Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

luận văn:Hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị hàng không tại Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Hàng không: Thực trạng và giải pháp pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 98 trang )

LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc
1
Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46









ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP



Đề tài: “Hoạt động nhập khẩu máy móc
thiết bị hàng không tại Công ty Cổ phần
Xuất nhập khẩu Hàng không: Thực trạng
và giải pháp”












LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc
2
Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
LỜI MỞ ĐẦU


Việt Nam đang trên đường hội nhập với nền kinh tế thế giới, các hoạt
động giao thương quốc tế ngày càng được mở rộng, không chỉ là các mối
quan hệ hợp tác, giao lưu đối ngoại mà còn là các hoạt động xuất nhập khẩu
hàng hoá. Việt Nam đang thực hiện các chính sách thúc đẩy hoạt động kinh
doanh xuất nhập khẩu tại các doanh nghiệp.
Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong những năm vừa qua đã
có nhiều thành tựu đáng khích lệ. Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm đều có
những tăng trưởng nhất định. Đóng góp vào những thành tựu đó phải kế đến
những ngành vận tải hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Đặc
biệt là ngành hàng không, một trong những ngành đang có tốc độ phát triển
cao.
Ngành hàng không dân dụng hiện nay là một trong những ngành kinh tế
mũi nhọn của Việt Nam. Đặc trưng của ngành là ngành kinh tế kỹ thuật có
tính khai thác sản phẩm thiết bị khoa học công nghệ cao nên toàn bộ thiết bị
phụ tùng hay máy móc phục vụ cho ngành hàng không đều phải nhập khẩu từ
nước ngoài. Quá trình xuất nhập khẩu các hàng hoá chuyên ngành Hàng
không là hoạt động đóng vài trò quan trọng nhằm nâng cao chất lượng và hiện
đại hóa cơ sở vật chất cho ngành. Và Công ty CP Xuất nhập khẩu Hàng không
(AIRIMEX) là công ty chuyên ngành thực hiện các nghiệp vụ xuất nhập khẩu
thiết bị phụ tùng máy móc cho Tổng công ty Hàng không Việt Nam và các
đơn vị kinh doanh khác.
Hoạt động xuất nhập khẩu tại Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Hàng

không trong những năm vừa qua đã đạt được những thành tựu lớn, nhưng bên
cạnh đó vẫn còn những hạn chế trong hoạt động kinh doanh của Công ty.
Nhưng để có thể đánh giá chính xác hơn thực trạng hoạt động kinh doanh tại
Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu Hàng không AIRIMEX và dưới sự chỉ dẫn
tận tình của Th.S Nguyễn Quang Huy và sự giúp đỡ của các cán bộ phòng
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc
3
Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
kinh doanh, em chọn đề tài : “Hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị hàng
không tại Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Hàng không: Thực trạng và
giải pháp” làm luận văn tốt nghiệp.
Việc nghiên cứu chủ yếu tập trung vào hoạt động kinh doanh của Công
ty trong thời gian vừa qua. Qua đó rút ra được những điểm mạnh, yếu trong
hoạt động kinh doanh và từ đó sẽ đề xuất ra phương hướng và giải pháp nhằm
khắc phục những hạn chế còn tồn tại.
Kết cấu của luận văn tốt nghiệp gồm 3 chương:
• Chương 1: Khái quát những vấn đề cơ bản về hoạt độnh nhập
khẩu hàng hoá của doanh nghiệp xuất nhập khẩu
• Chương 2: Thực trạng hoạt động nhập khẩu thiết bị tại Công ty
Cổ phần xuất nhập khẩu Hàng không - AIRIMEX
• Chương 3: Hoàn thiện hoạt động nhập khẩu thiết bị tại công ty
Cổ phần Xuất nhập khẩu Hàng không trong thời gian tới
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, em đã nhận được sự giúp đỡ và tạo
điều kiện thuận lợi từ TH.S Nguyễn Quang Huy - Giảng viên Khoa Thương
mại và các cán bộ nhân viên phòng kinh doanh trong công ty. Em xin chân
thành cảm ơn sự giúp đỡ hết sức quý báu này! Do kiến thức còn hạn chế và
thiếu kinh nghiệm thực tiễn, đề tài của em vẫn còn nhiều thiếu sót. Rất mong
sự góp ý của các thầy cô, các cán bộ nhân viên trong công ty,… để đề tài được
hoàn thiện hơn và giúp em nâng cao tầm nhận thức.

Em xin chân thành cảm ơn!






LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc
4
Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
CHƯƠNG I:KHÁI QUÁT NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ
HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ CỦA DOANH
NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU

1. NHẬP KHẨU VÀ VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
1.1.Khái niệm
Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt nam
luôn đạt mức khá, và trong năm 2007 tốc độ tăng trưởng kinh tế là 8%. Để có
mức tăng trưởng cao như vậy, Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi để thúc
đẩy hoạt động ngoại thương trong các doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp
nhà nước kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hoá. Xuất khẩu và
nhập khẩu có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, xuất khẩu hàng hoá sẽ thu ngoại
tệ về để thực hiện nhập khẩu còn nhập khẩu để nâng cao chất lượng hàng hoá
nhằm thúc đẩy xuất khẩu. Do đó, hoạt động nhập khẩu là điều kiện cần để
nâng cao chất lượng hàng hoá nhờ nguồn nguyên liệu tốt và trang thiết bị máy
móc hiện đại.
Hoạt động nhập khẩu hàng hoá là quá trình mua hàng hoá hay dịch vụ
của một tổ chức kinh tế hay doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ở quốc
gia này từ một tổ chức kinh tế hay doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ở

một quốc gia khác theo nguyên tắc thị trường quốc tế nhằm phục vụ sản xuất
trong nước hay tái xuất khẩu để tìm kiếm lợi nhuận.
Đối với mỗi quốc gia, hoạt động nhập khẩu luôn là một bộ phận quan
trọng trong quá trình buôn bán quốc tế, nó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa
các nền kinh tế trên thế giới. Điều này càng thể hiện rõ ràng hơn khi sự khan
hiếm về tài nguyên của mỗi nền kinh tế. Điển hình là Nhật Bản, một nước có
nguồn tài nguyên khan hiếm và phải nhập khẩu nhiều loại hàng hoá khác nhau
đề khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh thế giới lần thứ 2. Hoạt động nhập
khẩu hàng hoá của Nhật Bản cho thấy phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc
5
Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
và vai trò quan trọng của hoạt động nhập khẩu đối với mỗi quốc gia trong việc
phát triển nền kinh tế.
Hơn nữa, với xu thế toàn cầu hoá, liên minh liên giữa các nền kinh tế
hình thành nên các khu vực mậu dịch tự do hay các liên minh kinh tế như EU,
AFTA, NAFTA,… cho thấy khối lượng các hoạt động ngoại thương ngày
càng lớn và nhập khẩu là một bộ phận không thể thiếu để ổn định nền kinh tế
của từng quốc gia riêng lẻ mà còn là sự ổn định của liên minh hay của từng
khu vực kinh tế.
1.2. Vai trò của nhập khẩu
Qua những thời kì phát triển của nền kinh tế thế giới, ta có thể thấy
được mối quan hệ chặt chẽ giữa sự phát triển nền kinh tế và hoạt động mua
bán hàng hoá quốc tế. Quốc gia nào có hoạt động thương mại quốc tế phát
triển thì ở đó có một nền kinh tế phát triển. Trước năm 1986, Việt Nam chủ
trương xây dựng nền kinh tế tự cung tự cấp nhưng thực tế đã chỉ ra rằng đó là
một sai lầm trong việc khôi phục và phát triển đất nước sau chiến tranh. Sự
khan hiếm hàng hoá hay các thiết bị máy móc kĩ thuật đã gây ra ảnh hưởng
nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất và buôn bán hàng hoá. Học được từ

