Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa
Năm học: 2018-2019
ĐẤT NƯỚC (Nguyễn Khoa Điềm)
(Trích trường ca Mặt đường khát vọng)
1.
Báo Tiền Phong:
Xúc động thực sự trước khí thế sơi sục, quyết liệt của tuổi trẻ trong phong trào đấu tranh vì hịa
bình ở các đô thị miền Nam, Nguyễn Khoa Điềm đã viết Mặt đường khát vọng khá nhanh, và khá bất
ngờ. Khá nhanh vì trường ca được hồn thành trong thời gian một tháng, tại một trại sáng tác do Khu
ủy Trị Thiên tổ chức vào tháng 12/1971.
Khá bất ngờ vì đây là tác phẩm viết theo đơn đặt hàng, loại sản phẩm mà cho đến bây giờ vẫn có
rất nhiều người “kỵ rơ”, “dị ứng”. Ông kể, ngày đầu nhập trại sáng tác, nhạc sĩ Trần Hoàn hỏi: Điềm sẽ
viết gì. Ơng trả lời: Tơi sẽ tiếp tục làm một số bài thơ. Nhạc sĩ Trần Hồn bảo: Khơng được, lần này phải
viết cái gì thật dài hơi, viết thật hào sảng...
Trong một bài trả lời phỏng vấn trên báo Tiền Phong nhà thơ Hải Như cho rằng: “Nhà thơ phải tự
đặt hàng cho chính mình”. Nhưng từ Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm thì viết theo đơn đặt
hàng cũng khơng có điều gì “phản cảm”. Vấn đề cốt tử là người đặt hàng phải biết chọn mặt gửi vàng,
phải giao đúng người, đúng việc. Về phía người nhận đặt hàng cũng phải biết mình biết ta, chỉ được
phép nhận những phần việc đúng năng lực, sở trường. Đặt hàng và nhận đặt hàng đúng nghĩa mới có
những cơng trình, tác phẩm lớn.
Trở lại câu chuyện ở trại sáng tác, Nguyễn Khoa Điềm đã quyết định viết trường ca. Ơng kể, là
sinh viên từ miền Bắc vào, tơi rất thích nhạc giao hưởng. Kết cấu giao hưởng có nhiều trường đoạn,
nhiều giọng điệu, có đoạn đằm thắm nhẹ nhàng, có đoạn suy tư, có đoạn cao trào gay gắt, sơi nổi. Lúc
đó tơi nghĩ mình sẽ viết một bản giao hưởng bằng ngôn ngữ. Và tôi đã đi theo hướng đó.
Trong Mặt đường khát vọng, khơng chỉ đại đa số độc giả mà chính tác giả cũng tâm đắc nhất với
chương Đất nước. Với lối viết rất riêng, không đao to búa lớn, và không bắt đầu từ những anh hùng dân
tộc như Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo... tác giả thủ thỉ kể về mình và về người
bạn gái đang dấn thân trong cuộc đấu tranh, về những con người rất bình dị nhưng đều có những cống
hiến cho đất nước với thái độ vô cùng yêu thương, trân trọng những con người “làm nên đất nước
mn đời”.
Ơng kể, ngày đầu nhập trại sáng tác nhạc sĩ Trần Hoàn hỏi: Điềm sẽ viết gì. Ơng trả lời: Tơi
sẽ tiếp tục làm một số bài thơ. Nhạc sĩ Trần Hồn bảo: Khơng được, lần này phải viết cái gì thật
dài hơi, viết thật hào sảng...
Đất nước là chủ đề thiêng liêng trong các tác phẩm văn học nghệ thuật xuyên suốt các cuộc kháng
chiến chống ngoại xâm. Nguyễn Khoa Điềm đã có cái nhìn khác về đất nước và nhân dân với cách thể
hiện cũng rất riêng của mình. Rất khiêm tốn, Nguyễn Khoa Điềm cho đó là một may mắn của sự lựa
chọn khi hướng dòng cảm xúc yêu thương đến những con người rất đỗi bình thường. Theo tơi, phải nói
thêm đó là sự tìm tịi, là cái nhìn mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước ở thời điểm ấy, thời hoa
lửa.
Khi cuộc kháng chiến nói chung và phong trào đấu tranh ở đơ thị nói riêng đang vào hồi cao trào
với những phong trào “hát cho dân tôi nghe”, những lời hiệu triệu “dậy mà đi”... thì Nguyễn Khoa Điềm
trong Mặt đường khát vọng không nặng nề màu sắc tuyên truyền, cũng không ồn ào, không rực cháy
lửa tranh đấu, không “hừng hực lửa căm hờn” mà ngôn từ êm dịu kiểu như “biển ồn ào mà em lại dịu
êm” của Trần Đăng Khoa. Nguyễn Khoa Điềm đã “khơi sáng thêm ngọn đuốc thiêng từ bao đời” bằng
cách của mình. Ơng kể: Bản thảo đầu tiên chương kết có tựa đề Mùa thu tựu trường, viết theo thể thơ
ngũ ngơn, giai điệu êm dịu, hình ảnh đẹp, nói về những người bạn trẻ sau khi đấu tranh giành thắng
lợi trở lại mái trường. Nhưng nhiều người góp ý rằng phần này “thiếu lửa”, phải mạnh mẽ lên, nên ông
đã thay bằng chương khác.
Nguyễn Khoa Điềm đã rất thành công với giọng thơ vừa chính luận vừa trữ tình khi chia sẻ những
tâm tư của mình với thế hệ trẻ ở đô thị miền Nam, với một thế hệ học sinh sinh viên khơng thể ngồi
TƠN NGỌC MINH QN
1
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa
Năm học: 2018-2019
yên trên giảng đường, như chính bản thân ơng tốt nghiệp đại học sư phạm Hà Nội nhưng chưa một
ngày bước lên bục giảng mà đã vượt Trường Sơn trở về miền Nam quê hương. Vì thế Mặt đường khát
vọng mãi mãi là trường ca đi cùng năm tháng, độc giả từ hai phía đều dễ nghe, dễ thấm, dễ cảm, dễ
đồng tình với lời kêu gọi của tác giả về trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đất nước:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước mn đời…
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở là trách nhiệm cơng dân, là thông điệp của mọi thời đại.
2.
Chất liệu văn học dân gian:
Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ
cứu nước. Thơ ơng có sức hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng về đất nước,
về con người Việt Nam. Trong quá trình cầm bút của mình, Nguyễn Khoa Điềm đã đóng góp cho nền thơ
ca nước nhà nhiều tác phẩm có giá trị về nội dung cũng như về nghệ thuật. Đáng kể nhất là trường ca
Mặt đường khát vọng, nhà thơ hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên, năm 1971, in lần đầu năm 1974, tác
phẩm nhằm thức tỉnh tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam, xuống đường đấu tranh giải phóng đất
nước. Và đoạn trích Đất Nước- phần đầu chương V của bản trường ca, được xem là một trong những
đoạn thơ hay về chủ đề đất nước.
Thành cơng của Nguyễn Khoa Điềm qua đoạn trích Đất Nước, một phần là ở việc tạo ra một
không khí, một giọng điệu, một khơng gian nghệ thuật riêng đưa người đọc vào thế giới gần gũi, mỹ lệ
của thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, ca dao, của phong tục tập quán nhưng lại mới mẻ qua cách
cảm nhận, tư duy hiện đại với hình thức câu thơ tự do, lời thơ như lời văn xuôi, lời kể chuyện cổ tích. Đó
chính là nét đặc sắc thẩm mỹ, thống nhất với tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao
thần thoại" của đoạn trích. Trong đó chất liệu văn hố, văn học dân gian được sử dụng rất đa dạng và
đầy sáng tạo: Có thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ca dao, dân ca, tục ngữ. Có phong tục, lối sống, tập
quán sinh hoạt, vật dụng quen thuộc như miếng trầu, tóc bới sau đầu, cái kèo, cái cột, hạt gạo xay, giã,
giần, sàng, hòn than, con cúi...Cách vận dụng của tác giả thường là chỉ gợi ra bằng một vài chữ của câu
ca dao hay một hình ảnh, một chi tiết trong truyền thuyết, cổ tích.
Vì vậy nếu làm phép hệ thống, ta sẽ thấy Nguyễn Khoa Điềm sử dụng rất nhiều chất liệu của
ca dao, tục ngữ, ngạn ngữ dân gian, các truyền thuyết và cổ tích, các phong tục, tập quán...trong đoạn
trích Đất Nước. Trong đó đáng chú ý nhất:
A. Chất liệu văn hố dân gian trong đoạn trích Đất Nước gắn với ca dao, tục ngữ, ngạn ngữ
của văn học dân gian
Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng một cách sáng tạo đã tạo nên một không
gian nghệ thuật riêng cho đoạn trích, vừa bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa giàu tưởng tượng, bay bổng.
Hơn nữa, có thể nói chất liệu dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của Nguyễn Khoa Điềm, tạo
nên một đặc điểm trong tư duy nghệ thuật của ơng trong đoạn thơ. Chỉ nói đến cách sử dụng ca dao, tục
ngữ, ngạn ngữ, ta cũng thấy sự tinh tế của tác giả trong cách biểu đạt rất riêng, rất độc đáo.
