1
2
KIẾN NGHỊ
DIỄN ĐÀN KINH TẾ MÙA XUÂN 2012
Kinh tế Việt Nam năm 2012:
Khởi động mạnh mẽ quá trình tái cơ cấu nền kinh tế
T
rong hơn 25 năm qua, kể từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới
đến nay, tăng trưởng kinh tế Việt Nam chủ yếu dựa vào
việc liên tục gia tăng các yếu tố đầu vào, mà cụ thể là vốn, lao động
và khai thác tài nguyên thiên nhiên. Chẳng hạn, mức đóng góp của
vốn vào tăng trưởng lên tới 70,3% GDP trong giai đoạn 1986-1988,
sau đó giảm xuống còn 63,0% vào các năm 1997-1999 trước khi
tăng trở lại lên 68,0% trong thời kỳ 2000-2007, thậm chí còn lên tới
gần 84,1% vào năm 2009. Số lượng lao động tham gia hoạt động
kinh tế cũng tăng mạnh, song đóng góp vào tăng trưởng kinh tế lại
ngày càng giảm, từ 41,7% trong giai đoạn 1986-1988 giảm xuống
còn 21,0% trong thời kỳ 1997-1999 và chỉ còn 18,0% trong thời kỳ
2000-2007, trước khi phục hồi nhẹ lên 28,5% vào năm 2009.
Mặc dù mô hình tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng đã phát
huy tác dụng tích cực và có hiệu quả nhất định, giúp mang lại nhiều
thành tựu phát triển kinh tế trong giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới,
giải phóng các nguồn lực sản xuất, nhưng việc duy trì quá lâu mô
hình tăng trưởng này đã khiến cho những yếu kém nội tại của nền
kinh tế với cơ cấu kinh tế không hợp lý, hiệu quả thấp bị tích tụ, dồn
3
nén đã gây nên nhiều hạn chế, yếu kém. Những nhược điểm cơ bản
của mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế này đã được bộc lộ từ sau
cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, và trở nên rõ nét nhất
khi Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới và trầm trọng
hơn dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu từ cuối
2008 cũng như cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu từ năm 2009.
Điều đó càng khiến cho việc tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô
hình tăng trưởng của nước ta trở nên hết sức cấp bách và cần thiết
hơn bao giờ hết như đã được khẳng định trong Thông báo kết luận
của Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng và Nghị
quyết của Kỳ họp thứ 2 Quốc hội Khóa XIII.
Để chuẩn bị Báo cáo thẩm tra đánh giá bổ sung kết quả thực
hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
năm 2011, triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 và Báo cáo ý kiến về Đề án tổng
thể tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng
theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh
giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến năm 2020 báo cáo Quốc hội
tại Kỳ họp thứ 3, trong hai ngày 8-9/4/2012, tại TP. Đà Nẵng, Ủy
ban Kinh tế, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) trong khuôn khổ Dự án “Hỗ trợ
nâng cao năng lực tham mưu, thẩm tra và giám sát chính sách kinh
tế vĩ mô” do Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam
tài trợ, đã phối hợp tổ chức Diễn đàn Kinh tế mùa xuân 2012 với chủ
đề: “Kinh tế Việt Nam năm 2012: Khởi động mạnh mẽ quá trình tái
cơ cấu nền kinh tế”.
Tham dự Diễn đàn có đồng chí Nguyễn Thị Kim Ngân, Bí thư
Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội; Đồng chí Nguyễn Đức
Kiên, nguyên Ủy viên BCHTW Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội khóa
4
XII; Đồng chí Nguyễn Văn Giàu - Ủy viên BCHTW Đảng, Ủy viên
UBTVQH, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế; Đồng chí Nguyễn Bá Thanh,
Ủy viên BCHTW Đảng, Bí thư Thành ủy, Chủ tịch HĐND, Trưởng
đoàn ĐBQH Thành phố Đà Nẵng; các đại biểu Quốc hội là thành
viên của Ủy ban Kinh tế, đại diện Thường trực Hội đồng Dân tộc
và một số Ủy ban của Quốc hội, Văn phòng Trung ương Đảng, Văn
phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ;
các Bộ, ngành hữu quan; đại diện Thường trực Hội đồng Nhân dân,
Uỷ ban Nhân dân, Đoàn ĐBQH TP. Đà Nẵng và một số tỉnh lân cận;
các chuyên gia kinh tế, các nhà khoa học trong và ngoài nước; đại
diện các đối tác phát triển, các tổ chức quốc tế như UNDP, WB, IMF,
UK; đại diện một số tập đoàn kinh tế nhà nước và đông đảo các cơ
quan thông tin, báo chí
1
.
Các bài viết của các nhà khoa học, chuyên gia kinh tế và các ý
kiến phát biểu, trao đổi của các đại biểu tại Diễn đàn đều tập trung
làm rõ những vấn đề chung và đặc biệt là các giải pháp về tái cơ
cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Về các vấn
đề chung, các ý kiến đề nghị thống nhất nhận thức về mục đích, yêu
cầu, quan điểm, nội dung, chi phí cần có để tái cơ cấu nền kinh tế,
mối quan hệ giữa tái cơ cấu nền kinh tế với đổi mới mô hình tăng
trưởng, mối quan hệ giữa tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế và tái cơ cấu
3 lĩnh vực trọng tâm cũng như mối quan hệ giữa đề án tổng thể và
các đề án do các bộ, ngành chuẩn bị; mối quan hệ giữa tái cơ cấu ở
cấp độ hệ thống (vĩ mô) và tái cơ cấu ở cấp độ doanh nghiệp (vi mô);
điểm chung và sự khác biệt giữa tái cơ cấu nền kinh tế và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội v.v
Ý kiến chung cho rằng “mô hình tăng trưởng là cách thức mà một
nền kinh tế tạo ra tăng trưởng”. Tăng trưởng có thể đạt được thông qua
1
Có hơn 140 đại biểu tham dự.