những thất bại đó, Việt Nam bắt đầu tiến hành mở cửa nền kinh tế từ năm
1986 nhằm thu hút đầu tư và thực hiện các hoạt động ngoại thương bên cạnh
hoạt động giao lưu, học hỏi kinh nghiệm trong hoạt động quản lý và xây dựng
nền kinh tế thị trường của các nước phát triển. Hoạt động nhập khẩu được
thúc đẩy mạnh giải quyết tình trạng thiếu hàng hoá và cải tiến công nghệ trong
hoạt động sản xuất. Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đặt
được những thành tựu quan trọng và để có được kết quả như vậy không thể
không kể đến vai trò quan trọng của nhập khẩu hàng hoá.
Thứ nhất, nhập khẩu kết hợp với xuất khẩu góp phần nâng cao hiệu quả
kinh tế, xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Xuất khẩu sẽ thu ngoại tệ về để
chi trả hàng hoá nhập khẩu, còn nhập khẩu hàng hoá nhằm giải quyết sự khan
hiếm nguồn lực và nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu nhờ trang thiết bị
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc
6
Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
máy móc hiện đại. Bên cạnh đó, cơ cấu hàng hoá trên thị trường sẽ ngày càng
phong phú hơn, đa dạng hơn cả về kiểu cách, màu sắc, chủng loại, mẫu mã và
chất lượng nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu sử dụng hàng hoá, đặc biệt là hàng
hoá mà trong nước chưa thể sản xuất được. Hơn nữa, nhập khẩu hàng hoá sẽ
thúc đẩy quá trình đào thải trên thị trường diễn ra mạnh mẽ hơn, những hàng
hoá có chất lượng thấp, mẫu mã không phù hợp với thị hiếu tiêu dùng dần dần
không chiếm đuợc thị trường và bị đào thải. Các doanh nghiệp kinh doanh
thưong mại và doanh nghiệp sản xuất cũng gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ
hàng hoá nhập khẩu. Sự kém hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ
khiến doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn khi mà nhu cầu nhập khẩu ngày
càng tăng. Điều này sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phải thay đổi
cách quản lý và làm việc của mình nếu không họ sẽ bị thanh lọc khỏi thị
trường. Sự thay đổi này sẽ giúp doanh nghiệp ngày càng phát triển và gián
tiếp cải thiện đời sống người lao động tại doanh nghiệp về lương hay điều

kiện làm việc.
Thứ hai, nhập khẩu sẽ thúc đẩy hoạt động xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đối với bất kì quốc gia nào trên thế giới,
họ đều không thể tự sản xuất được tất cả hàng hoá phục vụ cho tiêu dùng hay
xây dựng, đặc biệt ở những nước đang phát triển. Những nền kinh tế đang
phát triển như Việt Nam, quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho mục
đích phát triển kinh tế là rất lớn, nhưng những nền kinh tế này không thể tự
sản xuất ra các trang thiết bị máy móc hiện đại, do đó không còn con đường
nào khác ngoài nhập khẩu để hiện thực hoá mục đích đó. Ngoài ra, hoạt động
nhập khẩu phát triển sẽ điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Sự phát triển của nhập khẩu
sẽ đẩy mạnh sự phát triển của ngành công nghiệp và dịch vụ do áp dụng
những thành tựu khoa học trên thế giới, qua đó tỉ trọng ngành dịch vụ và công
nghiệp tăng còn tỉ trọng ngành nông nghiệp giảm dần.
Thứ ba, nhập khẩu hàng hoá có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp sản xuất, chất lượng
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc
7
Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
là tiêu chí đầu tiên khi lựa chọn nguyên vật liệu. Các doanh nghiệp sản xuất
trong nước đang khan hiếm nguồn nguyên liệu có chất lượng tốt nhằm nâng
cao chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, họ cũng cần một quy trình sản xuất
hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất. Do đó, hoạt động nhập khẩu sẽ
giúp họ giải quyết tốt những vấn đề này. Còn với doanh nghiệp thương mại,
nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài đem tiêu thụ tại thị trường trong nước sẽ
đem lại lợi nhuận cho họ khi hàng hoá đó có chất lượng tốt, mẫu mã phong
phú thoả mãn yêu cầu của thị trường.
Các quốc gia trên thế giới đang áp dụng ngày càng nhiều khoa học công
nghệ vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Và Việt Nam cũng không nằm ngoài
xu thế này, nhất là Việt Nam đang trên đường hội nhập với nền kinh tế thế

giới nên hoạt động nhập khẩu phát triển sẽ là một ưu thế cho Việt Nam tận
dụng những thành tựu của khoa học công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên, nhập khẩu
vẫn còn những hạn chế nếu không có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước:
- Hoạt động nhập khẩu tràn lan dẫn đến lãng phí nguồn lực gây ảnh
hưởng xấu đến hoạt động sản xuất trong nước
- Hoạt động nhập khẩu hàng hoá luôn cần có ngoại tệ để có thể chi trả,
đặc biệt là ngoại tệ mạnh. Các nền kinh tế phát triển có nhu cầu nhập khẩu lớn
nhưng lượng ngoại tệ lại không cho phép. Nếu hoạt động xuất khẩu không
được phát triển thì tình trạng vay nợ từ các quốc gia hay các tổ chức tài chính
quốc tế sẽ kéo dài. Điều này gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế khi tỷ giá hối
đoái tăng cao, nợ nước ngoài lớn gây khó khăn cho xuất khẩu.
- Nhập khẩu quá nhiều sẽ gây nên tình trạng mất cân bằng cán cân
thương mại quốc tế. Tình trạng nhập siêu sẽ đẩy tỉ giá hối đoái tăng cao gây
khó khăn cho cả hoạt động nhập khẩu và xuất khẩu. Trong khi nhập khẩu cần
nhiều ngoại tệ thì hoạt động xuất khẩu lại không đem lại nguồn ngoại tệ mong
muốn để chi trả hàng nhập khẩu do nội tệ đang ngày càng mất giá còn ngoại tệ
lại lên giá.
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc
8
Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
Là nước có nền kinh tế đang phát triển, nhu cầu về công nghệ, máy
móc thiết bị hiện đại phục vụ cho hoạt động sản xuất và đáp ứng nhu cầu xuất
khẩu cũng như tiêu thụ trong nội địa của Việt Nam ngày càng tăng trong khi
trình độ kỹ thuật vẫn còn thấp. Vì vậy, nhập khẩu là phương án tối ưu mà Việt
Nam có thể thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế đất nước. Cùng với sự phát
triển kinh tế là vị thế của Việt Nam trên thế giới, hàng hoá của Việt Nam có
thể cạnh tranh được với hàng hoá từ các nước khác khi chất lượng được cải
thiện rõ rệt và mẫu mã được cải tiến thoả mãn thị hiếu của từng thị trường.
1.3. Các phương thức nhập khẩu