Khi nhà thơ triết lý về cội nguồn sinh ra đất nước cũng là cội nguồn của mỗi gia
đình nên Đất Nước khơng chỉ tạo bỡi những gì trừu tượng, xa xơi mà được hình thành, tạo bỡi từ
tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ qua câu thơ :
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Thì đây là ý thơ cho ta thấy tác giả gợi tả từ cái gốc của chất liệu dân gian, đó là từ trong câu ngạn
ngữ dân gian “Gừng cay muối mặn”, chỉ những cay đắng gian nan đã gắn bó tình nghĩa vợ chồng. Và
thói quen tâm lí, tình cảm này cũng làm cho ta gợi nhớ đến câu ca dao hết sức trìu mến:
Tay bưng chén muối đãi gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
TÔN NGỌC MINH QUÂN
2
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa
Năm học: 2018-2019
Và khi nói về tình u đơi lứa, câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm cũng hết sức mượt mà, đất nước gắn
bó với con người trọn đời: từ thuở ấu thơ đến lúc thưởng thành và biết yêu thương, hẹn hò, nhớ nhung
lại gắn với hình ảnh Đất Nước:
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Khi xúc cảm nên dòng thơ này, nhà thơ như nhằm muốn tâm sự, trong tình u đơi lứa, trong nỗi
nhớ nhung da diết của em đã hiện hữu tình Đất Nước. Và đó là nỗi nhớ khơng định hình được mà câu
ca dao tình yêu quen thuộc cất lên rất gần gũi và hết đỗi đời thường:
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Và khi Nguyễn Khoa Điềm nhằm giải bày Đất Nước trải ra theo chiều dài, chiều rộng của không
gian nhưng không gian ấy thật gần gũi, là nơi con chim bay về, nơi con cá móng nước:
Đất là nơi “con chim phượng hồng bay về hịn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ơng móng nước biển khơi”
Thì đó là một ý thơ có thể nhận thấy, nhà thơ lấy cảm hứng trọn vẹn từ câu hị Bình- Trị- Thiên
quen thuộc, bỡi vì nhà thơ được sinh ra và trưởng thành trên vùng đất giàu giá trị văn hóa, thơ Nguyễn
Khoa Điềm thấm đẫm hồn Huế, chính vì thấm nhuần nền văn hóa dân gian nơi chơn nhau cắt rốn nên
khi khái quát về Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm cũng đã nghĩ ngay đến câu ca dao bình dân của q
hương, xứ sở mình:
Con chim phượng hồng bay ngang hịn núi bạc
Con cá ngư ơng móng nước ngồi khơi
Gặp nhau đây xin phân tỏ đôi lời
Kẻo mai kia con cá về sông vịnh, con chim nọ đổi dời về non xanh
Tự hào về một đất nước có bề dày lịch sử bốn nghìn năm, nên nhà thơ đã hướng về một yếu tố
mang tính tâm linh nhưng hết sức truyền thống của người Việt. Bỡi chính nhân dân là những người đã
làm nên cái hồn văn hố và đạo lí truyền thống cao cả cho đất nước, nên nhà thơ tâm sự:
Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Trong mỗi chúng ta đều biết cội nguồn dân tộc, gốc gác tổ tiên luôn nhắc nhở mọi người Việt rằng:
bái vọng tổ tiên, yêu quê cha đất tổ, chính là những yếu tố góp phần làm nên truyền thống yêu nước
của người Việt Nam. Vì thế, bái vọng tổ tiên là điều không thể thiếu, thể hiện sự tôn trọng đầy thiêng
liêng của người sống đối với người đã khuất. Đây cũng là ý thơ mà trong ca dao đã từng nhắc nhở:
Dù ai đi ngược về xi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba
Có thể nói trong kho tàng ca dao dân ca Việt Nam vô cùng phong phú và đa dạng màu sắc của dân
tộc, và nhà thơ đã chọn lọc từ những câu ca dao tiêu biểu nhất để nói về các phương diện truyền thống
khác nhau của nhân dân. Trong đó câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã nhằm diễn tả sự say đắm trong
tình yêu nhân văn, nhân bản và cao đẹp nhất:
Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
Là ý tứ từ câu ca dao đầy ngọt ngào, trìu mến, bình dị và hết sức thân quen, nó thường trực hằng
ngày mà trong những đôi nam nữ, trai gái u nhau khơng khó để nhận ra:
u em từ thuở trong nơi
Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru
Có lúc câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm là nhằm nói đến sự quý trọng trong lối sống tình nghĩa, biết
nâng niu, trân trọng những gì có được từ khó nhọc, gian nan:
Biết q cơng cầm vàng những ngày lặn lội
Thì đâu đó phản phất trong ca dao cũng đã đúc kết và nhắc nhở mọi người rằng:
Cầm vàng mà lội qua sơng
TƠN NGỌC MINH QN
3
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa
Năm học: 2018-2019
Vàng rơi không tiếc, tiếc cơng cầm vàng
Ngồi ra, câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm cũng nói đến một phẩm chất nữa của nhân dân Việt Nam
là bền bỉ kiên cường trong chiến đấu dựng và giữ nước, vì đất nước là của nhân dân, do nhân dân làm
nên, nên đất nước mãi mãi trường tồn, bất diệt:
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Điều này cũng có nghĩa là trong ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ đã luyến láy, cảm hứng xuất
phát từ cái gốc của câu ca dao đầy hùng hồn và đanh thép:
Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh q
Có thể thấy ở tất cả những dịng thơ trên của Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ đã vận dụng và chuyển
ý sáng tạo những câu ca dao, ngạn ngữ thành lời thơ đằm thắm, trữ tình, thiết tha của mình, khơng ngồi
mục đích là ca ngợi nhân dân, ca ngợi bản sắc văn hoá của người Việt Nam.
B. Chất liệu văn hố dân gian trong Đất Nước cịn gắn với những thần thoại, truyền thuyết và
truyện cổ tích…
Đặc sắc, độc đáo về nghệ thuật của đoạn trích Đất Nước là sự cảm nhận về đất nước trong một cái
nhìn tồn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện. Vừa theo mạch cảm xúc thơ, tác giả vừa huy động vào thơ
cả một “kho tri thức” phong phú mang tính tổng thể các loại văn học dân gian, đã làm nền tảng vững
chắc để làm nổi bật tư tưởng của đoạn trích. Trong lời mở đầu đoạn trích Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm
có dịng thơ:
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Lời thơ “ngày xửa ngày xưa” là câu mở đầu thường thấy trong các truyện cổ dân gian, nó
mang âm hưởng của những câu chuyện cổ tích, đưa ta về một thuở rất xa xưa.
Sự kì diệu của đất nước trong chống giặc ngoại xâm cũng được nhà thơ gợi lên từ tinh thần nhổ tre
đánh giặc Ân thuở nào của Thánh Gióng mà truyền thuyết đã kể lại. Và những hình tượng quen thuộc
trong thần thoại, truyền thuyết như “chim, rồng, Lạc Long Quân, Âu Cơ, bọc trăm trứng… ” cùng hội tụ
trong trường liên tưởng của nhà thơ đã làm nổi bật ý thơ có tầm khái quát cao: dân tộc ta là “con rồng
cháu tiên”, cùng được sinh ra từ bọc trăm trứng nở ra trăm con của cha là Lạc Long Quân và mẹ Âu
Cơ. Vì vậy để gợi nhớ truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên, Nguyễn Khoa Điềm lại liên tưởng ngay rằng:
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Nếu trong mỗi chúng ta, ai đó một khi chưa hiểu hết về đất nước với những khái niệm trừu tượng
như lãnh thổ, chủ quyền, thì chúng ta sẽ cảm nhận được đất nước là một cái gì đó rất gần gũi, quen thuộc
qua những câu chuyện thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích mẹ thường kể từ thuở cịn nằm trong
nơi.
3. Chất liệu văn hố dân gian còn gắn với phong tục tập quán của người Việt Nam
Đất nước cịn được hình thành từ những truyền thống cao đẹp như truyền thống yêu nước, anh
hùng, lao động, văn hóa. Trước hết là truyền thống văn hóa với phong tục ngàn đời của cha ơng ta đúc
kết lại. Vì thế, khi Nguyễn Khoa Điềm tâm sự:
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đó là phong tục “miếng trầu là đầu câu chuyện” có từ thuở các vua Hùng dựng nước. Hay gợi nhớ
câu chuyện “Trầu cau” đầy nghĩa tình vừa mang yếu tố truyền thuyết lại vừa đậm yếu tố đời thường
cũng là gợi nhớ tục ăn trầu của người Việt.
Hay khi nhà thơ miêu tả cái dáng dấp thấp thoáng của người mẹ hiện lên trong vẻ đẹp đầy
nữ tính của người phụ nữ Việt Nam, nhà thơ đã viết:
TÔN NGỌC MINH QUÂN
4
Trường THPT chun Trần Đại Nghĩa
Năm học: 2018-2019
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Tục búi tóc thành cuộn sau gáy của người dân Việt, đó là tập quán thể hiện quan niệm “cái
răng cái tóc là góc con người” của người Việt cổ xưa mà đã một thời tô điểm vẻ đẹp bên ngoài của người
phụ nữ Việt Nam.
Nhà thơ đã đưa đến cho người đọc quan niệm hình thành đất nước, đất nước chúng ta được hình
thành từ trong cộng đồng của những người có chung kiểu ngơn ngữ nơm na dễ hiểu như thói quen đặt
tên con bằng tên các đồ vật cho dễ nuôi của người dân lao động nước ta:
Cái kèo, cái cột thành tên
Với miếng trầu dung dị hiện lên trên cái miệng móm mém nhai trầu của bà, mái tóc bới hiền hịa
của mẹ, cách gọi tên “cái kèo, cái cột” dân dã. Tất cả những điều tưởng chừng như bình thường ấy đã trở
thành nếp sống, thành phẩm chất tốt đẹp, thành thuần phong mĩ tục đậm đà bản sắc mang tính văn hố
Việt Nam.
Có thể nói từ những hệ thống như trên, chúng ta thấy Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng chất liệu văn
hố, văn học dân gian một cách sáng tạo. Khơng trích dẫn nguyên văn câu ca dao, tục ngữ, dân ca, khơng
kể dài dịng các truyền thuyết, truyện cổ tích, các phong tục tập quán, mà nhà thơ chỉ bắt lấy rất tinh tế
cái hồn của chất liệu dân gian để gợi liên tưởng, gợi suy ngẫm cho người đọc. Cho nên khi tiếp xúc tạo
cho người đọc cảm giác vừa quen vừa lạ. Cảm giác “quen” vì từ thuở ấu thơ mỗi người trong chúng ta,
ai cũng đã sống trong khơng khí văn hố dân gian, cho nên trong mỗi người Việt Nam hết sức nhạy cảm
với ca dao dân ca, cổ tích, truyền thuyết hay các phong tục tập quán…Chỉ cần một lay động nhỏ, là tâm
hồn người Việt Nam đã rung lên bao hồi ức. Còn cảm giác “lạ” là khi đọc những dòng thơ này là do từ
những chất liệu văn hoá, văn học dân gian rất gần gũi ấy, nhà thơ đã thu nạp được nhiều ý tưởng rất
thơ, rất êm dịu và cũng rất bất ngờ đem lại sức hấp dẫn cho đoạn thơ.