5
4 “nguồn” chính là: (i) gia tăng đầu vào như vốn, lao động, tài nguyên
(input increase); hoặc gia tăng hiệu quả sử dụng các nguồn lực thông
qua việc (ii) nâng cao hiệu quả kỹ thuật (technical efciency)
2
; (iii)
nâng cao hiệu quả phân bổ (allocative efciency) các nguồn lực; và
(iv) phát triển khoa học công nghệ (technological progress). Trong
điều kiện hiệu quả sử dụng nguồn lực không đổi, tăng trưởng vẫn có
thể được đẩy nhanh nhờ gia tăng các đầu vào của nền kinh tế như lao
động, vốn và tài nguyên thiên nhiên. Theo cách này, nền kinh tế được
xem là “tăng trưởng theo chiều rộng”. Tuy nhiên, khi mà tăng trưởng
theo cách thức trên đã bộc lộ nhiều bất cập thì “đổi mới mô hình
tăng trưởng là việc thay đổi cách thức mà chúng ta đang tạo ra tăng
trưởng”, từ chủ yếu nhờ gia tăng quy mô các yếu tố đầu vào - đặc biệt
là thâm dụng vốn, lao động giản đơn và tài nguyên - sang chủ yếu dựa
vào nâng cao hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả phân bổ và tăng cường tiến
bộ khoa học - kỹ thuật. Đây là cách thức tăng trưởng dựa vào hiệu
quả, hay chính là mô hình tăng trưởng theo chiều sâu.
Trong quá trình đó, “tái cơ cấu nền kinh tế là quá trình phân bổ
lại các nguồn lực cho tăng trưởng (vốn, tài nguyên thiên nhiên, lao
động, v.v…) nhằm nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực, đồng thời
nâng cao hiệu quả kỹ thuật của các doanh nghiệp, qua đó giúp nâng
cao hiệu quả, năng suất, chất lượng và năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng”. Nói cách khác, tái
cơ cấu nền kinh tế chính là quá trình chuyển dịch nguồn lực từ những
ngành, khu vực sử dụng kém hiệu quả sang những ngành, khu vực sử
2
Đây là yếu tố liên quan tới việc nâng cao hiệu quả hoạt động của từng doanh nghiệp. Tái
cơ cấu nền kinh tế hướng tới một cơ cấu hiệu quả, bền vững và có sức cạnh tranh thì trong
đó từng doanh nghiệp phải hoạt động với hiệu quả cao nhất. Hiện nay, các doanh nghiệp
nói chung và đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước đang được hưởng nhiều ưu đãi về vốn,
đất đai nhưng không bị áp lực phải đạt tới hiệu quả cao nhất bởi họ được bảo hộ độc quyền
trong nhiều ngành sản xuất kinh doanh và được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi khác.
6
dụng hiệu quả hơn và qua đó sẽ làm thay đổi cơ cấu ngành, cơ cấu
vùng, cơ cấu thành phần kinh tế hiện được coi là có nhiều bất cập ở
nước ta, đồng thời nâng cao hiệu quả kỹ thuật của các doanh nghiệp,
đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước. Mục tiêu cuối cùng của quá trình
tái cơ cấu nền kinh tế là hình thành được một mô hình tăng trưởng
mới với cơ cấu kinh tế hợp lý, nền kinh tế ổn định về vĩ mô và có
năng lực cạnh tranh, phát triển chất lượng, hiệu quả và bền vững.
Một số ý kiến khác cho rằng mục tiêu chung của việc tái cơ
cấu là thay đổi thể chế, cơ chế, công cụ phân bố, quản lý và sử dụng
nguồn lực quốc gia theo mô hình tăng trưởng mới với cơ cấu kinh
tế hợp lý hơn, hiệu quả hơn, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền
kinh tế, bảo đảm phát triển bền vững và phù hợp với xu hướng toàn
cầu hóa. Để đạt được mục tiêu chung này, những chỉ tiêu cụ thể được
xác định trên cơ sở Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn
2011-2020. Mô hình tăng trưởng mới cần phải huy động mọi nguồn
lực xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động,
hạ giá thành sản phẩm, mở rộng thị trường, đồng thời giải quyết hài
hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường, thực hiện
tăng trưởng xanh và bảo đảm an sinh xã hội.
Như vậy có thể nói, tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình
tăng trưởng luôn luôn gắn kết hữu cơ với nhau, tác động lẫn nhau
trong đó mô hình tăng trưởng có vai trò dẫn dắt, chi phối quá trình
tái cơ cấu nền kinh tế. Ngược lại, tái cơ cấu nền kinh tế là điều kiện
tiên quyết để đổi mới mô hình tăng trưởng.
Để đạt được mục đích nêu trên, trong trung hạn chúng ta cần
đạt được các mục tiêu trung gian như tái cơ cấu đầu tư với trọng tâm
là tái cơ cấu đầu tư công; tái cơ cấu doanh nghiệp với trọng tâm là
các tập đoàn và tổng công ty nhà nước; và tái cơ cấu hệ thống các tổ
chức tín dụng với trọng tâm là các ngân hàng thương mại, thị trường
7
chứng khoán và các định chế tài chính hay nhiều mục tiêu trung gian
cụ thể khác. Những mục tiêu trung gian này chính là những yếu điểm
cốt tử của nền kinh tế mà nếu được xử lý một cách hiệu quả sẽ quyết
định đến tính tổng thể của việc tái cơ cấu nền kinh tế, hướng tới mô
hình tăng trưởng theo chiều sâu.
Sơ đồ: Đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế
Các ý kiến cho rằng tái cơ cấu nền kinh tế và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế có điểm chung là đều hướng tới một cơ cấu kinh tế hợp
lý nhưng điểm khác biệt là ở chỗ tái cơ cấu kinh tế dựa trên nhận
thức rằng cơ cấu kinh tế đang có trục trặc nghiêm trọng, vì vậy cần
phải cấp thiết thay đổi một cách cơ bản để chuyển sang một cơ cấu
kinh tế hợp lý hơn thông qua đổi mới cách thức phân bổ nguồn lực
(tái cơ cấu ở cấp vĩ mô) và nâng cao hiệu quả kỹ thuật của các doanh
nghiệp (tái cơ cấu cấp doanh nghiệp) trong một khuôn khổ thời gian
nhất định với những giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt, có tính đột phá
3
,
3
Theo Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015,
ngay từ năm 2012 chuẩn bị các điều kiện để năm 2013 đến năm 2015 tạo được chuyển biến
mạnh mẽ, cơ bản, có hiệu quả rõ rệt.