1.3.1. Nhập khẩu liên doanh
Đây là hình thức nhập khẩu dựa trên sự tự nguyện của các chủ thể kinh
tế tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu, trong đó có ít nhất một bên nhập khẩu
trực tiếp nhằm kết hợp với nhau để thực hiện các giao dịch và đưa ra các biện
pháp liên quan đến nhập khẩu để cả hai bên cùng thu được lợi ích mong
muốn.
Trong hình thức này, các bên không phải chịu rủi ro do có sự phân bổ
về vốn, trách nhiệm, quyền hạn cho các bên. Thực tế, bên nào có kinh
nghiệm, bạn hàng giao dịch và nghiệp vụ tốt sẽ có quyền nhập khẩu và trực
tiếp góp vốn, bảo đảm cho các hoạt động sau đó như tiêu thụ, gia công.
Tại Việt Nam, hoạt động nhập khẩu liên doanh vẫn đang được áp dụng
tại nhiều doanh nghiệp do một mặt thiếu vốn, năng lực cần thiết; mặt khác do
không thể tìm được đối tác có nhu cầu tương tự.
1.3.2. Nhập khẩu trực tiếp
Là hình thức nhập khẩu mà một doanh nghiệp độc lập nhập khẩu hàng
hoá mà doanh nghiệp đó kinh doanh. Hình thức này đòi hỏi doanh nghiệp
nhập khẩu không chỉ nghiên cứu thị trường, luật pháp và chính sách của nhà
nước mà còn là các tập quán quốc tế, thông lệ quốc tế.
Khi áp dụng hình thức nhập khẩu này, doanh nghiệp nhập khẩu tự tìm
kiếm nhà cung ứng những hàng hoá mình cần nhập khẩu. Điều này đòi hỏi
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc
9
Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
doanh nghiệp phải nắm bắt được chất lượng hàng hoá của đối tác cũng như
những thông tin về đối tác để đảm bảo không bị gian lận thương mại. Trong
hình thức này, doanh nghiệp nhập khẩu sẽ chịu toàn bộ những rủi ro xảy ra
nhưng được hưởng lợi toàn bộ. Các doanh nghiệp sẽ có sự tự chủ trong việc
mua hàng hoá hơn so với các hình thức khác, nhà nhập khẩu sẽ tự chủ hoàn
toàn từ khâu nghiên cứu nhu cầu thị trường cho đến tìm kiếm đối tác, ký kết

hợp đồng và thực hiện hoạt động nhập khẩu. Đây là điểm khác biệt nhất so
với các hình thức nhập khẩu khác.
1.3.3. Nhập khẩu tái xuất
Là hình thức nhập khẩu hàng hoá từ một nước khác sau đó tái xuất khẩu
sang một nước thứ ba mà không qua các khâu gia công, chế biến hay sản xuất.
Đặc điểm đặc trưng của hình thức nhập khẩu này là có ba chủ thể kinh
tế ở ba quốc gia khác nhau: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu.
Để áp dụng hình thức này, doanh nghiệp cần có sự nghiên cứu thị
trường của các nước để đảm bảo nguồn cung ứng và đầu ra cho hoạt động
kinh doanh không chỉ là về giá cả, mặt hàng mà còn là luật pháp, tập quán
từng nước.
1.3.4. Buôn bán đối lưu
Đây là phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá, trong đó xuất khẩu kết
hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng
giao đi có giá trị tương xứng với số lượng hàng nhận về.
Trong nghiệp vụ này, hai bên trao đổi hàng hoá với nhau trên cơ sở ghi
sổ giá trị hàng giao. Đến cuối kì hạn, hai bên mới so và đối chiếu giá trị hàng
đã giao và trị giá đã nhận, nếu sau khi thực hiện nghiệp vụ bù trừ, tiền hàng
còn dư thì số tiền đó được giữ lại để chi trả theo yêu cầu của bên chủ nợ hoặc
có thể được ghi vào sổ nghiệp vụ bù trừ năm sau.
1.3.5. Nhập khẩu uỷ thác
Hoạt động nhập nhẩu uỷ thác được hình thành giữa một doanh nghiệp
có vốn, ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu một loại hàng hoá nào đó
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc
10
Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
nhưng lại không có khả năng nhập khẩu trực tiếp, do đó doanh nghiệp này sẽ
uỷ thác cho một doanh nghiệp khác có khả năng nhập khẩu trực tiếp hàng hoá
theo yêu cầu của mình, còn doanh nghiệp nhận uỷ thác sẽ thu được lệ phí

trong hoạt động nhập khẩu uỷ thác.
Trước khi tiến hành nhập khẩu uỷ thác, hai bên sẽ ký kết hợp đồng mà
theo đó bên uỷ thác nhận được hàng hoá theo đúng yêu cầu của mình và phải
trả cho bên nhận uỷ thác một khoản tiền gọi là lệ phí uỷ thác. Bên nhận uỷ
thác sẽ thay mặt bên uỷ thác tự tìm kiếm đối tác và thực hiện tất cả các khâu
trong hoạt động nhập khẩu hàng hoá đó. Bên cạnh đó, bên nhận uỷ thác không
phải chịu rủi ro về vốn hay về hoạt động bán hàng vì sau khi nhận được lệ phí
uỷ thác, bên nhận uỷ thác sẽ giao hàng cho bên uỷ thác. Trên thực tế, bên
nhận uỷ thác thường là các công ty lớn có khả năng về vốn, nghiệp vụ và có
uy tín trên thị trường.
Hoạt động nhập khẩu sẽ đem lại lợi ích cho cả bên uỷ thác và bên nhận
uỷ thác. Trong khi bên nhận uỷ thác kiếm được một khoản lệ phí uỷ thác, còn
bên uỷ thác vẫn có những hàng hoá mà mình mong muốn mặc dù điều kiện để
nhập khẩu trực tiếp không cho phép. Bên uỷ thác cũng sẽ tiết kiệm được thời
gian khi không phải làm các thủ tục để có thể nhập khẩu hàng hoá. Tuy nhiên,
về lâu dài các doanh nghiệp uỷ thác sẽ mất lợi thế về chi phí trong hoạt động
bán hàng và đôi khi hàng hoá không đảm bảo đúng yêu cầu về chất lượng, kỹ
thuật như trong hợp đồng uỷ thác.
Hoạt động nhập khẩu hàng hoá có nhiều hình thức, các doanh nghiệp
kinh doanh xuất nhập khẩu cần xác định chính xác tiềm lực của mình không
chỉ về tài chính mà bên cạnh đó là các nghiệp vụ trong hoạt động nhập khẩu
hàng hoá sao cho lợi ích đem lại là tối ưu.
2. NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TẠI DOANH NGHIỆP
Hoạt động nhập khẩu nói riêng cũng như hoạt động ngoại thương nói
chung luôn được tổ chức thực hiện với nhiều khâu, nhiều nghiệp vụ từ nghiên
cứu thị trường và tìm kiếm đối tác cho đến đàm phán ký kết hợp đồng và thực
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc
11
Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46