Đến đây ta có thể nhận ra rằng: vẻ đẹp của chất liệu văn hố dân gian là vơ cùng quan trọng đối
với văn học viết nói riêng và văn học nghệ thuật nói chung. Và cũng chính những chất liệu văn hóa ấy
khi được cảm nhận sâu sắc và vận dụng sáng tạo vào thơ sẽ tạo nên những khoảng âm vang rất lớn để
thơ ca trường tồn và song hành cùng thời gian, chính chiều sâu của những chất liệu văn hóa dân gian
đã tạo nên nét độc đáo riêng của đoạn trích Đất Nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
3. Văn nghệ Công an:
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm kể về hoàn cảnh ra đời trường ca Mặt đường khát vọng, và những nhận
thức của ông khi viết Đất nước, một chương nổi bật trong trường ca này.
Đầu năm 1971, phong trào học sinh, sinh viên trong các đô thị miền nam đang rất sôi nổi. Tinh thần
yêu nước cháy bùng ở khắp nơi. Tôi công tác trong Thành ủy Huế, ở trên rừng, phụ trách phong trào học
sinh, sinh viên Huế. Đột nhiên có giấy mời của Cơ quan Văn nghệ Khu Trị - Thiên đi dự trại sáng tác. Tôi,
anh Nguyễn Quang Hà, anh Nguyễn Đắc Xuân... đi mất ba ngày lên phía tây Huế, vượt A Lưới sang đất
Lào dự trại.
Tơi khơng chuẩn bị gì trước, nhưng trại mở những một tháng, không lẽ lại không viết gì. Tơi quyết
định phải viết một cái gì dài hơi. Lúc đó, nhiều nhà thơ đã viết trường ca, ở miền nam trường ca Bài ca
chim ChRao của anh Thu Bồn đang rất nổi tiếng và được thanh niên đô thị thuộc rất nhiều. Tôi lựa chọn
viết trường ca, cấu tứ theo từng mảng, như thế vừa dễ triển khai cảm xúc, vừa dễ sử dụng chất liệu.
Thời ấy, là sinh viên từ miền bắc vào, tơi rất thích nhạc giao hưởng, đặc biệt là kết cấu giao hưởng,
nó nhiều giọng điệu, có đoạn đằm thắm nhẹ nhàng, có đoạn suy tư, có đoạn cao trào gay gắt, sơi nổi. Tôi
nghĩ tôi sẽ viết một bản giao hưởng bằng ngôn ngữ. Thế là tôi bắt tay vào viết.
Trong các chương, chương cuối cùng có tựa đề Mùa thu tựu trường là tơi thích nhất. Đó là chương
được viết theo thể thơ năm chữ cái, giai điệu êm dịu, hình ảnh đẹp, nói về những người trẻ tuổi sau khi
đấu tranh giành thắng lợi trở lại mái trường. Nhưng khi bản thảo tập hợp lại, nhiều anh em góp ý rằng
phần này mềm yếu quá nên tôi thay bằng chương khác. Về sau chương này bị thất lạc do bom đạn, nên
tơi rất tiếc.
TƠN NGỌC MINH QN
5
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa
Năm học: 2018-2019
Mặt đường khát vọng được kết cấu theo từng mảng, mảng này khơi gợi, dẫn dắt cho mảng kia, tạo
thành một chỉnh thể tác phẩm trong một trường cảm xúc nhưng từng mảng lại đi sâu vào một vấn đề,
một ý tưởng do đó nó cũng có tính trọn vẹn riêng.
Chương V - chương Đất nước là một chương lớn. Tôi viết chương này trong những ngày mưa triền
miên sau Tết. Đó là thời kỳ máy bay Mỹ đánh phá dữ dội. B52 giội bom liên tục, làm cho mọi thứ tối tăm
mù mịt. Chúng tôi ngồi trong hầm và viết, cảm xúc được cộng hưởng bởi tiếng bom nổ, bởi khói bom và
mưa rừng. Có khi viết xong, một trận bom làm cho bản thảo bay lung tung, lượm lại trang còn trang mất,
lại ngồi viết tiếp. Tôi viết rất nhanh, như cảm xúc đã dồn tụ một cách mãnh liệt, giờ chỉ việc tuôn chảy
ra thôi. Tôi viết về những điều giản dị của chính tơi, về tuổi trẻ và các bạn bè đang tranh đấu ở trong
thành phố, nên nhân vật của tơi là anh và em. Đó là lời đằm thắm của một người con trai với một người
con gái.
Chúng tơi, mỗi người có một số phận khác nhau, nhưng đều gắn kết trong một số phận chung là số
phận Đất nước. Đất nước với các nhà thơ khác là của những huyền thoại, của những anh hùng, nhưng
với tôi là của những con người vô danh, của nhân dân.
Đất nước là một giá trị lâu bền, vĩnh hằng; đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ,
được truyền nối từ đời này sang đời khác. Cho nên "khi ta lớn lên đất nước đã có rồi!".
Đất nước vừa là một ý niệm thiêng liêng vừa là một hiện hữu, cụ thể, rõ ràng, thân thuộc. Tơi cố
gắng thể hiện một hình ảnh Đất nước giản dị gần gũi nhất. Đó là cách để đi vào lịng người, mà khơng
lặp lại người khác, vì trước tơi cũng như bấy giờ, có rất nhiều người đã viết rất hay về Đất nước. Tôi nghĩ
mỗi cá nhân sinh ra, ý niệm về Đất nước đã được thấm đẫm qua mơi trường gia đình, qua thế giới tinh
thần và cả vật chất mà người đó sống.
Đứa trẻ cảm nhận Đất nước qua lời ru của mẹ, câu chuyện kể của bà:
Đất nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa" mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước gắn bó trong những vật thân thuộc "cái kèo cái cột thành tên", trong hạt gạo ăn hằng ngày
"một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng...". Ông bà, cha mẹ, những thế hệ đi trước sẽ truyền ý niệm về
Đất nước cho con trẻ, rồi đứa trẻ lớn lên, trong những tình cảm ban đầu về gia đình, chịm xóm, về
cánh đồng, lũy tre... thì tình yêu Đất nước cũng đã bắt đầu ở đó rồi. Nghĩa là ý niệm về Đất nước sẽ
cùng hình thành với sự hình thành của tâm hồn con người. Với năm tháng, khi tâm hồn ta lớn lên, ý
niệm Đất nước sẽ có thêm những nét nghĩa mới.
Thực ra "Đất nước" là một từ được ghép từ hai yếu tố chỉ vật chất là đất và nước, là hai yếu tố
khởi nguyên của thế giới, để tạo thành một khái niệm chỉ Giang sơn Tổ quốc. Đất nước gắn bó máu thịt
với mỗi người, rất cụ thể:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất là nơi "con chim phượng hồng
bay về hịn núi bạc"
Nước là nơi "con cá ngư ơng móng nước biển khơi"...
Ở đâu trên Đất nước cũng gắn với những chuyện kể, những truyền thuyết, những câu ca đã đi vào
thế giới tinh thần của con người. Đất nước, cái hiện hữu đã trở thành giá trị tinh thần mà trong đời
sống tâm hồn của mỗi con người nó lấp lánh rất nhiều ý nghĩa.
Truyền thuyết Tiên - Rồng, Âu Cơ - Lạc Long Quân là truyền thuyết về cội nguồn của người Việt.
Trong truyền thuyết này cũng như trong lịch sử phát triển về sau, mở mang và đoàn tụ đã làm nên nét
đặc trưng của dân tộc Việt, từ thế hệ này sang thế hệ khác:
Thời gian đằng đẵng
Khơng gian mênh mơng
TƠN NGỌC MINH QUÂN
6
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa
Năm học: 2018-2019
Mỗi người dân Việt, bằng máu xương, mồ hơi cơng sức của mình, đã chiến đấu và lao động để mở
mang và hoàn thiện Đất nước, để truyền cho con cháu một Đất nước trọn vẹn. Đất nước khơng phải chỉ
ở những gì được thừa hưởng có thể nhìn thấy được, Đất nước còn ở trong chiều sâu tâm linh được
truyền nối, xuyên suốt qua nhiều thế hệ:
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại...
Phần tâm linh đó đã kết nối tất cả nhân dân về trong một cội nguồn, trong sự thiêng liêng thành
kính về một ngày giỗ Tổ.
Em ơi Đất nước là máu xương mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất nước muôn đời
Đoạn thơ này lấy cảm hứng từ những núi Vọng Phu, những hòn Trống Mái, những ao đầm ở đồng
bằng Bắc Bộ, đến cửa biển Cửu Long ở Nam Bộ... Những yếu tố vật chất, địa lý thấm đẫm một cái nhìn
huyền thoại, đầy mầu sắc lãng mạn. Nói cách khác là khốc cho nó một lớp huyền tích, là điều thường
gặp trong đời sống văn hóa dân gian. Chính điều này đã làm cho các giá trị vật chất trở nên đẹp đẽ, sinh
động, có sức hấp dẫn, quyến rũ đặc biệt.
Trong chương Đất nước cũng như toàn bộ trường ca Mặt đường khát vọng, ngôn ngữ ca dao tục
ngữ, ngôn ngữ của đời sống dân gian được sử dụng rất nhiều. Tác phẩm được cảm nhận trong trường
cảm xúc, trong những suy tư, ngẫm nghĩ. Ở đoạn thơ này, đã nhấn mạnh Đất nước chính là thành quả
của lao động, của chiến đấu, của mồ hôi nước mắt và khát vọng của nhiều thế hệ nhân dân trong nhiều
nghìn năm.