8
thường là khi nền kinh tế đang đối mặt với nguy cơ khủng hoảng
hoặc sau khi khủng hoảng kinh tế đã xảy ra. Tái cơ cấu nhấn mạnh
đến khía cạnh khắc phục những điểm nghẽn cơ cấu nghiêm trọng và
thiếu hiệu quả nhất trong cách thức phân bổ nguồn lực cũ và hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp nhằm tạo nên một sự chuyển biến
toàn diện mang tính đột phá về cơ cấu kinh tế theo hướng hiệu quả,
bền vững. Để có thể tái cơ cấu đòi hỏi phải có nguồn lực về tài chính
(để xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại, cơ cấu lại
những ngân hàng yếu kém, hỗ trợ doanh nghiệp khó khăn, phá sản,
hỗ trợ người lao động mất việc làm, dừng triển khai các dự án đang
đầu tư dở dang v.v…) và phải tính toán cụ thể những tác động không
thuận về kinh tế, xã hội mà quá trình này có thể gây ra. Trong khi
đó, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tuy cũng hướng tới một cơ cấu kinh
tế hợp lý hơn nhưng là một quá trình thay đổi tuần tự, tự nhiên và
thường kéo dài trong nhiều thập kỷ, chẳng hạn như quá trình giảm tỷ
trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ của cả thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
“Tái phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả và nâng cao hiệu
quả kỹ thuật của các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà
nước” chính là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt nội dung cũng như các giải
pháp tái cơ cấu đầu tư, tái cơ cấu thị trường tài chính, tái cơ cấu
doanh nghiệp hay bất cứ lĩnh vực nào khác. Các giải pháp trong
từng đề án đều phải nhắm tới mục tiêu tái phân bổ nguồn lực hiệu
quả hơn ở cấp vĩ mô cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp. Với cách tiếp cận như vậy, từ hơn
34 bài viết của các chuyên gia kinh tế, nhà khoa học và hơn 40 ý
kiến phát biểu tại Diễn đàn, chúng tôi xin chắt lọc lựa chọn đưa ra
12 nhóm kiến nghị và giải pháp chính về tái cơ cấu nền kinh tế, tập
trung vào tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước
9
và tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại và thị trường tài chính
phi ngân hàng, qua đó sẽ tác động lan tỏa tới tái cơ cấu tổng thể nền
kinh tế trong thời gian tới
4
.
I. NHỮNG KIẾN NGHỊ CHUNG
Kiến nghị 1: Đổi mới những tư duy có tính hệ thống đã tồn
tại từ lâu ở nước ta và nay đã chứng tỏ không còn phù hợp là
điều kiện tiên quyết để có thể tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô
hình tăng trưởng thành công.
Các ý kiến tại Diễn đàn cho rằng để tái cơ cấu nền kinh tế và
đổi mới mô hình tăng trưởng, trước hết phải đổi mới những tư duy
là căn nguyên của những yếu kém nội tại của nền kinh tế, tạo ra mô
hình tăng trưởng kém hiệu quả và cơ cấu kinh tế không hợp lý. Cụ
thể như sau:
Về nền kinh tế thị trường:• Cơ chế thị trường phải được
vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ và có
hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền
vững nền kinh tế, phát huy quyền tự do kinh doanh theo
pháp luật, mọi thành phần và chủ thể tham gia thị trường
được được cạnh tranh bình đẳng. Cần nhận thức rõ yêu
cầu này để chấm dứt hẳn những tư duy kế hoạch tập
trung, thiên về mệnh lệnh hành chính khi hoạch định
chính sách kinh tế vĩ mô. Cần quán triệt nguyên lý thị
trường quyết định việc phân bổ và sử dụng các nguồn
lực hiệu quả nhất.
Về vai trò của Nhà nước:• Sau một phần tư thế kỷ kể từ
khi bắt đầu công cuộc Đổi mới, nền kinh tế Việt Nam
4
Nội dung cụ thể các tham luận của các chuyên gia kinh tế, các nhà khoa học được in trong
Kỷ yếu của Diễn đàn Kinh tế mùa xuân 2012.
10
đã hoàn toàn đổi khác. Thay đổi quan trọng nhất là nền
kinh tế đã trở nên rất mở, cơ cấu thành phần kinh tế và
cơ cấu sở hữu đã thay đổi một cách cơ bản. Sự bùng nổ
của khu vực kinh tế dân doanh và sự tham gia mạnh mẽ
của khu vực FDI đã làm tăng tỷ lệ đóng góp của khu vực
tư nhân trong GDP lên tới gần 70%. Vì vậy, Nhà nước
cần xác định lại vai trò của mình với hai tư cách, một là
thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu toàn dân; hai là
thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với tất cả các
thành phần kinh tế. Đồng thời, phân biệt rõ vai trò của
Nhà nước và vai trò của thị trường. Thị trường vận động
theo những quy luật kinh tế khách quan chứ không đơn
thuần nằm dưới và chịu sự chi phối có tính tùy định của
Nhà nước. Chỉ trên cơ sở “phân nhiệm” mạch lạc giữa
Nhà nước và thị trường thì Nhà nước mới có thể quyết
định nên làm gì và không nên làm gì.
Về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước:• Để tái cơ cấu
kinh tế thành công, việc đổi mới tư duy về vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước thông qua việc xác định rõ
vai trò và chức năng của kinh tế nhà nước nói chung và
doanh nghiệp nhà nước nói riêng là điều hết sức quan
trọng và cấp bách. Ý kiến của nhiều nhà khoa học tại hội
thảo đề nghị xem xét lại một cách căn bản vai trò “chủ
đạo” của khu vực kinh tế nhà nước mà nòng cốt là hệ
thống doanh nghiệp nhà nước. Cụ thể là, vai trò chủ đạo
của kinh tế nhà nước không nên hiểu và diễn giải thành
DNNN, nhất là tập đoàn, tổng công ty nhà nước phải giữ
vị trí chi phối trong các ngành kinh tế và lĩnh vực then
chốt của nền kinh tế và độc quyền trên nhiều lĩnh vực.
11
Cần xác định rõ phạm vi hoạt động của kinh tế nhà nước
để tạo dư địa cho sự phát triển của các thành phần kinh
tế khác.