hiện hợp đồng đó. Đây là một qui trình đồng bộ đòi hỏi sự chính xác và kỹ
lưỡng trong tùng nghiệp vụ nhằm thực hiện hoạt động nhập khẩu đạt hiệu quả
cao.
2.1. Nghiên cứu thị trường, xác định hàng hoá cần nhập khẩu
2.1.1. Khái niệm thị trường và phương pháp nghiên cứu thị trường
Thị trường theo góc độ kinh doanh là tập hợp những khách hàng có
những nhu cầu khác nhau mà các nhà kinh doanh hướng tới nhằm thoả mãn
tốt nhất nhu cầu của họ để thu vầ lợi nhuận cho mình (Giáo trình Marketing
Thương mại – NXB Lao Động – Xã hội 2005)
Trong hoạt động kinh doanh, bất kì một công ty, một doanh nghiệp nào
cũng đều có một thị trường mục tiêu mà mình hướng tới và chỉ đến khi nào
doanh nghiệp hay công ty có thể thâm nhập, chinh phục và khai thác thị
trường đó thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, muốn
có thể thâm nhập vào thị trường đó, điều đầu tiến doanh nghiệp cần phải tiến
hành là nghiên cứu thị trường một cách tổng thể và có khoa học.
Nhìn chung có nhiều phương pháp để nghiên cứu thị trường, nhưng xét
một cách tổng quát thì có hai phương pháp chính: nghiên cứu tại hiện trường
và nghiên cứu tại bàn.
Nghiên cứu tại bàn là phương pháp thu thập thông tin thông qua các
kênh gián tiếp như báo chí, phương tiện truyền thông, các báo cáo, thống kê
của các cơ quan có chức năng, Phương pháp này giúp tiết kiệm chi phí, thời
gian nhưng thông tin không phản ánh đúng xu thế của thị trường, do đó không
đưa ra được những phương án kinh doanh tối ưu và chiến lược phát triển thị
trường dài hạn.
Nghiên cứu tại hiện trường là phương pháp thu thập những thông tin từ
thị trường mà doanh nghiệp hướng tới, sau đó phân tích và đưa ra những kết
luận. Trong phương pháp này, những hình thức như điều tra phỏng vấn, qua
bảng hỏi, qua quan sát và ghi chép, qua thư góp ý,… là những hình thức được
sử dụng một cách thường xuyên. Những thông tin này cần phải qua một bước
LuËn v¨n tèt nghiÖp

NguyÔn Xu©n Léc
12
Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
quan trọng đó là tổng hợp, phân tích, đánh giá mới thấy được xu hướng vận
động của thị trường. Đặc điểm của phương pháp này là tốn kém về thời gian,
chi phí nhưng bù lại thông tin thu thập được phản ánh đúng xu hướng thị
trường.
2.1.2. Nội dung nghiên cứu thị trường
Đây là khẩu đầu tiên của quá trình nhập khẩu hàng hoá, nghiệp vụ này
là bắt buộc đối với bất kì doanh nghiệp nào muốn kinh doanh hàng hoá. Họ
cần phải nắm vững đặc điểm của từng thị trường như thị hiếu, phương thức
tiêu dùng và các phong tục tập quán của thị trường đó để có những điều chỉnh
phù hợp. Đây là quá trình phức tạp đòi hỏi sự chính xác để đưa ra các kết luận
và các phương án đúng đắn nhằm giảm thiểu rủi ro và tiết kiệm chi phí.
Thông qua hoạt động nghiên cứu thị trường, chúng ta có thể trả lời
được những vấn đề cơ bản của thị trường:
- Kinh doanh với ai?
- Kinh doanh mặt hàng gì? Mẫu mã như thế nào?
- Kinh doanh vào thời điểm nào và ở dâu?
- Giá cả và lợi nhuận như thế nào?
- Kinh doanh với số lượng bao nhiêu?
Nghiên cứu thị trường không chỉ nghiên cứu thị trường trong nước mà
còn nghiên cứu cả thị trường nước ngoài nữa.
a)Nghiên cứu thị trường trong nước
Nghiên cứu thị trường trong nước là nghiên cứu nhu cầu hiện tại và xu
thế sử dụng hàng hoá trên thị trường. Qua đó dự đoán nhu cầu sử dụng hàng
hoá trong tương lai gần như: thị trường cần hàng hoá gì? số lượng bao nhiêu?
mẫu mã, kiểu dáng như thế nào?
Khi tiến hành nghiên cứu thị trường, điều quan trọng mà doanh nghiệp
cần quan tâm đến đó là khả năng sản xuất và tiêu dùng hàng hoá của thị

trường đó. Điều này thể hiện ở số lượng hàng hoá, chất lượng của hàng hoá
đó, thị hiếu của thị trường đối với hàng hoá hay các phong tục tập quán ảnh
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc
13
Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
hưởng đến việc sản xuất và tiêu dùng hàng hoá đó. Bên cạnh đó, chu kỳ sống
của sản phẩm cũng là vấn đề mà doanh nghiệp cần quan tâm để có thể biết
được hàng hoá đó đang nằm trong giai đoạn nào của chu kỳ sống. Với những
hàng hoá đang nằm ở giai đoạn bão hoà, doanh nghiệp cần xem xét và dự
đoán xu thế sử dụng hàng hoá trong thời gian tới để có thể đáp ứng nhu cầu
của thị trường một cách kịp thời. Còn với những hàng hoá đang trong thời kì
đầu của chu kỳ sống, giai đoạn giới thiệu và phát triển, doanh nghiệp cần
nghiên cứu thời gian hàng hoá đó đứng vững trên thị trường. Nếu đó là thời
gian dài thì cần có những phương án nhập khẩu những hàng hoá có cùng tính
năng nhưng có khả năng cạnh tranh về chất lượng, mẫu mã và phong phú về
chủng loại trong cùng một mặt hàng.
Ngoài việc nghiên cứu những đặc điểm của thị trường hàng hoá, doanh
nghiệp cần phải nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh để nắm rõ điểm mạnh và
điểm yếu của họ; từ đó đưa ra các phương án thâm nhập và phát triển hàng
hoá tại đoạn thị trường mà doanh nghiệp hướng tới trên cở sở sử dụng những
lợi thế mà đối thủ cạnh tranh không có hay còn yếu. Chính sách của nhà nước
trong việc thúc đẩy hoạt động nhập khẩu cũng có ảnh hưởng tới việc xây dựng
phương án kinh doanh của doanh nghiệp.
b)Nghiên cứu thị trường nước ngoài
Nghiên cứu thị trường nước ngoài là nghiên cứu số lượng nhà cung ứng
sản phẩm mà doanh nghiệp cần nhập khẩu, phuơng thức thanh toán, phương
thức vận chuyển, các yêú tố chính sách hay chính trị của quốc gia bên phía đối
tác. Hoạt động này cần rất nhiều thời gian để có thể đưa ra các phương án lựa
chọn nhà cung ứng đem lại hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp.