Mỗi con người sinh ra và lớn lên trong một đất nước, luôn luôn trong tinh thần họ đã chứa đựng
những giá trị của Đất nước, của dân tộc, mà họ đại diện. Là người Việt Nam, chúng ta tự hào về lịch sử
bốn nghìn năm của Đất nước mình. Đó là một lịch sử với những chiến công lẫy lừng khai thiên phá địa
và chống giặc ngoại xâm. Nhưng làm nên những chiến công đó lại là "người người lớp lớp" nhân dân,
những người con trai, con gái bình thường:
Con gái con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Từ nhiều triệu năm về trước, trong buổi sơ khai của con người, lửa là một cứu tinh, là nhân tố
đưa loài người vượt hẳn đến một giá trị khác tách xa loài vật. Khi phát hiện ra cây lúa nước, với người
Á Đông, lửa và lúa là những thứ tối cần thiết cho sự sống. Bởi vậy gìn giữ ngọn lửa và giống lúa, chính
là gìn giữ sự sống cịn của cộng đồng. Ngỡ đơn giản, nhưng trong lịch sử nó phản ánh cuộc chiến đấu
sinh tồn giữa con người và thiên nhiên. Nhưng khi "truyền giọng điệu mình cho con tập nói", "Gánh
tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân" thì đó chính là khát vọng về duy trì bản sắc dân tộc. Cha ông
ta với một tinh thần dân tộc cao cả, đã làm được điều đó và truyền lại cho chúng ta truyền thống văn
hóa như hơm nay.
Để Đất nước này là Đất nước của Nhân dân
Đất nước của Nhân dân,
Đất nước của ca dao thần thoại
Nhân dân làm ra Đất nước. Đất nước thuộc về Nhân dân. Từ đời này qua đời khác, không chỉ lao
động chiến đấu, nhân dân cịn gìn giữ linh hồn dân tộc như ngọn lửa thắp lên từ hồi khai quốc vẫn cháy
TÔN NGỌC MINH QUÂN
7
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa
Năm học: 2018-2019
sáng trong mỗi bếp nhà. Linh hồn dân tộc ở trong nếp sống, trong phong tục tập quán, trong những giá
trị tinh thần phong phú của văn hóa dân gian. Và như đã nói ở trên, mỗi người Việt sinh ra trong lời ru
của mẹ, câu chuyện của bà... dần dần thấm lấy tinh thần dân tộc. Cứ như thế đời này qua đời khác, nước
Việt được trường tồn.
4. Nhớ Bắc – Huỳnh Văn Nghệ (Báo Người Lao Động):
Đã có biết bao thi sĩ viết nên những bài thơ thấm đẫm tình yêu với Thăng Long nhưng có lẽ
Nhớ Bắc của thi tướng Huỳnh Văn Nghệ là một tác phẩm đỉnh cao. “Từ độ mang gươm đi mở cõi
/ Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long” chính là cái hồn của đỉnh cao đó
“Điều thú vị ít người biết là khi viết nên những câu thơ gan ruột ấy, thi tướng Huỳnh Văn Nghệ chưa
một lần đặt chân đến đất Thăng Long”. ông Huỳnh Văn Nam, Tổng Giám đốc Đài Truyền hình TPHCM,
con trai cố thi tướng - Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân Huỳnh Văn Nghệ - mở đầu câu chuyện.
Ga Sài Gịn - nơi ra đời “thần thi”
Ơng Nam kể: Ba tơi sinh năm 1914 trong một gia đình cơng chức nghèo tại vùng đất Tân Un, tỉnh
Biên Hịa, nay thuộc tỉnh Bình Dương. Hơn 20 tuổi, ơng đậu tú tài loại ưu ở Trường Petrus Ký và được
nhận vào làm việc ở văn phòng Sở Hỏa xa Sài Gòn. Năm 1940, thực dân Pháp khánh thành tuyến xe lửa
xuyên Việt đầu tiên. Từ đó, người ta có thể đi từ Hà Nội đến Sài Gòn với chiều dài hơn 1.700 km bởi tuyến
đường duy nhất chỉ mất chưa đến 39 giờ trên những chuyến tàu tối tân với những toa tàu được thiết kế
nửa gỗ, nửa kim loại và được kéo bằng những đầu tàu hơi nước. Tuyến xe đưa vào sử dụng chủ yếu để
vận chuyển lực lượng và hàng hóa phục vụ cho cơng cuộc khai phá xứ An Nam của người Pháp nên với
mỗi người dân nô lệ, việc được đặt chân lên các toa tàu để vào Nam hay ra Bắc chỉ là niềm mơ ước.
Nhân sự kiện quan trọng thông tuyến đường sắt Bắc - Nam, Sở Hỏa xa Sài Gòn được nhà nước bảo
hộ ưu tiên một số vé cho nhân viên đi tham quan Hà Nội bằng xe lửa. Do số lượng ghế ngồi hạn chế nên
sở phải tổ chức bốc thăm, người nào bốc trúng vé mới được đi. Huỳnh Văn Nghệ may mắn là người duy
nhất của Văn phòng Sở Hỏa xa bốc trúng vé đi tham quan. Vậy là niềm háo hức bấy lâu của một người
con phương Nam luôn đau đáu muốn được về thăm đất Bắc sắp thành hiện thực. Nhưng khi Huỳnh Văn
Nghệ hăm hở chuẩn bị cho chuyến đi bao nhiêu thì người bạn cùng phòng càng buồn nhớ quê hương
bấy nhiêu. Hiểu được tâm trạng và nỗi lòng mong mỏi muốn trở lại cố hương của bạn, hai ngày trước
khi lên đường, ông Nghệ quyết định nhường lại suất vé về Bắc cho người bạn tâm giao.
Buổi chiều tà luyến lưu tiễn bạn, khi đồn tàu dần khuất bóng cuối sân ga Sài Gòn, một cảm xúc man
mác buồn cứ ngập tràn tâm trí người ở lại và hình ảnh về một chốn kinh kỳ đơ hội, hình ảnh Tháp Rùa
nghiêng bóng nước hồ Gươm, hình ảnh những chùm vải chín mọng lúc lỉu trên cành và những làn điệu
dân ca quan họ mượt mà, đằm thắm... qua những câu chuyện kể của người bạn cứ thế ùa về. Và rồi,
Huỳnh Văn Nghệ đã phóng bút viết nên những câu được nhiều người ví là “thần thi”:
Ai về Bắc, ta đi với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long.
Ai nhớ người chăng? Ôi Nguyễn Hoàng
Mà ta con cháu mấy đời hoang
Vẫn nghe trong máu buồn xa xứ
Non nước Rồng Tiên nặng nhớ thương!
Vẫn nghe tiếng hát trời quan họ
Xen nhịp từng câu vọng cổ buồn
Vẫn nhớ, vẫn thương mùa vải đỏ
Mỗi lần man mác hương sầu riêng...
TÔN NGỌC MINH QUÂN
8
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa
Năm học: 2018-2019
Sứ mạng ngàn thu dễ dám quên
Chinh Nam say bước quá xa miền,
Kinh đô nhớ lại xa muôn dặm!
Muốn trở về quê, mơ cánh tiên.
Ai đi về Bắc xin thăm hỏi
Hồn cũ anh hùng đất Cổ Loa
Hoàn Kiếm hồn xưa Linh Quy hỡi
Bao giờ mang kiếm trả dân ta?
(Ga Sài Gòn, 1940)
“Theo các tác giả Nguyễn Tý, Huy Thông, Trần Xuân Tuyết và nhiều tài liệu đã trích dẫn khác,
Nhớ Bắc được sáng tác tại Chiến khu Đ (Thủ Dầu Một - Biên Hịa) năm 1946, lúc ba tơi làm chỉ huy chiến
khu ở đấy. Nhưng qua câu chuyện kể của ba lúc sinh thời và bài viết của tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ đăng trên
Báo Hà Nội Mới gần đây càng khẳng định xuất xứ của bài thơ tại sân ga Sài Gịn năm 1940 là đúng” - ơng
Huỳnh Văn Nam giải thích.
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ là con trai của nhà thơ Huy Cận, con nuôi của nhà thơ Xuân Diệu, cho biết
sinh thời, nhà thơ Xuân Diệu có kể lại rằng ông đã nhận được bài thơ Nhớ Bắc của Huỳnh Văn Nghệ từ
những năm đầu kháng chiến. Trong buổi khai mạc Tuần lễ Văn hóa ủng hộ chiến sĩ Nam Bộ do Đoàn
Văn nghệ Bắc Bộ tổ chức tại Nhà hát Lớn tối 10-10-1945, Xuân Diệu đã đưa những vần thơ da diết toát
lên từ gan ruột của một người mà ông chưa từng gặp vào bài diễn thuyết của mình. Bài diễn thuyết này
được Nghiệp đồn Xuất bản Bắc Bộ in thành sách tại Nhà in Xuân Thu chỉ một ngày sau đó với nhan đề
“Miền Nam nước Việt và người Việt miền Nam”. Cuốn sách này cùng với bài thơ của Huỳnh Văn Nghệ
trở thành tài liệu gối đầu giường của các chiến sĩ Nam tiến.
“Nghìn năm” đã hay, “trời Nam” vẫn “đắt”!
Bài thơ in trong cuốn sách nói trên có một số từ đã được sửa so với nguyên tác. Và theo tiến sĩ Cù
Huy Hà Vũ, người chỉnh sửa là nhà thơ tình tài hoa Xuân Diệu.
Câu thơ nguyên tác: “Từ độ mang gươm đi mở cõi/ Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long” nhưng
trong các ấn phẩm sau này đều viết: “Từ thuở mang gươm đi mở cõi/ Nghìn năm thương nhớ đất Thăng
Long...”. Và, sau khi phát hành không lâu, câu thơ này tựa hồ một câu ca dao đã thẩm thấu như một lẽ
tự nhiên vào huyết quản người dân đất Việt.