Về vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của doanh nghiệp nhà •
nước: Việc sử dụng doanh nghiệp nhà nước làm công cụ
điều tiết và ổn định kinh tế vĩ mô là không có cơ sở xét
cả trên lý luận và thực tiễn. Về mặt lý thuyết, công cụ
điều tiết vĩ mô và bình ổn kinh tế trong kinh tế thị trường
là chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và chính sách
cơ cấu. DNNN là một tác nhân thị trường như các doanh
nghiệp khác, chịu tác động chứ không phải là một bộ
phận của các chính sách điều tiết vĩ mô. Không những
thế, cái giá phải trả cho việc sử dụng DNNN làm công cụ
bình ổn giá là rất lớn. Thứ nhất, DNNN chiếm vị trí độc
quyền hoặc gần như độc quyền ở nhiều lĩnh vực, không
chịu áp lực cạnh tranh và do vậy kém hiệu quả. Và đó là
một trong các nguyên nhân của bất ổn vĩ mô chứ không
phải là công cụ để ổn định kinh tế vĩ mô. Thứ hai, sử
dụng DNNN làm công cụ ổn định giá làm cho giá thị
trường của các sản phẩm có liên quan bị bóp méo, khiến
việc phân bổ và sử dụng nguồn lực trở nên bất hợp lý
và kém hiệu quả. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, giá
cả sau một thời gian bị “dồn nén” dẫn đến thua lỗ hoặc
trợ cấp, bao cấp chéo lớn đến mức không thể tiếp tục
“nén” được nữa, thì phải bung ra. Điều đó tạo ra cú sốc
lớn trong nền kinh tế, làm cho kinh tế vĩ mô vốn đã bất
ổn, dễ bị tổn thương trở nên bất ổn và dễ bị tổn thương
hơn. Thực tiễn quản lý giá điện và xăng dầu ở nước ta
trong thời gian qua là minh chứng đặc trưng cho những
12
lý giải nói trên. Cần kiên định với nguyên tắc “nhà nước
chỉ làm những gì mà khu vực tư nhân không muốn làm
hoặc không thể làm khi đã được tạo điều kiện thuận lợi
và hỗ trợ từ phía Nhà nước”. Không sử dụng DNNN là
công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền
kinh tế hay để giải quyết các vấn đề xã hội và không sử
dụng DNNN làm đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
thông qua hình thức thâm dụng vốn đầu tư lớn (nhưng
hiện đang dàn trải, phân tán, thiếu đồng bộ và đặc biệt là
kém hiệu quả).
Về vai trò của khu vực kinh tế tư nhân:• Đa số ý kiến đề
nghị thay đổi và khẳng định coi kinh tế tư nhân là “động
lực chủ yếu” hay “động lực quan trọng” của tăng trưởng
kinh tế. Có thay đổi như nói trên, thì mới có bứt phá
trong phát triển kinh tế phù hợp với xu thế của nền kinh
tế thị trường hiện đại. Đổi mới tư duy về vai trò “động
lực” của khu vực kinh tế tư nhân sẽ có ý nghĩa rất quan
trọng góp phần làm thay đổi tư duy trong thiết kế và
hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô của các cơ quan có
thẩm quyền của Chính phủ, tạo cơ hội tiếp cận bình đẳng
tới các nguồn lực phát triển quốc gia, thiết lập một môi
trường kinh doanh bình đẳng để buộc các doanh nghiệp
nhà nước phải cạnh tranh bình đẳng với các loại hình
doanh nghiệp khác theo đúng cơ chế thị trường. Các học
thuyết kinh tế hiện đại đều cho rằng bình đẳng về cơ
hội tiếp cận và sử dụng nguồn lực phát triển quốc gia và
quyền kinh doanh giữa các khu vực kinh tế sẽ giúp nâng
cao hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ, qua đó góp
13
phần quan trọng không chỉ thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh
tế, mà còn hỗ trợ chuyển đổi thành công sang mô hình
tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều sâu, hướng tới
tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.
Kiến nghị 2: Cải cách thể chế là tiền đề quan trọng để các
nguồn lực trong nền kinh tế được phân bổ một cách hiệu quả,
qua đó giúp nền kinh tế được tái cơ cấu một cách căn bản.
Cũng như ở các quốc gia khác, nền kinh tế Việt Nam được điều
tiết bởi những thể chế chính thức và phi chính thức. Thể chế chính
thức bao gồm Hiến pháp, luật, đặc biệt là các luật về quyền sở hữu,
về tự do khế ước, tự do cạnh tranh, tổ chức công quyền, nhất là các
thiết chế thi hành pháp luật và những quy trình kiểm soát quyền lực
công được thực hiện bởi những cơ chế khách quan. Thể chế phi
chính thức bao gồm các quy tắc bất thành văn, thông lệ, tập quán
v.v Các thể chế căn bản cần cho một nền kinh tế bao gồm một hệ
thống pháp luật đáng tin cậy, ghi nhận và bảo hộ các quyền sở hữu,
tự do khế ước, tự do kinh doanh và cạnh tranh, một cơ chế đáng tin
cậy giúp giải quyết các tranh chấp cũng như một chính quyền minh
bạch, đáng tin cậy, mọi hành vi can thiệp của chính quyền vào nền
kinh tế có tính tiên liệu và có khả năng lường trước được.
Một vấn đề hệ trọng cần được sớm khắc phục là tình trạng chia
cắt thể chế giữa các Bộ, ngành cũng như giữa các cấp chính quyền.
Biểu hiện rõ nét nhất của sự chia cắt thể chế giữa các Bộ ngành là
sự phối hợp lỏng lẻo, thậm chí tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi
ngược” trong điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa từ
năm 2007 cho đến nay. Ví dụ rõ nhất của sự chia cắt thể chế giữa
chính quyền Trung ương và chính quyền địa phương là nền kinh tế
bị chia cắt thành 63 nền kinh tế tỉnh, thành, cạnh tranh rất quyết liệt
14
trong các dự án đầu tư công khổng lồ như cảng biển nước sâu, sân
bay, khu kinh tế ven biển v.v
Xây dựng các thể chế phù hợp, trong đó đặc biệt quan trọng là
quyền sở hữu và cạnh tranh bình đẳng, là một trong các tiền đề cho
tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng. Nhiều nghiên
cứu cũng chỉ ra rằng chất lượng thể chế là điểm đột phá trong phát
triển. Để đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô
hình tăng trưởng chủ yếu theo chiều sâu, tạo cơ sở và điều kiện phân
bổ các nguồn lực phát triển một cách hiệu quả nhất, cải cách thể chế
kinh tế ở nước ta trong giai đoạn tới cần được đẩy mạnh và tập trung
chủ yếu vào những nội dung sau:
Sửa đổi Hiến pháp 1992: Các thể chế kinh tế nền tảng •
đều được quy định trong Hiến pháp, bắt đầu từ các định
hướng chính sách đối với các thành phần kinh tế, chế độ
sở hữu, các quyền tự do kinh doanh của người dân và
cơ cấu trúc tổ chức bộ máy nhà nước thực thi quyền lực
công cộng. Sửa đổi Hiến pháp 1992 lần này là cơ hội lớn
để điều chỉnh các thể chế kinh tế vì cứ khoảng một thập
kỷ mới lặp lại một lần.