2.2. Xây dựng chiến lược, kế hoạch và phương án nhập khẩu
2.2.1. Xác định mục tiêu chiến lược
Dựa vào kết quả nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp sẽ có những
thông tin về thị trường, về nhà cung cấp và những hàng hoá cần nhập khẩu.
Doanh nghiệp sẽ có cơ sở để xây dựng chiến lược, kế hoạch và phương án
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc
14
Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
nhập khẩu hàng hoá tránh tình trạng nhập khẩu ồ ạt một loại hàng hoá mà mẫu
mã kém phong phú gây lãng phí nguồn lực. Để có thể xây dựng được một
chiến lược kinh doanh hợp lý, doanh nghiệp cần xác định mục tiêu chiến lược.
Mục tiêu là những giá trị cụ thể mà doanh nghiệp đạt được trong một
giai đoạn hay trong cả một quá trình kinh doanh. Mục tiêu này bao gồm mục
tiêu dài hạn, mục tiêu ngắn hạn. Khi tiến hàng xác định mục tiêu, doanh
nghiệp cần tính toán sao cho đảm bảo tính hợp lý, tính khả thi, tính đồng
bộ,… giữa những mục tiêu đặt ra trong cùng một thời kỳ.
2.2.2. Xác định các chính sách và điều kiện nhập khẩu
Đây là công việc xác định tư tưởng chỉ đạo trong suốt quá trình đàm
phán và thực hiện hợp đồng sau này. Doanh nghiệp cần xác định chính sách
nhập khẩu của mình thực hiện trong thời kỳ dài hay chỉ mang tính thời vụ, bên
cạnh đó là xác định điều kiện sẵn có của doanh nghiệp.
2.2.3. Lập kế hoạch, phương án kinh doanh
Trước hết ta phải hiểu thế nào là kế hoạch kinh doanh? Phương án kinh
doanh?
Kế hoạch kinh doanh là bản mô tả một cách tổng quát những nhiệm vụ,
mục tiêu của doanh nghiệp và những phương pháp để đạt được những mục
tiêu đó. Công tác lập kế hoạch sé giúp cho hoạt động nhập khẩu của công ty đi
đúng hướng và dễ thích ứng với những bất ngờ xảy ra. Kế hoạch kinh doanh
cũng cần phải đảm bảo tính khả thi và tính đồng bộ.

Phương án kinh doanh là một bản tài liệu trình bày toàn bộ phương án
nhập khẩu một loại hàng hoá nào đó với đầy đủ các dữ liệu thể hiện tính khả
thi của phương án.
Lập một phương án kinh doanh là việc chỉ rõ những đặc điểm của hàng
hoá cần nhập, đặc điểm của đối tác, những lợi ích mà doanh nghiệp đạt
được,… và trong phương án kinh doanh cũng cần phải có những chỉ tiêu đã
dự tính: doanh thu, lợi nhuận, hiệu quả của phương án, Cuối cùng là những
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc
15
Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
lời kết luận và kiến nghị để phương án được thực thi một cách có hiệu quả
nhất.
Doanh nghiệp không chỉ xây dựng một phuơng án nhập khẩu mà còn
phải xây dựng những phương án nhập khẩu khác nhằm duy trì liên tục hoạt
động nhập khẩu và đưa hàng nhập khẩu vào thị trường mà doanh nghiệp đã
hướng tới.
2.3. Đàm phán và ký kết hợp đồng nhập khẩu
Đàm phán là quá trình hai bên thương lượng, bàn bạc và trao đổi với
nhau các điều khoản mua bán chủ yếu để tiến hành đi đến ký kết hợp đồng.
Đây là giai đoạn đầu tiên của hoạt động ký kết hợp đồng, các bên sẽ
trao đổi những thắc mắc của mình với đối tác và thể hiện những nhu cầu và
mong muốn về lợi ích của mình. Do đó, các bên cần chuẩn bị kỹ lưỡng tài liệu
cho buổi đàm phán, tránh tình trạng không nắm rõ thông tin về đối tác của
mình và đem lại cho mình những lợi ích kinh tế mong muốn mà vẫn giữ mối
quan hệ tốt đẹp với đối tác.
Có ba hình thức đàm phán:
- Đàm phán trực tiếp: Các bên sẽ gặp mặt trực tiếp với nhau. Hình
thức đàm phán này sẽ đem lại hiệu quả cao khi các bên đều hiểu rõ nhu cầu
của nhau sau khi buổi đàm phán kết thúc. Do đó, độ an toàn khá cao. Tuy

nhiên, với những đối tác có khoảng cách về địa lý thì sử dụng hình thức đàm
phán này rất khó khăn và đàm phán trực tiếp cũng đi kèm với chi phí cao.
- Đàm phán qua thư: Có độ chính xác cao, tất cả yêu cầu và mong
muốn của hai bên đều được thể hiện trên thư tín,và hình thức này cũng tiết
kiệm rất nhiều chi phí cho các bên tham gia. Nhưng phương thức này có thề
tốn nhiều thời gian nếu thư tín bị thất lạc không đến được tay đối tác.
- Đàm phán sử dụng phương tiện truyền thông(Fax, telex, email…):
hình thức này được sử dụng khá phổ biến vì tính nhanh, đảm bảo nội dung cần
đàm phán. Tuy nhiên, chỉ có thể áp dụng khi các bên thật sự tin tưởng lẫn
nhau.
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc
16
Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
Mỗi phuơng thức đều có những ưu điểm và nhược điểm khác nhau, tuỳ
vào điều kiện của mình mà doanh nghiệp có thể lựa chọn hình thức đàm phán
phù hợp. Với mỗi quá trình đàm phán đều có nội dung cơ bản sau:
- Hỏi giá: bên mua sẽ yêu cầu bên bán đưa ra những thông tin cơ bản về
hàng hoá mình cần nhập khẩu bao gồm: tên hàng, chủng loại, chất lượng, giá
cả,… Bước này không đòi hỏi bên mua phải trở thàng người mua hàng.
- Báo giá: Sau khi người mua yêu cầu, người bán sẽ đưa ra những thông
tin và sản phẩm cho đối tác theo đúng yêu cầu của đối tác.
- Chào hàng: ở bước này, người bán đưa ra lời đề nghị với người mua
về một số lượng hàng hoá nhất định có kèm theo các điều khoản cần thiết.
- Đặt hàng: là lời đề nghị của người mua đối với người bán về một số
lượng hàng hoá dưới hình thức đơn đặt hàng. Nếu đã có báo giá thì việc bên
mua đặt hàng đánh dấu việc hợp đồng chính thức hình thành.
- Hoàn giá: Khi nhận được đơn đặt hàng, nếu không chấp nhận hoàn
toàn nội dung trong đó thì một trong hai bên sẽ đưa ra đề nghị mới gọi là hoàn
giá và chào hàng cũ coi như bị huỷ bỏ