“Trời Nam thương nhớ đất Ông Nam cho biết thêm: Sinh thời, cụ Huỳnh có kể chuyện về nhiều chiến
Thăng Long” - đó là tâm sĩ miền Bắc vào Nam ngày ấy đã tìm gặp ơng đưa bài thơ đã được chỉnh
hồn, tư tưởng của người sửa cho tác giả xem và ơng có giải thích về câu thơ nguyên tác. Vấn đề
Việt tự ngàn đời hướng về này, ông Nam cũng đã được chứng kiến trong những năm theo ba tập kết
ra Bắc vào cuối thập niên 60 của thế kỷ trước. Lúc bấy giờ, gia đình ơng
gốc gác giống nòi...
sinh sống tại nhà số 10 Lý Nam Đế, gần trụ sở Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
Một lần, một nhà văn ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội đến gặp cụ Huỳnh trao đổi, xin được đăng bài thơ
Nhớ Bắc trên tạp chí này theo bản thảo mà nhà thơ Xuân Diệu đã chỉnh sửa và ông cụ đã đồng ý cho
đăng. Chính vì thế, câu thơ dị bản càng ăn sâu vào tâm trí bạn đọc.
Theo tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, “nghìn năm” so với “Trời Nam” thực là “kẻ tám lạng, người nửa
cân”. “Nghìn năm” đã có cuộc sống riêng của nó dẫu rằng “Trời Nam” cũng rất “đắt”. Có thể khẳng định
rằng “Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long” vẫn vẹn nguyên trong trí nhớ của bao người. “Nghìn
năm” tồn tại một cách đàng hồng, vững chắc là bởi tính tượng trưng, độ mở của nó cả về thời gian lẫn
khơng gian.
Với “Trời Nam”, người đọc có thể hiểu rằng từ khi Nguyễn Hồng Nam tiến cho đến bây giờ,
hậu duệ của ơng khơng lúc nào ngi nhớ kinh đơ đất Tổ, cịn với “nghìn năm” thì khơng chỉ cho đến
TƠN NGỌC MINH QUÂN
9
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa
Năm học: 2018-2019
hôm nay mà hàng nghìn, hàng vạn năm sau mãi mãi nhớ về nguồn cội, như một lời thề sắt son của con
Lạc cháu Hồng. Hơn thế nữa, “Trời Nam”, dù muốn hay khơng thì khái niệm những người con xa q
cũng bị bó hẹp trong một vùng đất, một khơng gian nhất định. Trong khi đó, “nghìn năm” mở rộng phạm
trù xa xứ đến vô cùng đối với tất cả những ai mang trong mình dịng máu Lạc - Hồng dù ở chân trời hay
góc bể.
Tuy nhiên, theo ơng Nam, sinh thời cụ Huỳnh chia sẻ: Từ “Trời Nam” dùng ở đây ý nghĩa rộng
hơn. “Trời Nam” khơng phải là sự bó hẹp về không gian mà là một sự khẳng định chủ quyền bất khả
xâm phạm của người Nam đã được “thiên định” như ông cha ta từng khẳng định trong Hịch tướng sĩ,
Bình Ngơ đại cáo hay Nam quốc sơn hà. “Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long” - đó là tâm hồn, tư tưởng
của người Việt tự ngàn đời hướng về gốc gác giống nòi... Hồn thơ thức tỉnh những mơ hồ về Tổ quốc.
Đó là một khẳng định lịch sử trong quá trình dựng nước và giữ nước của ơng cha ta. Thăng
Long cịn đó, sơng núi cịn đây. Một Việt Nam ngàn đời bền vững. Tình cảm ấy vơ cùng cao đẹp. Ấy là
tình Bắc - Nam ruột rà để non nước Việt trường tồn... Tố chất Huỳnh Văn Nghệ đặc trưng Nam Bộ, gân
guốc, ngang tàng, phóng khống nhưng thẳm sâu văn hóa, nặng ân tình là vậy.
Nặng tình với Thăng Long - Hà Nội
Ơng Huỳnh Văn Nam tâm sự: “Tổ tiên, ông bà của tôi quê ở Quảng Bình - “phên dậu” giữa
Đàng Trong với Đàng Ngồi thời Trịnh - Nguyễn phân tranh. Ơng nội tơi người họ Hồng theo đồn
qn Nam tiến của chúa Nguyễn Hồng “mang gươm đi mở cõi”. Đời ơng, đời cha, đến đời tôi và con
cháu sau này, tuy cung bậc cảm xúc với Thăng Long - Hà Nội phụ thuộc vào những hoàn cảnh lịch sử
khác nhau nhưng đều vì một cái tình chung, đều có một niềm tự hào chung của những con dân Việt
“nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Ơng nam chép tặng tơi mấy câu thơ:
Ơng tơi xưa mang gươm đi mở cõi
Cha tơi làm thơ thương nhớ đất Thăng Long
Cịn tơi suốt hai mùa mưa nắng
Hát mãi về em, Hà Nội trái tim hồng!
Một nghìn năm cả dặm dài đất nước: Đơng Đơ - Thăng Long, Đông Đô - Hà Nội cứ kéo dài hun
hút sâu, kéo dài hun hút nhớ. Hà Nội, từ một vùng đất bãi bồi nhỏ bé của sông Hồng đến hơm nay
được mở ra ơm trọn trong lịng nhiều hơn những tinh hoa văn hóa dân tộc. Giữa những ngày mùa thu
lịch sử này, chắc hẳn muôn triệu con tim Lạc - Hồng ở khắp muôn phương đều đang hướng về thủ đơ
thân u của mình với niềm xúc cảm trào dâng như tâm trạng của thi tướng Huỳnh Văn Nghệ và hậu
duệ của ông.
5. Đất Nước dưới con mắt cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm và Nguyễn Đình Thi (gđ 19451975):
Trải suốt chiều dài lịch sử văn học, hình tượng đất nước đã bắt nhịp trái tim của không biết
bao nhiêu nghệ sĩ để đi vào thơ với vẻ đẹp thiêng liêng và niềm tin yêu sâu sắc. Hồn thiêng đất nước,
tinh thần dân tộc hào hùng được bắt nguồn từ Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ... tiếp nối bền vững qua
mỗi thời kì. Đất nước của Nguyễn Đình Thi và Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm gặp gỡ nhau ở đề tài ấy.
Hai cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại, gian khổ lại thêm một lần tạo nên hoàn cảnh đặt biệt để xuất hiện
những vần thơ yêu nước với cách thể hiện độc đáo.
Đất nước của Nguyễn Đình Thi và Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm nằm trong số những đỉnh
cao của nền thơ ca cách mạng Việt Nam ra đời trong giai đoạn 1930- 1945. Nung nấu và vang vọng từ
những năm tháng hào hùng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, “Đất nước” của Nguyễn Đình
Thi viết năm 1948 là một bài thơ trữ tình tràn đầy niềm tự hào về sự trường tồn của đất nước và tinh
thần bất khuất Việt Nam. Với phong cách nghệ thuật đầy cá tính, Nguyễn Đình Thi đã thổi vào vần luật
phóng túng của thơ tự do giọng thơ sôi nổi, hào sảng, chân thật cùng những hình tượng đặc sắc. Đất nước
của Nguyễn Khoa Điềm cũng là thành tựu nghệ thuật tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Mĩ. Nằm
trong trường ca “Mặt đường khát vọng”(1971), chương V đã gói ghém trọn vẹn tâm tư của người thanh
TÔN NGỌC MINH QUÂN
10
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa
Năm học: 2018-2019
niên trí thức tham gia tích cực vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bài thơ kết hợp giữa cảm xúc và lí trí,
trữ tình và chính luận đem đến cho người đọc cái nhìn tồn vẹn, nhiều chiều về đất nước mình. Hai thi
phẩm vừa có những nét chung về đề tài, cảm xúc lại có nhiều khác biệt về cảm hứng, thi tứ, giọng điệu
... để lại ấn tượng sâu đậm đối với người đọc.
Trước hết, hai bài thơ hội tụ những nét chung giống như nền tảng cơ bản để tạo thành giá trị
vững chắc xuyên suốt thi mạch dân tộc. Đó là cảm hứng về đề tài đất nước quen thuộc được ngợi ca, tơn
vinh với lịng trân trọng và tâm tư, cảm xúc chân thành. Trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể, đất nước
lại được đặt dưới những góc nhìn mới mẻ, đặc biệt chiến tranh đã tô đậm một bức chân dung anh hùng,
vững vàng và liên tiếp chống lại mọi kẻ thù thường gặp trong thơ:
Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu
Nghe dịu nỗi đau của mẹ
Ba lần tiễn con đi hai lần khóc thầm lặng lẽ
Các anh khơng về mình mẹ lặng im
Tạ Hữu Yên
Từ nguồn xúc cảm chân thực và mạnh mẽ, Đất nước đã lắng đọng trong nỗi nhớ, nỗi mong chờ,
xót xa và nhận thức sâu sắc của các tác giả về chủ quyền dân tộc:
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dịng sơng đỏ nặng phù sa
Xn Diệu từng nói « Thơ hay lời thơ chín đỏ trong cảm xúc », quả thật chính những câu thơ
tràn ngập lòng tự hào, yêu quý và khẳng định nền độc lập dân tộc đã tạo dựng niềm tin cho cả một thế
hệ độc giả. « Trời xanh đây» và « núi rừng đây» gần gũi, nhất định « là của chúng ta », chỉ cần hai lần
điệp mà câu thơ thật dõng dạc dứt khoát. Để rồi phép liệt kê sau đó, khơng cịn có cụm từ chỉ sự sở hữu,
nhưng tất cả phong cảnh núi sông quê hương hiện lên như một lẽ tất nhiên : tất cả đều thuộc về đất nước
Việt Nam thân yêu. Ở đó, Nguyễn Khoa Điềm cịn thấy được :
Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho đất nước những hịn núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng u nhau góp nên hịn Trống Mái
... Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Khơng có một từ ngữ nào giống với đoạn thơ của Nguyễn Đình Thi song cả hai đều kể ra, tôn
lên một quê hương giàu đẹp mà « núi rừng » là « trăm ao đầm » và thắng cảnh « Hạ Long ». Tâm tư tình
cảm của con người với nhiều nỗi niềm, kỉ niệm thiêng liêng «hịn núi Vọng Phu », « hịn Trống mái » đến
đây cũng góp thành Tổ quốc. Trên hết, vẻ đẹp tâm hồn tình nghĩa đằm thắm đã ghi dấu trên mỗi sự vật,
hóa chúng thành thiêng liêng bất tử. Bởi niềm tin ấy, đất nước đã trở đi trở lại thành đề tài trung tâm
của rất nhiều tác phẩm thơ ca trong suốt ba thập kỉ này. Không phải chỉ trong“Đất nước”, tiếng thơ mới
rung lên đau đáu những trăn trở, suy tư, tình cảm gắn bó mãnh liệt, mà người yêu thơ còn biết đến nhiều
tên tuổi lớn “Tổ quốc có bao giờ đẹp thế này chăng- Chế Lan Viên, “Quê hương”- Giang Nam, “Việt Bắc”Tố Hữu, “Dáng đứng Việt Nam”- Lê Anh Xuân... Nhưng thành công nổi bật đưa hai bài thơ lên đến đỉnh
cao của thơ ca cách mạng chính là đã cùng xây dựng được hình tượng đất nước gắn liền với nhân dân,
để đất nước thêm mến yêu gần gũi.
