường mà còn bởi chi phí
kinh doanh và giao dịch sẽ giảm mạnh qua
việc cải thiện môi trường đầu tư. Khi đầu tư
trực tiếp nước ngoài gia tăng, tất yếu Việt
Nam sẽ được hưởng lợi từ những công nghệ
chuyển giao, tạo thêm việc làm, phát triển
nguồn nhân lực và mở ra kênh tiếp cận thị
trường khu vực và thế giới.
Tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN
còn có tác động tích cực tới quá trình cải
cách thuế và cơ cấu nguồn thu ngân sách, cơ
cấu phân bổ nguồn lực kinh tế-xã hội cũng
như thúc đẩy quá trình hoàn thiện hệ thống
pháp luật kinh tế của Việt Nam theo hướng
phù hợp với các chuẩn mực của quốc tế và
khu vực.
Tóm lại, tuy chưa hội nhập sâu sắc như
Liên minh châu Âu song mô hình Cộng đồng
kinh tế ASEAN được cho là phù hợp trong
bối cảnh các nước thành viên ASEAN còn có
những khác biệt về chính trị, văn hoá, tôn
giáo và trình độ phát triển nhằm hướng tới
nền kinh tế ASEAN phát triển bền vững.
Cùng với quá trình hình thành Cộng đồng an

ninh-chính trị và Cộng đồng văn hoá-xã hội,
Cộng đồng kinh tế sẽ góp phần làm cho
ASEAN chuyển dần từ tổ chức quốc tế có cơ
chế hợp tác chủ yếu dựa trên cơ sở đồng
thuận và sự hiểu biết lẫn nhau sang tổ chức
quốc tế hoạt động dựa trên luật lệ, sử dụng
nhiều hơn những công cụ thể chế và cam kết
mang tính pháp lí. Quá trình đó hoàn toàn
phù hợp với bối cảnh kinh tế và chính trị
quốc tế hiện nay./.

×