- Chấp nhận: Là việc đồng ý hoàn toàn với chào hàng hoặc báo giá đó.
Việc chấp nhận này phải được người chấp nhận ký và ghi rõ chấp nhận vô
điều kiện, sau đó chuyển cho người chào hàng thì đặt hàng mới có giá trị pháp
lý.
- Xác nhận: là sự khẳng định lại thoả thuận giữa bên bán và bên mua.
Đây là những bước cơ bản trong buổi đàm phán ký kết hợp đồng, ngoài
ra hai bên còn có thể thoả thuận các điều khoản khác tuỳ thuộc vào yêu cầu và
mong muốn của các bên và mối quan hệ của các bên tham gia đàm phán.
Mục đích cuối cùng của buổi đàm phán là ký kết hợp đồng. Một hợp
đồng thường có những nội dung chủ yếu sau:
- Số hiệu hợp đồng
- Ngày, địa điểm ký kết và thời hạn thực hiện hợp đồng
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc
17
Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
- Điạ chỉ các bên tham gia, quốc tịch, số điện thoại, số tài khoản, ngân
hàng mở tài khoản
- Các điều khoản của hợp đồng:
+ Tên hàng, quy cách, số lượng, chất lượng bao bì, ký mã hiệu
+ Thời hạn, địa điểm, phương thức giao hàng
+ Thủ tục thanh toán, phương thức, đồng tiền thanh toán
+ Giải quyết tranh chấp, khiếu nại có luật áp dụng
+ Các điều khoản khác
2.4.Thực hiện hợp đồng nhập khẩu
Sau khi đàm phán và ký kết hợp đồng nhập khẩu hàng hoá, các bên sẽ
tổ chức thực hiện các nghiệp vụ liên quan để có thể đưa hàng hoá từ nước
xuất khẩu sang nước nhập khẩu theo trình tự sau:

















Sơ đồ 1- Các bước của hoạt động nhập khẩu thiết bị
Ký kết
kinh
doanh
nhập
khẩu
Xin
giấy
phép
xuất
khẩu
Mở L/C
khi bên
bán yêu
cầu
Thuê

phương
tiện vân
tải
Đôn đốc
bên bán
giao
hàng
Giao
hàng
cho đơn
vị đặt
hàng
Kiểm
tra hàng
hoá
Nhận
hàng
Làm thủ
tục hải
quan
Mua
bảo
hiểm
hàng
hoá
Làm thủ
tục
thanh
toán
Khiếu

nài về
hàng
hoá
(nếu có)
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc
18
Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
2.4.1. Ký kết kinh doanh nhập khẩu
Đây là kết quả của buổi đàm phán giữa các bên tham gia mua bán hàng
hoá quốc tế. Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế sẽ là văn bản xác định mối
quan hệ giữa người bán và người mua, bên bán phải chịu trách nhiệm về
những hoạt động gây thiệt hại cho bên mua và ngược lại.
2.4.2. Xin giấy phép xuất khẩu
Để có thể nhập khẩu hàng hoá, doanh nghiệp nhập khẩu phải xin giấy
phép nhập khẩu tại các cơ quan có thẩm quyền.
Theo quy định 57/CP của Chính phủ: “ Thương nhân là doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo qui định của pháp luật được xuất
khẩu, nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề đã ghi trong giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh sau khi đã đăng ký mã số tại cục Hải quan tỉnh, thành phố
thì không phải xin giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu.” ( Trang 144 - Giáo
trình Quản trị kinh doanh xuất nhập khẩu – Nxb Thống kê – Hà Nội - 2000)
2.4.3. Mở L/C khi bên bán yêu cầu
Khi có yêu cầu của bên bán về việc mở L/C mới có thể giao hàng,
doanh nghiệp nhập khẩu cần chuẩn bị những giấy tờ cần thiết để mở L/C tại
ngân hàng. Giấy đề nghị mở L/C bao gồm hai phần: một phần sẽ cấu thành
nội dung của L/C và phần còn lại là cam kết của đơn vị mở L/C.
a) Phần sẽ cấu thành nội dung L/C
Phần này sẽ được trình bày bằng văn bản tiếng Anh dưới sự hỗ trợ của
Ngân hàng mà doanh nghiệp yêu cầu mở L/C. Sở dĩ phải bằng tiếng Anh là do

Ngân hàng sẽ dựa vào phần này đề cấu thành nên nội dung của L/C được lập.
Phần này có những nội dung cơ bản sau:
- Tên, địa chỉ của đơn vị xin mở L/C
- Tên, địa chỉ của ngân hàng thông báo L/C(Advertising bank)
- Ngày mở L/C (Date of this application)
- Ngày và nơi L/C hết hiệu lực (Expiry date…/…/…in…)
- Tên và địa chỉ người hưởng thụ (Beneficiary)
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc
19
Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
- Số tiền bằng số và bằng chữ (Amount in figure…in words…)
- Mô tả những tính chất và đặc điểm của L/C sẽ áp dụng
- Những nội dung liên quan đến xấp dỡ hàng hoá
- Những nội dung về mô tả hàng hoá
- Điều kiện giao hàng
- Mô tả bao bì, đóng gói hàng hoá (Packing)
- Chứng từ phải xuất trình
b) Phần cam kết của đơn vị mở L/C
Phần này thể hiện cam kết của đơn vị yêu cầu mở L/C với ngân hàng
mở L/C. Phần này có những nội dung cơ bản sau:
- Cam kết về tư cách pháp nhân của đơn vị và thủ tục pháp lý về hàng
hoá nhập khẩu
- Cam kết về ký quỹ mở L/C
- Cam kết về việc thanh toán L/C khi người xuất khẩu xuất trình bộ
chứng từ hợp lệ
- Cam kết về những trường hợp miễn trách của ngân hàng trong khuôn
khổ cho phép của UCP
- Cam kết về việc mua bảo hiểm hàng hoá
- Cam kết về việc thanh toán phần chênh lệch giữa trị giá L/C và tiền ký