Tuy thế, nhìn ra sự giống nhau cũng là để thấy rõ hơn khám phá riêng biệt của hai bài thơ- hai
tâm hồn tri âm sâu sắc mà phong phú diệu kì. Cảm hứng về đất nước trong thơ Nguyễn Đình Thi đến từ
mùa thu mà cuộc kháng chiến đang diễn ra dữ dội và tàn khốc. Tài năng của Nguyễn Đình Thi gặp Thiên
thời- địa lợi- nhân hịa, gặp được ngọn gió lớn của « bão táp cách mạng » bùng lên, sơi nổi và hiện đại.
Nó đã khiến cho nhà thơ nhiệt tình ngợi ca và suy tư về sức sống kì diệu của dân tộc trong mối tương
quan : khi đương đầu với giặc ngoại xâm. Dọc theo suốt bài thơ ta thấy rất rõ một quá khứ chiến tranh
TÔN NGỌC MINH QUÂN
11
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa
Năm học: 2018-2019
đau thương mất mát mà cả con người và sông núi quê hương đều dốc hết sức để bảo vệ nền độc lập tự
do của Tổ quốc.
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Câu thơ có nhiều cách hiểu song nếu như đây là hình ảnh của người lính ra trận, thì dường
như cái khoảnh khắc ra đi ấy trở thành đáng trân trọng q, « đầu khơng ngoảnh lại » dứt khốt là thế
nhưng đâu phải vơ tình. Người quay đầu đi mà vẫn cịn cảm nhận được cả cái hồn của « thềm nắng lá
rơi », thế mới biết sự gắn bó sâu nặng của lịng người với một mảnh đất, với một quê hương. Câu thơ vừa
tinh tế gợi cảm vừa mang vẻ đẹp của thời đại « tồn quốc kháng chiến ». Thốt lên trên hiện thực bằng
cảm hứng lãng mạn, Nguyễn Đình Thi khơng những hình tượng hóa những người chiến sĩ kiên cường
bất khuất khơng ngại khó khăn mà cịn vẽ họ bằng nét bút dung dị đời thường :
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
Lòng yêu nước với lí tưởng cách mạng bao trùm một tình u lứa đơi trong sáng vị tha. Hai
tình cảm ấy nâng đỡ cho nhau, tơ đẹp lẫn nhau. Tình yêu là khát vọng cháy bỏng tạo động lực cho người
lính chiến đấu, để trong giờ phút mệt mỏi « đêm dài hành quân nung nấu », anh ấm lòng biết mấy khi
nghĩ đến « mắt người yêu ». Hai lần u thương cộng lại thành sức mạnh khơng gì ngăn được. Và như
thế, xuất phát từ tình cảm đời thường, con người dũng cảm sẵn sàng làm mọi thứ để bảo vệ sự n bình,
sum họp. Đó là sức sống đã biến những người Việt Nam bình tường trở thành anh hùng, biến những con
người chất phác thành thiên thần :
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Có nhìn về q khứ xa xơi mới thấy được lịng u nước ln trỗi dậy mạnh mẽ trong mọi hồn
cảnh, thách thức lại tất cả những kẻ thù xâm lược. Có thế mới thấy tầm vóc của con người trong cuộc
chiến hôm nay là sự tiếp nối sự nghiệp chống giặc ngoại xâm kiêm trì và bền bỉ qua bao nhiêu thế hệ.
Xương máu đã đổ xuống, nhiều thế hệ đã đi qua nhưng cái còn lại đây là đất nước trọn vẹn về cả lãnh
thổ và tâm hồn. Bài thơ được viết rất hay, mà quyết định mạch thơ chính là cấu tứ chặt chẽ. Đề tài mùa
thu mn thuở mở ra không gian, thời gian lịch sử của đất nước. Cấu tứ được triển khai trong quá trình
vận động hợp lí từ đất nước của hương cốm giản dị tới đất nước « Rũ bùn đứng dậy sáng lịa ». Tầm vóc
lớn lao vĩ đại cũng bởi thế mà được tô đậm. Bốn chặng bố cục giống như một trường ca, trải đều trong
mùa thu xưa đất nước, đi đến đất nước những ngày đổi mới, không quên nhìn ra hồn cảnh đau thương
để từ đấy vút lên sức mạnh vũ bão của đất nước đứng lên. Cái nhìn tồn cảnh về lịch sử khơng chỉ dựng
nên một bộ khung nâng đỡ tồn bộ tác phẩm mà cịn giúp hồn chỉnh hình tượng đất nước, con người
trong thơ. Cảm hứng đất nước xuyên suốt bài thơ, là mạch ngầm kết nối từng mảng tưởng như rời rạc
trong tác phẩm, tạo thành hình tượng thơ thống nhất. Đất nước qua hình dung của Nguyễn ĐÌnh Thi bao
gồm hệ thống hai hình ảnh chính là đất và trời, quện với nhau chan hòa làm nên gương mặt đất nước.
Cho dù ở quê hương đó, tiếng kêu đau thương đã bật ứa máu :
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Nhưng nỗi đau ấy không của riêng ai, mà tất cả mọi người đều chung gánh. Chiến tranh từ bao
đời Triệu Đinh Lí Trần hay hơm nay cũng thế, hiện thực, quá khứ hội tụ về đây, khái quát bao nhiêu
cảnh mất mát đau đớn đã chảy máu thành vết thương lớn. Phép nhân hóa biến cảm giác của con người
thành cảm giác của phong cảnh, dựng nên một bức vẽ tan hoang chằng chịt « dây thép gai » thơ bạo cứa
vào q hương mình một nỗi đau máu thịt. Cánh đồng quê như biết nghĩ, biết cảm nhận thấm thía sự
xúc phạm, khổ đau. Thủ pháp ngược sáng dựng nên hình ảnh rõ nét và đầy cảm hứng về một buổi chiều
có thật, nhà thơ hành quân qua nơi địch đánh phá. Câu thơ giàu giá trị tạo hình, gây ấn tượng sâu đậm
trong lịng người đọc bằng hình ảnh đập mạnh vào cảm giác. Tác giả hịa mình vào tình cảnh đó để hiểu
TÔN NGỌC MINH QUÂN
12
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa
Năm học: 2018-2019
cho sâu, cho hết biết bao nhiêu khó khăn cực nhọc, hy sinh gian khổ mà dân mình phải chịu đựng. Càng
trong gian khó, con người càng kiên cường. Hình tượng nhân dân vừa hiển hiện vừa thấp thoáng song
hành với cuộc trường chinh lịch sử đầy máu lửa.
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng
rồi
Người lên như nước vỡ bờ
Người Việt Nam hiền lành nhân từ nhưng dũng cảm bất khuất. Sức mạnh lòng yêu nước của
nhân dân như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói « Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ Quốc bị xâm lăng thì tinh thần
ấy lại sơi nổi. Nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó
khăn ». Chính những người anh hùng quần chúng là nền tảng đất nước. Phép so sánh « người lên như
nước vỡ bờ » là hình tượng nhân dân được tượng trưng hóa. Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh mang tính
biểu tượng về sự vươn mình vĩ đại của dân tộc :
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa
Trỗi dậy mạnh mẽ và ngời sáng, đất nước được phản chiếu qua tâm hồn của tác giả thật vĩ đại.
Hình tượng mang đầy tính tượng trưng cũng là một trong số những đặc điểm của thơ ca cách mạng :
ngợi ca, tuyên truyền và cổ động cho tinh thần dân tộc. Chính điều đó là biểu tượng của sự gắn kết dân
tộc thành một khối đoàn kết và thống nhất, một nhiệm vụ cần thiết của văn học thời kì này. Những hình
tượng lớn lao kết thành bài thơ đã cho thấy cách viết có nhiều khám phá tìm tịi của nhà thơ. Để có được
điều này, Nguyễn Đình Thi đã tìm chất liệu từ vốn sống thực tế. Xây cất hình tượng bằng những cảm xúc
suy tư trực quan được nảy sinh qua những trải nghiệm của người nghệ sĩ, mùa thu Hà Nội đẹp đẽ được
chọn để bắt đầu bài thơ :
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Cảm xúc trực tiếp, khám phá thú vị về những nét đặc trưng của thủ đô « sáng mát », « hương
cốm mới » đặt bên cạnh cách viết tượng trưng hóa làm phong phú sinh động thêm cho bài thơ. Người
đọc xao động bao nhiêu trước vẻ đẹp mùa thu trong lành, khi tâm trạng con người hịa vào thiên nhiên
thì lại ngưỡng mộ tơn thờ bấy nhiêu trước tư thế hùng tráng của non sơng mình. Như vậy nhà thơ đã
thành cơng trong việc pha trộn hai nguồn xúc cảm đan xen với nhau. Giọng tráng ca cũng là một phần
tốt lên cái « hồn » của tác phẩm. Người đọc có thể nhận ra sự chuyển biến của nhịp điệu, âm hưởng
theo dòng cảm xúc : từ nhịp chậm với những âm cao và trong trở nên trầm xuống khi lắng nghe mạch
sống bất diệt của đất nước, rồi dồn dập, cuộn sôi, tn chảy để cuối cùng hảo sảng, bừng sáng. Có thể
thấy với tâm thế là một người công dân, tác giả đã trở thành một thành viên sống giữa cuộc trường trinh
lịch sử. Trong đó, có những phút đau buồn không thể che lấp được, nhưng hạnh phúc biết bao nhiêu
trong niềm vui chiến thắng và tự hào. Giọng thơ bấy giờ mới hào sảng khỏe khắn làm sao !