Sửa đổi các đạo luật về tổ chức các cơ quan nhà nước: •
Trên cơ sở Hiến pháp sau khi được sửa đổi, các luật về
tổ chức Quốc hội, Chính phủ, Tòa án Nhân dân, Viện
Kiểm sát Nhân dân và tổ chức chính quyền địa phương
cũng như các luật về hoạt động giám sát có liên quan
cần được sửa đổi phù hợp để các cơ quan dân cử có một
vai trò đáng kể hơn, ví dụ trong các lĩnh vực quản lý đầu
tư công, quản lý công sản, quản lý đất đai. Đây là cơ
hội thiết kế lại các thiết chế chính trị phục vụ cho việc
15
chuyển đổi nền kinh tế theo mô hình mới dựa trên tự do
kinh doanh và cạnh tranh, đề cao hơn sở hữu tư nhân và
giám sát hiệu quả hơn khu vực kinh tế nhà nước.
Sửa đổi các luật về sở hữu, nhất là Luật Đất đai theo •
hướng bảo đảm việc sử dụng đất mang tính ổn định, dài
hạn bằng việc xác định rõ chủ thể sở hữu theo Hiến pháp,
phân biệt rõ quyền của người sử dụng trong việc chuyển
đổi mục đích sử dụng với quyền quản lý nhà nước của
chính quyền các cấp nhằm tạo ra động lực để các chủ
thể quản lý và sử dụng khai thác một cách hiệu quả tài
nguyên, tài sản đặc biệt, tư liệu sản xuất chủ yếu này.
Ban hành Luật Đầu tư công và sửa đổi Luật Ngân sách •
nhà nước (có thể thay bằng Luật Tài chính công) là cơ
hội để thiết kế các thể chế tốt hơn nhằm kiểm soát chặt
chẽ các quy trình sử dụng tài sản công và phân bổ phúc
lợi. Những thể chế này đã được xác định là một trong
những trụ cột quan trọng của các đề án tái cơ cấu nền
kinh tế.
Sửa đổi Luật Phá sản với thủ tục phá sản thuận lợi hơn •
để hỗ trợ quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp, gắn với đổi
mới nhận thức về phá sản doanh nghiệp, coi phá sản do-
anh nghiệp, kể cả phá sản ngân hàng, là một hiện tượng
bình thường của kinh tế thị trường, không hình sự hóa
hành vi phá sản doanh nghiệp.
Sửa đổi các văn bản pháp luật về phân cấp quản lý kinh •
tế, trong đó có Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP ngày
30/6/2004 của Chính phủ về việc tiếp tục đẩy mạnh phân
16
cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phân cấp quản
lý nhà nước, trong đó tập trung chủ yếu vào: (i) phân
cấp quản lý quy hoạch, kế hoạch và đầu tư phát triển;
(ii) phân cấp quản lý ngân sách nhà nước; (iii) phân cấp
quản lý đất đai, tài nguyên, tài sản nhà nước; và (iv)
phân cấp quản lý doanh nghiệp nhà nước. Việc sửa đổi
và bổ sung các văn bản pháp luật về phân cấp quản lý
kinh tế sẽ có tác động mạnh tới ba cấu phần quan trọng
nhất trong đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế.
Nghiên cứu thành lập Ủy ban độc lập về Tái cơ cấu nền •
kinh tế hoặc bổ sung chức năng, nhiệm vụ cho Hội đồng
quốc gia về Năng lực cạnh tranh và trao cho cơ quan
này những quyền hạn đặc biệt về tái cơ cấu nền kinh tế.
Nhiều chuyên gia cho rằng gốc rễ của cải cách, cải tổ,
đổi mới hay tái cơ cấu v.v vẫn là một sự thay đổi mạnh
mẽ thể chế để có thể thay đổi căn bản cách thức quản lý,
điều hành nền kinh tế, cách thức phân bổ các nguồn lực
không hiệu quả hiện nay. Và kinh nghiệm ở nhiều nước
trên thế giới cho thấy để có thể thực thi những thay đổi
về thể chế mang tính đột phá như vậy nhất thiết cần một
thiết chế đặc biệt. Việc hình thành một thiết chế mới
không có nghĩa là phủ nhận vai trò của các thiết chế hiện
hữu (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng
Nhà nước v.v ) mà lý do đơn giản là những cơ quan này
không có đủ thẩm quyền và nhân lực cho những đòi hỏi
mới; ngoài ra, rất khó dùng chính những thiết chế cũ để
cải cách chính mình
5
.
5
Một số ví dụ điển hình về các cơ quan chuyên trách cho tái cơ cấu bao gồm Jakarta Initiati-
17
Hình thành, kiện toàn các thiết chế độc lập điều tiết thị •
trường như Ủy ban cạnh tranh, chống độc quyền, Ủy ban
chứng khoán v.v Tách các thiết chế này khỏi cơ cấu
của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước để hoạt
động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, tránh lạm dụng
biện pháp hành chính để can thiệp vào thị trường.
Kiến nghị 3: Đổi mới phương thức phân bổ nguồn lực đất
đai, một trong các nhân tố sản xuất quan trọng, có ý nghĩa quyết
định đối với thành công của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế.
Các nhân tố sản xuất (gồm vốn, đất đai, tài nguyên thiên nhiên,
lao động) về nguyên tắc cần phải được phân bổ và dịch chuyển từ
những ngành, thành phần, vùng kinh tế, và hoạt động kinh doanh có
năng suất lao động thấp sang những ngành, thành phần, vùng kinh tế,
và hoạt động kinh doanh có năng suất lao động cao hơn theo cơ chế
thị trường. Tuy nhiên trong thời gian qua, việc phân bổ nguồn lực nói
chung, đặc biệt là phân bổ đất đai còn nhiều bất cập. Nguồn lực đất
đai chưa thực sự được huy động hiệu quả nhất để trở thành động lực
cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các khu công nghiệp,
cụm công nghiệp phát triển tràn lan nhưng tỷ lệ lấp đầy thấp, sử dụng
lãng phí. Tình trạng đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện
dự án đầu tư nhưng chậm sử dụng hoặc không đưa vào sử dụng vẫn
ve Taskforce (Indonesia), Ủy ban Hợp tác tái cơ cấu doanh nghiệp (Corporate Restructuring
Coordination Committee - Hàn Quốc), Ủy ban Tái cơ cấu nợ doanh nghiệp (Corporate
Debt Restructuring Committee - Malaysia), Ủy ban Tư vấn tái cấu trúc nợ doanh nghiệp
(Corporate Debt Restructuring Advisory Committee - Thái Lan). Ngân hàng Thế giới trong
Báo cáo năm 2011 cũng khuyến nghị Việt Nam nên thành lập Ủy ban về Tái cơ cấu nền
kinh tế.