quỹ và cách thức giải quyết trong trường hợp nhà nhập khẩu không có khả
năng thanh toán phần chênh lệch này
- Cam kết liên đới trách nhiệm trong trường hợp đơn vị mở L/C uỷ thác
2.4.4. Đôn đốc bên bán giao hàng
Bên mua có quyền yêu cầu bên bán chuẩn bị đầy đủ hàng hoá cả về số
lượng và chất lượng khi gần đến thời hạn thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
2.4.5. Thuê phương tiện vận tải
Tuỳ theo từng điều kiện giao hàng trong hợp đồng nhập khẩu mà doanh
nghiệp có phải chịu cước phí vận tải chặng chính hay không. Nếu trong hợp
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc
20
Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
đồng có ghi điều kiện giao hàng là EXW, FAS, FCA, FOB thì doanh nghiệp
phải có nghĩa vụ thuê phương tiện vận tải và phải chịu mọi chi phí liên quan.
* Các phương thức vận tải
Trên thế giới hiện nay, hoạt động giao thương quốc tế thường sử dụng
phương thức vận tải bằng đường biển. Ngoài ra, còn có những phương thức
vận chuyển khác như: vận tải bằng đường bộ, vận tải đường hàng không, vân
tải đường sắt,…
* Những chứng từ có liên quan
Trong vận chuyển hàng hoá bằng đường biển, có rất nhiều chứng từ
được sử dụng và mỗi loại có công dụng khác nhau, nhưng nhìn chung chứng
từ thường dùng là:
− Vận đơn đường biển
− Biên lai thuyền phó
− Giấy gửi hàng đường biển
− Phiếu gửi hàng
Ngoài ra còn có những chứng từ khác trong vận chuyển hàng hoá bằng
đường biển: Biên bản lược khai hàng hoá, sơ đố xếp hàng,

2.4.6. Mua bảo hiểm cho hàng hoá
Trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng, nếu doanh nghiệp thoả
thuận phương thức giao nhận theo điều kiện EXW, FCA, FAS, FOB, CFR,
CPT thì doanh nghiệp phải có nhiệm vụ mua bảo hiểm cho hàng hoá.
Trong vận tải biển, hoạt động chuyên trở hàng hoá thường gặp rất nhiều
khó khăn do thiên tai vì vậy gây tổn thất cho các bên khi hàng hoá bị mất mát
hoặc hỏng hóc. Do vậy, điều kiện mua bảo hiểm cho hàng hoá luôn được thoả
thuận trong buổi đàm phán ký kết hợp đồng và bảo hiểm cho hàng hoá là biện
pháp tôt nhất để giảm thiểu rủi ro cho các bên.
Khi ký kết hợp đồng bảo hiểm cần nắm vững các điều kiện bảo hiểm:
- Bảo hiểm mọi rủi ro (điều kiện A)
- Bảo hiểm có bồi thường tổn thất riêng (điều kiện B)
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc
21
Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
- Bảo hiểm miễn bồi thường tổn thất riêng (điều kiện C)
2.4.7. Làm thủ tục hải quan
Hoạt động buôn bán quốc tế luôn có sự quản lý của cơ quan hải quan
nhằm tránh gian lận thương mại, ngăn chặn hàng nhập khẩu lậu và kém chất
lượng vào thị trường nội địa. Vì vậy, trước khi nhập hàng, chủ hàng phải làm
thủ tục hải quan.
Nghiệp vụ này gồm ba bước chủ yếu sau:
a) Khai báo hải quan:
Trong bước này, doanh nghiệp cần phải kê khai chi tiết hàng hoá lên tờ
khai hải quan . Nội dung tờ kê khai bao gồm:
- Tên hàng, loại hàng
- Số lượng, khối lượng
- Phương tiện vận tải
- Xuất hoặc nhập khẩu với nước nào

- Giá trị hàng hoá
b) Xuất trình hàng hoá:
Trong bước này, hải quan sẽ đối chiếu hàng hoá với tờ khai hải quan để
hoàn tất thủ tục hải quan và nộp thuế. Hoạt động này đòi hỏi sự chính xác, do
vậy chủ hàng cần sắp xếp hàng hoá theo trật tự để tạo điều kiện cho cán bộ hải
quan thực hiện nghiệp vụ kiểm tra hàng hoá.
c) Thực hiện các quy định của hảỉ quan
Sau khi tiến hành kiểm tra và đối chiếu hàng hoá, cơ quan hải quan sẽ
đưa ra những quyết định xem hàng hoá có được nhập khẩu hay xuất khẩu hay
không. Hải quan sẽ đưa ra các quyết định sau:
- Cho hàng thông quan
- Cho hàng qua biên giới khi chủ hàng đã nộp thuế nhập khẩu
- Cho hàng qua biên giới có điều kiện
- Không được phép nhập khẩu hay xuất khẩu
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc
22
Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
Chủ hàng cần thực hiện đúng những quyết định của cơ quan hải quan,
nếu vi phạm thì chủ hàng sẽ phải chịu trách nhiệm về việc truy tố hình sự.
2.4.8. Nhận hàng
a) Các hình thức giao nhận
Trong buôn bán hàng hoá quốc tế, các bên tham gia luôn muốn phân
chia quyền hạn, nghĩa vụ của mình trong quá trình thực hiện hợp đồng. Nhưng
để có thể thoả thuận mà hai bên đều đạt được lợi ích mong muốn thường rất
khó khăn, vì vậy các bên thường dựa vào các thông lệ quốc tế mà các bên
thoả thuận để lựa chọn, nhưng thường là INCOTERMS 2000.
Bảng 1 - Những điều kiện giao hàng trong Incoterms 2000
TT Điều kiện Nội dung Trách nhiệm
1

EXW
Giao hàng tại xưởng người
bán
Người mua chịu mọi chi phí liên
quan đến việc mua hàng.
2
FAS Giao hàng dọc mạn tàu Người bán không có nghĩa vụ thuê
phương tiện vận tải và trả cước phí
vận tải chặng chính
3
FOB Giao hàng lên tàu
4
FCA Giao hàng cho người vận tải
5
CPT Cước phí trả tới đích Người bán thuê phương tiện vận
tải và chịu cước phí vận tải chặng
chính, nhưng rủi ro được chuyển
sang người bán tại cảng di
6
CFR Tiền hàng và cước phí
7
CIF
Tiền hàng, phí bảo hiểm và
cước phí
8
CIP Cước phí và phí bảo hiểm

9
DES Giao hàng trên tàu tại cảng đến Người bán chịu mọi nghĩa vụ và
chi phí để đưa hàng đến nơi quy

định và giao hàng cho người mua.
Địa điểm chuyển rủi ro là nơi đến.