Nếu như thành cơng lớn nhất của Nguyễn Đình Thi đi vào chiều dài lịch sử, thì Nguyễn Khoa
Điềm lại đi vào toàn diện từ bề dài bề rộng đến tầm sâu văn hóa của đất nước, chính điều này là cơ sở
đẫn đến nhiều khác biệt trong cách viết của hai bài thơ. Với Nguyễn Khoa Điềm, cảm hứng được gợi lên
từ cách cắt nghĩa về đất nước :
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
..Đất nước có từ ngày đó
Một hệ thống từ ngữ chỉ thời gian được đưa vào rất tự nhiên « đã có rồi », « bắt đầu lớn lên », «
có từ ngày đó ». Những cụm từ này khơng chỉ một thời điểm xác định mà tác giả muốn lấy nó để tơ đậm
ấn tượng lâu đời về lịch sử đất nước. Q trình hình thành đất nước từ đó cũng được định hình. Hình
TƠN NGỌC MINH QN
13
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa
Năm học: 2018-2019
thức tự vấn trả lời cho câu hỏi « đất nước là gì ? đất nước từ đâu ra », nhà thơ đã bắt đầu bằng những kí
ức tuổi thơ để hình dung ra một sự tồn tại của đất nước trong nhận thức và tình cảm tự nhiên nhất của
con người. Câu thơ giống như mạch suy tư về đất nước. Những vẻ đẹp được khơi lên từ mạch tâm tình,
thấm đẫm hơi thở ca dao dân ca huyền thoại sử thi của dân tộc. Cái hay của đoạn thơ chính là sự xuất
hiện của hàng loạt hình ảnh có ý nghĩa tượng trưng nhưng rất gần gũi. Sức gợi từ những hình ảnh này
đã sựng lên cả một khơng gian văn hóa truyền thống, mang theo hơi thở tâm hình của ca dao « gừng cay
muối mặn xin đừng quên nhau ». Một đất nước của bà, của cha mẹ, đất nước có từ « ngày xửa ngày xưa
», gần gũi, thân thuộc sẽ đi vào tâm hồn con người và mãi in đậm trong đó. Mối liên hệ giữa con người
với đất nước từ đó cũng khơng thể tách rời. Đất nước bao gồm những thứ nhỏ nhoi »miếng trầu » « cái
kèo cái cột » « hạt gạo », cho đến những gì thiêng liêng, lớn lao nhất. Ta thấy ở đây sự đồn kết trong q
trình giữ nước, thấy tình yêu ý nhị nồng thắm của cha mẹ, đó là những giá trị tinh thần bền vững sẽ vun
đắp cho đứa con cơ sở vững chắc để tự hào về quá khứ, tin vào tương lại của dân tộc. Đất nước như vậy
là cuộc sống ở quanh ta, trong ta, đất nước là của nhân dân, đồng bào mình. Cấu tứ của bài thơ xoay
quanh tư tưởng đất nước của nhân dân. Đây là điểm quy tụ mọi cách nhìn về đất nước, cũng là đóng góp
của Nguyễn Khoa ĐIềm làm sâu sắc thêm ý niệm về Đất nước của thơ chống Mỹ. Ba bình diện cấu thành
một thực thể đất nước đều được làm nên từ nhân dân. Đất nước trong chiều dài lịch sử
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất nước
Cái nhìn làm điểm tựa để khái quát được phần bên trong của q trình hình thành đất nước.
Cách gọi « em ơi em » độc đáo. Đất nước xây dựng nên từ nhân dân, và bây giờ chính nhân dân lại nhìn
vào nó để thấy tất cả q trình gian lao nhưng đầy tự hào. Người đọc thấy đâu đâu cũng xuất hiện hình
bóng người dân q hương, lúc thì « u nhau và sinh con đẻ cái », rồi « Những cuộc đời đã hóa núi sơng
ta », « cần cù làm lụng »’ « khi có ngoại xâm thì chống ngoại xâm ». Chính vì thế mà bề rộng lãnh thổ địa
lí cũng dễ dàng mở ra : Khắp ruộng đồng gõ bãi. Những địa danh liên tiếp được liệt kê ra đã cụ thể hóa
dáng hình đất nước : « núi Vọng Phu », ‘hòn Trống Mái »... Cảnh thiên nhiên kì thú đã gắn liền với đời
sống dân tộc. Nó được những thế hệ, lớp người đi trước tiếp nhận và cảm thụ qua tâm hồn, qua cảnh
ngộ, hoàn cảnh, cuộc đời, lịch sử. Trên khắp thế giới này có biết bao nhiêu thắng cảnh đẹp, nhưng khơng
thể cho rằng địa danh này giống địa danh khác, càng không thể hạ thấp vẻ đẹp nhỏ bé của đất nước
mình. Khi nghĩ về đất nước, hãy nhớ đến người đàn bà một nắng hai sương chung thủy chờ chồng mà
hóa thành tượng đá, hãy nghĩ về mồ hơi nước mắt của bao bậc hiền nhân quân tử đèn sách để xây dựng
cơ đồ, có thế, ta mới hiểu hết giá trị của cuộc sống này. Một suy luận xuôi chiều đơn giản sẽ không hiểu
được tại sao phải yêu sơng núi q mình.
Đấy là lí do mà thơ Nguyễn Khoa Điềm hay và dễ đi vào lòng người
Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu
... Chín mươi chín con goi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
...Những học trị nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút, non Nghiên
Cái hồn Việt lạ lắm, kì diệu lắm, mà trong mỗi chúng ta, khơng phải ai cũng nhận ra điều này.
Và ý thức sâu sắc hơn cả « đất nước là máu xương của mình », cuộc sống được xây dựng nên từ máu
xương của cha ơng, nổi bật trong dịng thơ là lịng biết ơn lớn lao vô bờ. In đậm trong suốt mạch thơ là
một quan niệm vững chắc khơng gì thay đổi được về đất nước và nhân dân. Bề dày văn hóa cũng thể
hiện ở đây.
Trong anh và em hơn nay
Đều có một phần đất nước.
Đất nước kết tinh hóa thân trong cuộc sống của mõi con người. Sự sống của mỗi cá nhân khơng
chỉ là riêng mình mà cịn là Đất nước, bởi mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn hóa tinh
thần và vật chất của dân tộc. Truyền thống uống nước nhớ nguồn « Nhớ ngày giỗ tổ » , truyền thống
TÔN NGỌC MINH QUÂN
14
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa
Năm học: 2018-2019
đánh giặc giữ nước, lao động xây dựng đất nước, hay ngay trong « miếng trầu bà ăn », « tóc bới sau đầu
» cũng chứa đựng tin hoa văn hóa dân tộc. Định nghĩa về đất nước chưa bao giờ toàn diện mà gần gũi
như thế. Hơn nữa, cách xây dựng hình tượng cũng là một phần quan trọng làm nên thành cơng của bài
thơ. Hình tượng đất nước được tách ra làm Đất và Nước, tưởng như phi lí song lại trở thành bản chất sâu
xa :
Đất là nơi em đến trường
Nước là nơi anh tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn.
...Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở.
Trong tiếng Việt, Đất nước gồm hai yếu tố hợp thành Đất và Nước. Cách « chiết tự » dễ dẫn đến
nguy cơ hiểu sai lạc ý nghĩa, hoặc máy móc giản đơn khi giải thích bằng lí lẽ, nhưng dựa vào tư duy nghệ
thuật lại cho phép phân tích và cảm nhận theo các phương diện khác nhau. Đất nước từ huyền thoại «
Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ đã nói lên chiều sâu lịch sử. Về
không gian, đất nước không chỉ là sơng núi rừng bể mà cịn là nơi rất gần gũi với cuộc sống mỗi người.
Đó cũng là khơng gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ
« Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Tác giả sử dụng sáng tạo các yếu tố của ca dao truyền thuyết dân gian. có lúc lại dựng nên hình
tượng thơ mới vừa gần gũi vừa khác lạ « đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm »
Đất nước được cảm nhận như sự hợp thành thống nhất các phương diện văn hóa truyền thống phong
tục, cái hằng ngày và cái vĩnh hằng, trong đời sống mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Định nghĩ về đất nước
đã sâu sắc hơn nhiều lắm. Đất nước là một khối vơ hình hội tụ những người có chung cội nguồn, yêu
thương gắn bó chia sẻ với nhau. Dáng hình tạo từ khơng gian và tâm hồn là cuộc sống con người. Đan
xen với khoảnh khắc thời gian không gian hiện tại là sự thức tỉnh của ký ức cộng đồng, với sự tổng hòa
những vẻ đẹp trong dời sống tinh thần, tâm linh, là lòng biết ơn tổ tiên đã ăn sâu vào tiềm thức người
Việt
Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi
...
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào mình trong bọc trứng
Trong hình tượng đất nước có hình tượng nhân dân, mà tác giả chú ý đặc biệt đến đám đông
vô danh nhưng vĩ đại. « Năm tháng nào cũng người người lớp lớp ». Như trong một dòng chảy lớn, mỗi
con người trong đất nước đều góp một hạt nước bé nhỏ, cuộc đời mỗi người dù vơ danh nhưng lại góp
phần duy trì nguồn sống, khát vọng bất diệt của dân tộc. Nhân dân là người tạo dựng nên Đất nước, là
người gánh chịu những gian lao làm nên chiến công vĩ đại mà hết sức thầm lặng, vơ danh. Có thể nói,
hình tượng nghệ thuật trong thơ Nguyễn Khoa Điềm được thể hiện theo hướng tập hợp, khái quát hóa,
cũng là một cách để khẳng định vững chắc những nét riêng chỉ có ở con người Việt. Vốn sống gián tiếp
được tái tạo từ kiến thức sách vở, văn học dân gian rất phong phú chính là cơ sở khiến nhà thơ có cách
nhìn như vậy. Ơng sử dụng biến hóa kiến thức với pha trộn cảm xúc suy nghĩ chân thành, cho nên câu
thơ giống như lời tâm tình. Tư thế của nhân vật trữ tình giống như đang triết luận, tâm sự, tâm tình với
người yêu thật thân mật, khi lại nghiêm trang nói về đất nước. Cách xưng hơ cũng thế : « Mai này con ta
», « Em ơi em » là lời nhắn nhủ trữ tình đằm thắng. Nhiều câu thơ như văn xuôi, câu viết dưới dạng định
nghĩa, đó là những suy tư tỉnh táo mang màu sắc triết lí, thể hiện nhân thức đúng đắn của tác giả.