Ở Việt Nam cũng đã có 2 ví dụ rất điển hình cho sự thành công của những thiết chế nói trên
là Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp và Tổ công tác chuyên trách cải cách thủ tục
hành chính (Đề án 30) của Thủ tướng Chính phủ.
18
còn diễn ra khá phổ biến. Khả năng tích tụ và tập trung ruộng đất
của nông dân rất thấp, kinh tế trang trại phát triển chậm, chỉ chiếm
1% số nông hộ. Trong khi đó, với nguồn tích lũy hạn chế và thiếu
hỗ trợ tín dụng nên rất khó cho các nông dân giỏi có đủ khả năng
mua hoặc thuê lại đất của các nông dân khác. Kết quả là rất nhiều đất
nông nghiệp, đặc biệt tại khu vực ven đô được các nhà đầu tư thành
thị mua hoặc thuê để đầu cơ, sử dụng kém hiệu quả. Hiện nay, lao
động nông thôn di cư ra làm việc tại đô thị, nhưng vẫn giữ đất ở quê
mà không chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho những người ở lại
nên không tăng được hiệu quả sử dụng đất. Rất nhiều nông dân sản
xuất không hiệu quả, kiếm thu nhập chủ yếu từ các hoạt động phi
nông nghiệp, phi chính thức nhưng vẫn muốn giữ đất để bảo hiểm
rủi ro do thiếu hệ thống an sinh xã hội chính thức tại nông thôn. Nhà
nước chưa thực hiện tốt vai trò điều tiết nguồn lợi từ đất thông qua
xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và đầu tư kết cấu hạ tầng;
chưa đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, người sử dụng đất và
nhà đầu tư. Trong đó, phần địa tô tăng lên do quy hoạch, đầu tư kết
cấu hạ tầng của Nhà nước chủ yếu rơi vào túi của nhà đầu tư.
Do đó, việc phân bổ nguồn lực nói chung, đặc biệt là nguồn lực
đất đai cần được đổi mới theo hướng sau:
Đất là tài sản đặc biệt chỉ có thể sử dụng và khai thác có •
hiệu quả nhờ vào sự quản lý và đầu tư ổn định, lâu dài
từ thế hệ này sang thế hệ khác. Phải được bảo đảm an
toàn dài hạn bằng việc xác định rõ chủ sở hữu, quyền
của chủ sở hữu, quyền, nghĩa vụ của người sử dụng,
xác lập quy hoạch, ước tính giá trị thì mới có thể tạo ra
động lực để các chủ thể quản lý và sử dụng khai thác
một cách hiệu quả.
19
Cương quyết chấm dứt thái độ hy sinh nông nghiệp, •
nông thôn để phục vụ công nghiệp hóa, đô thị hóa. Cần
giãn phát triển công nghiệp, đô thị về nông thôn; tăng
đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn cho các tỉnh phải giữ
diện tích đất trồng lúa theo quy hoạch vì mục đích bảo
đảm an ninh lương thực quốc gia.
Thiết kế, triển khai và giám sát thực hiện chính sách và •
quy hoạch cần đảm bảo chính xác các cân bằng chính
giữa các ngành, các vùng, các đối tượng và có sự tham
gia của mọi đối tượng. Nâng cao năng lực quản lý của
Nhà nước và tăng cường sự tham gia của người dân trong
việc quản lý và sử dụng tài nguyên đất, tạo công bằng và
ổn định xã hội.
II. TÁI CƠ CẤU ĐẦU TƯ CÔNG
Kiến nghị 4: Tái cơ cấu nguồn vốn cho đầu tư công theo hướng
huy động vốn đầu tư của xã hội, giảm dần đầu tư từ nguồn vốn
nhà nước và xây dựng cơ chế quản lý vốn đầu tư công hiệu quả.
Tái cơ cấu nguồn vốn cho đầu tư công là quá trình kết hợp
nhiều hình thức sở hữu vốn trong các hoạt động đầu tư phát triển,
góp phần đạt được các mục tiêu tối ưu của quá trình đầu tư, tạo ra
nhiều sản phẩm, dịch vụ công ích, hàng hóa công cho xã hội, tạo
ra sự tăng trưởng mạnh các chỉ tiêu kinh tế của đất nước trong điều
kiện tiết giảm mạnh nguồn vốn nhà nước. Với ý nghĩa đó, tái cơ cấu
nguồn vốn cho đầu tư công là một yêu cầu khách quan xuất phát từ
tính đa dạng của các nguồn vốn trong nền kinh tế thị trường: nguồn
vốn ngân sách nhà nước (nguồn vốn đầu tư phát triển, nguồn vốn hỗ
trợ phát triển chính thức ODA); nguồn vốn ngoài cân đối ngân sách
nhà nước (trái phiếu chính phủ, vay về cho vay lại); nguồn vốn của
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; và các nguồn vốn khác.
20
Để làm được điều đó cần thực hiện các giải pháp cụ thể sau:
Tiếp tục cải cách hệ thống thuế, tín dụng, giá cả, v.v •
nhằm tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng,
chính sách ưu đãi, tạo thêm nhiều cơ hội kinh doanh
cho các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế, nhất
là kinh tế tư nhân. Tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách
nhà nước của nước ta hiện nay vẫn cao hơn nhiều so
với các nước (khoảng 28%) và do vậy giảm khả năng
tích lũy, đầu tư của người dân. Cần giảm dần tỷ lệ này
tới mức hợp lý hơn6. Thực hiện công khai hóa các danh
mục công trình, dự án, quy trình và cơ chế khuyến khích
đầu tư của Nhà nước để định hướng cho các nhà đầu tư
trong và ngoài nước lựa chọn, làm cơ sở cho việc huy
động các nguồn vốn.
Hợp tác công - tư (PPP) có vị trí quan trọng trong cơ chế •
huy động tài chính từ đất đai để đầu tư cho cơ sở hạ tầng.