10
DAF Giao hàng trên biên giới
11
DEQ Giao trên cầu cảng ở cảng đến
12
DDU Giao hàng tới đích chưa thuế
13
DDP Giao hàng tới đích có thuế
Nguồn: Giáo trình Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương – NXB Thống kê
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc
23
Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
b) Tiếp nhận hàng tại cảng đến
Hải quan sẽ thông báo cho nhà nhập khẩu để họ chuẩn bị giấy tờ cần
thiết làm thủ tục nhận hàng tại cảng khi hàng cập cảng như:

đơn thông báo
hàng hoá, vận đơn,
Theo Nghị định NĐ 200/CP ngày 31/12/1973, các cơ quan vận tải(ga,
cảng) có trách nhiệm tiếp nhận hàng hoá nhập khẩu trên các phương tiện vận
tải từ nước ngoài vào, bảo quản hàng hoá đó trong quá trình xếp dỡ, lưu kho
và giao cho bên đặt hàng theo lệnh giao hàng. Do vậy, doanh nghiệp nhập
khẩu cẩn phải:
- Ký kết hợp đồng uỷ thác cho cơ quan vân tải (ga, cảng) về việc nhận
hàng
- Xác nhận với cơ quan vận tải kế hoạch tiếp nhận hàng

- Thông báo cho các đơn vị đặt hàng nhập khẩu trong nước dự kiến
ngày hàng về
- Thanh toán chi phí cho cơ quan vận tải
- Theo dõi việc giao nhận hàng, đon đốc cơ quan vận tải lập biên bản về
hàng hóa và giải quyết trong phạm vi của mình với những vi phạm xảy ra
trong quá trình giao nhận.
2.4.9. Kiểm tra hàng hoá
Để đảm bảo hàng hoá nhập khẩu đúng theo mẫu đã ký kết trong hợp
đồng và tránh tình trạng hàng hoá bị hỏng hóc hay mất mát. Chủ hàng cần kết
hợp với cơ quan hải quan tiến hành hoạt động kiểm tra hàng hoá. Thông qua
hoạt động này, chủ hàng có thể phát hiện kịp thời những hàng hoá không đạt
tiêu chuẩn và trên cơ sở đó có thể đòi bồi thường từ phía nhà xuất khẩu.
2.4.10.Giao hàng cho đơn vị đặt hàng
Với những hàng hoá đã làm xong thủ tục hải quan và đã được kiểm
định về chất lượng, chủ hàng sẽ trực tiếp nhạn hàng hoá đó từ cơ quan hải
quan và thuê phương tiện vận tải chuyên trở hàng hoá về kho. Với những
hàng hoá không đúng quy cách sẽ không được thông quan, và dựa vào biên
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc
24
Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
bản giám định hàng hoá do nhân viên giám định ghi lại để đòi bồi thường(nếu
những nguyên nhân gây thiệt hại cho hàng hoá do bên xuất khẩu vi phạm).
2.4.11. Làm thủ tục thanh toán
Sau khi nhận hàng, doanh nghiệp sẽ thực hiện thủ tục thanh toán tiền
hàng cho bên xuất khẩu. Chủ hàng dựa vào phương thức thanh toán mà hai
bên đã thoả thuận khi ký kết hợp đồng.
* Các phương thức thanh toán chủ yếu
− Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ(L/C): Người mua yêu cầu
ngân hàng mở L/C đảm bảo xuất tiền cho bên bán trong một thời hạn nhất

định nếu bên bán xuất trình bộ chứng từ với nội dung đã ghi trong thư tín
dụng. Hình thức này đảm bảo an toàn, tiện lợi cho cả bên mua và bên bán.
− Phương thức thanh toán nhờ thu: Người bán sau khi hoàn thành nghĩa
vụ giao hàng sẽ lập hối phiếu gửi đến ngân hàng nhờ thu hộ số tiền ghi trên
hối phiếu từ người mua. Có hai hình thức nhờ thu là nhờ thu phiếu trơn và
nhờ thu kèm chứng từ.
− Phương thức thanh toán chuyển tiển(Tranfers): Người mua thanh
toán cho người bán bằng cách gửi cho người bán thư chuyển tiền hay điện
chuyển tiền.
− Phương thức thanh toán ghi sổ(Open account): Người bán sau khi
giao hàng cho người mua sẽ mở tài khoản ghi rõ tổng số tiền trị giá hợp đồng.
Người mua chịu trách nhiệm thanh toán số tiền đó trong một thời hạn nhất
định.
− Phương thức thanh toán trả tiền mặt(Cash payment): Là phương thức
dùng tiền mặt để thanh toán tiền mua hàng. Người mua trả tiền cho người bán
và hoàn thành nghĩa vụ của mình.
Trong những phương thức trên, phương thức thanh toán tín dụng chứng
từ được sử dụng phổ biến nhất trong buôn bán quốc tế vì lợi ích nó đem lại
cho cả bên bán và bên mua.
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc
25
Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
Khi tiến hành thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ, nhà nhập
khẩu sẽ thanh toán tiền hàng cho ngân hàng khi nhận được bộ chứng từ hợp lệ
về hàng hoá nhập khẩu do nhà xuất khẩu lập. Bộ chứng từ bao gồm: hoá đơn
thương mại (Commercial Invoice); vận đơn (Bill of Lading); bảng kê bao bì
đóng gói (packing list); giấy chứng nhận xuất xử (certificate of origin);Giấy
chứng nhận số lượng/chất lượng (Certificate of Quality/Quantity); chứng nhận
bảo hiểm (certificate of insurance).

Sau khi tiến hành thủ tục mở L/C, nhà nhập khẩu sẽ ký hậu vào vận đơn
khi ngân hàng thông báo đã nhận được bộ chứng từ. Ngân hàng sẽ kiểm tra tài
khoản của nhà nhập khẩu, nếu tài khoản đảm bảo khả năng thanh toán, ngân
hàng sẽ tiến hàng giao bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu kiểm tra xem có hợp lệ
hay không, nếu có nhà nhập khẩu sẽ kí hối phiếu thanh toán cho ngân hàng.
* Những chứng từ chủ yếu trong thanh toán
− Bảng kê chi tiết: là chứng từ kê khai chi tiết số lượng hàng hoá trong
lô hàng.
− Hoá đơn thương mại: là chứng từ quan trọng trong khâu thanh toán.
Nó là yêu cầu của người bán đòi người mua hoàn thành nghĩa vụ thanh toán
của mình.
Ngoải ra còn có một số chứng từ khác như: phiếu đóng gói hàng, giấy
chứng nhận chất lượng, giấy chứng nhận số lượng,…
Sau khi thanh toán, nhà nhập khẩu sẽ tiến hành thanh lý hợp đồng.
Thanh ký hợp đồng sẽ kết thực mọi ràng buộc về trách nhiệm giữa hai bên.
Hợp đồng nhập khẩu sẽ hết hiệu lực từ lúc thanh lý hợp đồng.
2.4.12. Khiếu nại về hàng hoá (nếu có)
Trong quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nhà nhập khẩu có quyền
khiếu nại và đòi bồi thường từ nhà xuất khẩu khi những vi phạm của bên bán
gây thiệt hại tổn thất cho bên mua. Nhà nhập khẩu sẽ căn cứ vào hợp đồng về
kết quả thực hiện hợp đồng đề khiếu nại.

×