Thiết lập mô hình tài chính cho các dự án đầu tư công để
kết hợp các nguồn vốn nhà nước, nguồn vốn tư nhân và
sự hỗ trợ của các nhà tài trợ trong cùng một dự án đồng
thời tăng cường hiệu quả cơ chế giám sát đầu tư công,
trong đó tài chính liên quan đến đất đai có thể được coi
là cơ hội lớn nhất để thực hiện PPP trong lĩnh vực đầu tư
vào cơ sở hạ tầng, nhất là hạ tầng đô thị như các tuyến
đường vành đai v.v Chênh lệch địa tô là lợi ích kinh tế
mà nhà đầu tư tư nhân được hưởng từ hạ tầng công ích
được đầu tư theo hình thức PPP.
6
Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 nêu rõ
tỷ lệ huy động thuế và phí vào ngân sách không vượt quá 22-23%.
21
Nguồn vốn đầu tư từ NSNN và các nguồn vốn khác của •
Nhà nước ngày càng chiếm tỷ trọng nhỏ hơn trong tổng
vốn đầu tư toàn xã hội, nhưng có vai trò “vốn mồi”, kích
thích, tạo “cú hích” để thúc đẩy và thu hút các nguồn vốn
thuộc các thành phần kinh tế khác. Cần tái cơ cấu nguồn
vốn này theo hướng ưu tiên đầu tư cho lĩnh vực khó hoặc
không thể thu hút đầu tư bằng các nguồn khác như đầu
tư cho nông nghiệp, nông thôn, khu vực miền núi; quốc
phòng an ninh; giáo dục, y tế, phòng chống thiên tai, bảo
vệ môi trường; các mục tiêu về an sinh xã hội; đột phá
về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng.
Các chương trình mục tiêu cần được thu gọn và sắp xếp •
theo thứ tự ưu tiên trên cơ sở lựa chọn đầu tư các dự án
quan trọng, cấp bách, mang lại hiệu quả đầu tư cao. Rà
soát, chuyển đổi chủ đầu tư các dự án chuyển tiếp chưa
thực sự cấp bách hoặc có khả năng huy động các nguồn
vốn khác. Đình chỉ đầu tư công các dự án, công trình xét
thấy không có hiệu quả, kể cả các dự án, công trình đang
đầu tư dở dang. Ý kiến chuyên gia cho rằng cần tính toán
cụ thể chi phí cho việc dừng các dự án, công trình không
hiệu quả, dở dang và kéo dài và đây cần được coi là chi
phí cho việc tái cơ cấu đầu tư công.
Kiến nghị 5: Đổi mới phân cấp quản lý kinh tế, đặc biệt là
phân cấp quản lý và giám sát đầu tư là một yêu cầu cấp bách
nhằm giải quyết triệt để những hạn chế, bất cập trong đầu tư công.
Phân cấp quản lý kinh tế là một chủ trương lớn, đúng đắn của
Đảng và Nhà nước ta. Mốc đột phá về phân cấp quản lý đầu tư ở
Việt Nam là việc ban hành Nghị định số 108 năm 2006 hướng dẫn
22
thi hành một số điều của Luật Đầu tư. Trước đó, các Bộ, ngành can
thiệp sâu vào hoạt động đầu tư, trong khi thẩm định của các cơ quan
này nhiều khi không sát thực tế. Trong khi đó, UBND các tỉnh, thành
là nơi gần gũi nhất với hoạt động đầu tư, sát với doanh nghiệp, nắm
các nguồn lực liên quan đến đầu tư như đất đai, lao động, các hoạt
động kiểm tra, giám sát và bảo vệ lợi ích nhà đầu tư và người lao
động cũng như giải quyết các vướng mắc của các nhà đầu tư. Vì vậy,
phân cấp cho các địa phương là một nhu cầu cần thiết, là một bước
chuyển hoạt động quản lý nhà nước của các Bộ ngành ở trung ương
từ tiền kiểm sang hậu kiểm. Tuy nhiên, thực tiễn thời gian qua cho
thấy tình trạng phân cấp chưa tương xứng với năng lực của chính
quyền cấp dưới, phân cấp quá đà, quá nhanh, phân cấp mạnh nhưng
thiếu sự kiểm tra, hướng dẫn có hiệu lực từ trung ương là một vấn đề
lớn đang đặt ra hiện nay.
Đối với đầu tư công, cạnh tranh giữa các tỉnh, thành dẫn tới việc
các tỉnh, thành có thể làm những việc vượt thẩm quyền
7
, quyết định
dự án đầu tư, nhưng nguồn vốn lại đề nghị Trung ương bố trí. Hệ quả
là các dự án do địa phương quyết định quá nhiều, nhưng nguồn vốn
đầu tư từ ngân sách lại hạn hẹp và bị dàn trải. Không ít dự án bị thiếu
vốn, thực hiện cầm chừng, kéo dài, chậm đưa vào sử dụng, do vậy
hiệu quả ngày càng giảm.
Những hạn chế, bất cập trong việc phân cấp quản lý đầu tư xuất
phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó đặc biệt là: (i) thiếu các điều
kiện bảo đảm phân cấp hiệu quả như chưa phân định rạch ròi quyền
và trách nhiệm quản lý của từng cấp (trung ương, địa phương); năng
lực chưa tương xứng của các địa phương trong việc lựa chọn, quyết
định và quản lý các dự án đầu tư, vai trò của các Bộ, ngành trong việc
giám sát quyết định đầu tư của các địa phương; (ii) thiếu cơ chế phối
7
Từ 2006 đến nay phần lớn dự án đầu tư công được phân cấp cho ngành và địa phương và
việc quyết định đầu tư công đã tách rời việc bố trí vốn.
23
hợp, cụ thể là ở cấp trung ương vai trò nhạc trưởng của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư không còn như trước
8
, thiếu khuôn khổ pháp lý, chưa có
sự phối hợp tốt ở cấp vùng để giải quyết các vấn đề liên vùng mặc dù
đã hình thành các Ban chỉ đạo cấp vùng, chưa có sự phối hợp giữa
địa phương và ngành dẫn tới phá vỡ quy hoạch ngành
9
.
Do đó, những giải pháp cơ bản cho việc đổi mới phân cấp và
quản lý đầu tư công cho giai đoạn phát triển sắp tới bao gồm:
Điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, •
các quy hoạch ngành, vùng, địa phương theo định hướng
tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng.
Phân bổ nguồn lực theo tiêu chí phát triển các vùng kinh •
tế (thay cho cách phân bổ theo cơ cấu tỉnh, thành phố
như hiện nay). Ưu tiên phân bổ đầu tư cho những vùng
có tiềm năng, lợi thế so sánh và có thể sử dụng hiệu
quả nguồn lực này với khả năng lan tỏa cao, tạo đột phá
trong phát triển kinh tế vùng.
Hình thành thiết chế quản lý vùng có các quyền quyết •
định quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng, quyết
định quy hoạch và xây dựng các công trình hạ tầng trọng
điểm của vùng, quy hoạch và xây dựng các đô thị lớn và
đô thị vệ tinh, khu kinh tế, khu công nghiệp có tính liên
8
Thậm chí tính kỷ luật trong công tác báo cáo con số đầu tư của địa phương lên Cục ĐTNN
không được tuân thủ. Chỉ riêng trong tháng 7/2008, chênh lệch giữa báo cáo của Cục Đầu tư
nước ngoài và một số tỉnh miền Trung là khoảng 3,8 tỷ USD. Trong số này có cả những dự
án đầu tư “tỷ đô”. Con số báo cáo của Cục ĐTNN tháng 12/2008 là 64 tỷ USD, thấp hơn con
số thực là 7 tỷ USD. Các đợt rà soát của Cục Đầu tư nước ngoài cũng đã phát hiện không ít
dự án được các địa phương cấp phép nhưng lại không có tên trong báo cáo tổng hợp.
9
Riêng tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã cấp phép 18 dự án sản xuất thép (trong khi lợi thế là tỉnh
ven biển, du lịch), trong đó tỉnh và khu công nghiệp đều được quyền cấp dự án, do đó đã
vượt quá quy hoạch của Bộ Công Thương chỉ cho phép 6-7 dự án.
24
kết và chuyên môn hóa cao, các trường đại học, bệnh
viện lớn trong phạm vi vùng, khu vực.
Phân định rạch ròi quyền và trách nhiệm quản lý của •
từng cấp, nâng cao năng lực của các địa phương trong
việc lựa chọn, quyết định và quản lý các dự án đầu tư;
tăng cường vai trò giám sát của các Bộ, ngành trung
ương trong việc giám sát quyết định đầu tư của các địa
phương. Đối với các dự án sử dụng vốn từ Trung ương
cần có sự phê duyệt và giám sát từ cấp có thẩm quyền ở
Trung ương để tránh tình trạng các địa phương lập dự án
tràn lan để giữ chỗ và xin ngân sách Trung ương. Việc
phê duyệt cần bảo đảm một số tiêu chí cần thiết, trong
đó có tính thiết thực với sự phát triển của địa phương và
không phá vỡ các quy hoạch tổng thể khác
10
.
Phát huy dân chủ cơ sở, tăng cường sự tham gia của các •
tổ chức xã hội, cộng đồng và người dân trong giám sát
hiệu quả và chất lượng đầu tư công.
Kiến nghị 6: Xây dựng hệ thống tiêu chí cụ thể, quy trình
hợp lý, chặt chẽ cho việc lựa chọn, giám sát và đánh giá các dự
án đầu tư công.
Thực tế cho thấy, không ít dự án đầu tư công hiện đang lãng
phí, không hiệu quả, đặc biệt việc chậm tiến độ
11
là một trong những
10
Cách thức này đã được nhiều nước trên thế giới thực hiện và cũng được các nước áp dụng
đối với các khoản ODA thực hiện đối với Việt Nam. Hàng năm các nước cam kết dành cho
Việt Nam một khoản ngân sách nào đó, nhưng có thể chỉ một phần rất nhỏ trong mức cam
kết đó được giải ngân vì Việt Nam không đưa ra được các dự án khả thi, thỏa mãn tiêu chí
của tổ chức cam kết cấp vốn. Bản thân các dự án ODA, một khi được giải ngân cũng sẽ
được giám sát bởi tổ chức cấp vốn.
11
Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2010 tình trạng chậm tiến độ thực hiện dự
án sử dụng vốn nhà nước còn khá lớn. Cụ thể, trong số 34.607 dự án đang thực hiện đầu tư,
25
nguyên nhân chủ yếu làm tăng chi phí, giảm hoặc không còn hiệu
quả đầu tư và tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Hiệu quả đầu tư
công thấp là hệ quả của hàng loạt các yếu tố, như đầu tư thiếu quy
hoạch, thiếu kế hoạch chi tiết; đầu tư các dự án không còn cần thiết;
đầu tư phân tán, vốn được phân bổ vào quá nhiều dự án nên các dự
án thường bị thiếu vốn và kéo dài tiến độ, làm tăng chi phí đầu tư và
chậm đưa công trình vào sử dụng; đầu tư dàn trải dẫn đến dư thừa
công suất, tỷ suất sử dụng công trình không đạt như dự kiến, chi phí
vận hành không giảm; đầu tư thiếu đồng bộ dẫn tới công trình cụ thể
hoàn thành mà không đưa vào sử dụng được hoặc công trình đầu tư
có liên quan thường bị dở dang, thậm chí không hoàn thành được.
Hơn nữa, quản lý và giám sát đầu tư còn yếu kém làm thất thoát vốn
đầu tư và chưa bảo đảm chất lượng và hiệu quả công trình như dự
kiến; phân cấp quyết định và sử dụng vốn đầu tư chưa đi kèm với
giám sát, kiểm soát chất lượng và hiệu quả đầu tư.
Để nâng cao hiệu quả đầu tư công, trước hết phải khắc phục các
nguyên nhân dẫn tới yếu kém nêu trên. Việc đánh giá hiệu quả của
các dự án đầu tư công cần có những tiêu chí rất cụ thể, phân biệt về
mặt kinh tế - xã hội và môi trường. Căn cứ theo các tiêu chí đã ban
hành, thực hiện rà soát, đánh giá lại tất cả các dự án (đang thực hiện
hoặc trong quy hoạch); phân loại dự án theo thứ tự ưu tiên thực hiện,
loại bỏ các dự án không còn đáp ứng các tiêu chí đặt ra. Theo Nghị
định 113/2009/NĐ-CP ngày 15/12/2009 của Chính phủ về Giám sát
và đánh giá đầu tư công, thì “đánh giá tác động” là đánh giá được
thực hiện vào thời điểm thích hợp sau năm thứ 3 kể từ ngày đưa dự
án vào vận hành, nhằm làm rõ hiệu quả, tính bền vững và tác động
kinh tế - xã hội của dự án so với mục tiêu đặt ra ban đầu.
thì có tới 3.386 dự án chậm tiến độ, chiếm 9,78% số dự án thực hiện trong kỳ.