TÔN NGỌC MINH QUÂN
15
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa
Năm học: 2018-2019
Đọc hai bài thơ giống như bước vào hai cuộc hành trình dạt dào cảm hứng mà ở đấy, ta được
ôn lại lịch sử dân tộc, thấm thía hai tiếng Đất nước thiêng liêng. Hai tác phẩm là hai đỉnh cao cùng đề tài
với những đóng góp quan trọng khơng thể thay thế. Từ ngôn từ, cách thể hiện cho tới tư tưởng mới lạ,
đặc sắc, mỗi người một vẻ, bổ sung cho nhau, làm giàu thêm cho hình tượng đất nước mình. Giang Nam,
Vũ Cao cảm nhận về đất nước gắn liền với hy sinh mất mát, Tố Hữu là đất nước hùng tráng trong cuộc
kháng chiến và nghĩa tình son sắt, đạo lí cách mạng, Dương Hương Li nói đến các bà mẹ đàm hầm trong
tầm đại Bác, Lê Anh Xuân nghiêng mình trước sự hy sinh của biết bao chiến sĩ vơ danh, Hồng Cầm xót
xa trước cảnh q hương mình bị dày xéo... Bấy nhiêu lời ca, bấy nhiêu người nghệ sĩ đã góp tiếng nói
trên thi đàn, nhưng ta vẫn thấy độc đáo, bất ngờ với đất nước đau thương uất ức nghẹn ngào và quật
khởi vùng lên của Nguyễn Đình Thi, giọng trầm lắng triết lí nhưng đầy thi vị của Nguyễn Khoa Điềm.
Hình tượng đất nước vốn là khái niệm trừu tượng giờ đây hiện lên thật sống động trong thơ, gắn với yêu
cầu mang tính sứ mạng của văn học một thời.
Những vần thơ đẹp trong « Đất nước » đã vượt qua thử thách của thời gian, tiếp tục tỏa sáng,
giúp thế hệ người đọc hôm nay hiểu hơn về thế hệ cha ông trong những ngày tháng hào hùng nhất của
dân tộc. Trong thời đại mới, nhắc nhở về ngày hơm qua góp phần khơi dậy lịng tự hào, tình cảm, ý thức
trách nhiệm, khát vọng xây dựng đất nước, cuộc sống giàu đẹp hơn.
6. Bên kia sơng Đuống (Hồng Cầm):
Đề tài "Dịng sông" là đề tài luôn được thi ca khai thác và trong miền thơ này đã có khơng ít
những thi phẩm đạt tơi đỉnh tuyệt vời. Xi dịng sơng thơ thi ca Việt Nam hiện đại ta đã chạm phải nỗi
buồn ám ảnh của một “Tràng giang” của Huy Cận , một dịng “Sơng Thao” dịu ngọt và tình tứ của Nguyễn
Duy; và Hồi Vũ đã để "Vàm Cỏ Đơng" quẫy mình âm vang chiến cơng sơng nước . Song một hồn thơ đa
tình đẫm hơi thở, dịng sơng tốt lên từ hồn Kinh Bắc thì chỉ có "Bên kia sơng Đuống" của Hồng Cầm.
Con sơng chảy qua khơng gian vùng văn hoá cổ, nghiêng chảy giữa thời kháng chiến đã hố thơ, và nó
cùng với thi phẩm mãi tồn tại như một sinh thể sống trong lòng con người .
"Bên kia sông Đuống" là bài thơ của thế giới Kinh Bắc, cái nơi văn hố cổ nổi tiếng một thời với
đình chùa lễ hội với dịng tranh độc nhất vô nhị và làn điệu quan họ ngọt ngào. Cái miền q mà Hồng
Cầm u như máu thịt. Tình u ấy tiềm tàng trong chất máu, chất tâm hồn của thi sĩ và khi gặp tình
huống thì hố thành thơ trào lên ngọn bút. Tình huống đó xuất hiện vào đêm tháng 4/1948 khi nhà thơ
nhận được tin giặc tàn phá quê hương mình. Thi sỹ cực kỳ sao xuyến tâm tư chồng chất những nhớ
nhung tiếc nuối xót xa với cảnh con người, quê hương bị tàn phá, giết hại. Chồng lên cảm xúc ấy niềm
căm giận quân thù và "Bên kia Sông Đuống" đã khởi nguồn cuồn cuộn như vậy. Và vì thế thi phẩm làm
sống dậy một thế giới Kinh Bắc, thế giới tình yêu, nỗi đau và lịng căm giận qn xâm lược đến tột cùng
Hình ảnh Sông Đuống
Mở đầu thi phẩm là tiểng gọi ra riết yêu thương những đòng thời là lời an ủi vỗ về:
"Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống"
Ngày xưa cát trắng phẳng lì"
Ba câu thơ này bắt nguồn từ cơn thần hứng, thi sĩ đã tự bạch: "Đột nhiên từ thơn xóm nào xa
vang vọng ngay bên tai tôi một giọng hát như than thởt như ru em, một giọng phụ nữ trong trẻo ngge rõ
một một nhưng lại nghe như lúc tơi cịn thơ dại". Và chính những âm thanh mà tác giả lắng được ấy tạo
ra những dịng thơ trầm buồn, nó thật dịu dàng nhưng cũng thật xót xa nuối tiếc.
Nhân vật em xuất hiện trong những dòng âm thanh ấy nhưng " Em" chỉ là một nhân vật phiếm
chỉ một thủ pháp trữ tình để nhà thơ tâm sự sẻ chia. Tất nhiên, với phong cách lãng mạn của thi sĩ thì
em phải là cô gái vùng Kinh Bắc những cô gái mặc yếm thắm thắt lụa hồng bây giờ trở thành một nhân
vật vừa hữu hình vừa vơ hình để lắng nghe dòng cảm xúc miên man bất tận ngân lên từ cõi lịng thi sĩ .
Tuy nhiên hình ảnh trung tâm trong miền hồi niệm của nhà thơ vẫn là hình ảnh dịng sơng
Đuống. Dịng sơng nổi bật lên trong khơng gian tâm tưởng.
TÔN NGỌC MINH QUÂN
16
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa
Năm học: 2018-2019
Hình ảnh con sông quê hương với đôi bờ cát trắng ngày xưa chảy về thời hiện tại, hiện hình
trong tâm trí nhà thơ như một dịng lấp lánh .
" Sơng Đuống trơi đi một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ"
Con sông nghiêng chảy giữa hai bờ thực ảo. Xúc cảm mãnh liệt cùng với trí tưởng tượng phong
phú đã giúp nhà thơ tạo lên hình ảnh dịng sơng đầy ấn tượng, xáo trộn cả không gian. Dáng nằm nghiêng
của dịng sơng Đuống trở thành một phát hiện sáng tạo độc đáo của Hồng Cầm. Con sơng vì thế khơng
bất động vơ hồn, nó trở thành sinh thể sống đầy ám ảnh. Con sông yêu thương ấy khi quân thù tràn đến
đã hố thành dịng sơng của thương đau :
"Đứng bên sơng này sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay"
Đoạn thơ kết thúc bằng một hình ảnh tạo ra cảm nhận xót xa vơ hạn. thi sỹ đã lấy nỗi đau về
thể xác để diễn tả một cách cụ thể nỗi đau về tinh thần. Nỗi đau ấy như truyền thẳng vào người đọc cái
buốt nhói tái tê hữu hình. Phải là người yêu quê hương như máu thịt mới có được tình cảm ấy và dịng
xúc cảm mãnh liệt này đã đạt tới mức độ điển hình
Hình ảnh quê hương với vể đẹp và những nỗi đau thương, uất hận căm thù
Cảm hứng chủ đạo trong phần đầu của đoạn thơ là nỗi đau tiếc nuối trước cảnh tượng quê
hương thanh bình đã bị giặc tàn phá. Cảm xúc ở đây có vẻ phức tạp hơn, nó được thể hiện trên một trục
thời gian quá khứ và hiện tại; tình u hồ trộn với nỗi đau soi chiếu vào nhau. Mỗi khổ thơ được mở đầu
bằng hình ảnh gợi cuộc sống thanh bình tươi đẹp, dịng cảm xúc cuồn cuộn chảy nhưng kết thúc đột ngột
bằng một câu hỏi nghẹn ngào tiếc thương ngơ ngẩn.
Vùng quê Kinh Bắc trong hoài niệm nhà thơ, được gợi lên bởi hương lúa nếp thơm nồng và
những bức tranh làng Hồ :
" Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp"
Hương lúa và dòng tranh Đông Hồ được dùng như những biểu tượng về cuộc sống vật chất ấm
no và đời sống tinh thần tươi đẹp . Sự am hiểu cái đẹp và tinh tuý của hồn văn hố dân gian đã giúp
Hồng Cầm chỉ bằng một vài nét mà đã lột tả được cái độc đáo, đặc sắc của dòng tranh làng Hồ.
Ba câu thơ, ba tính từ, Hồng Cầm mở căng giác quan đón nhận quê hương: thơm nồng (khứu
giác), tươi trong (thị giác), sáng bừng (cảm giác); hình ảnh sáng bừng trở thành điểm sáng lung linh nhất
nó đưa màu tranh Kinh bắc hoà nhập thành" màu dân tộc". Hoàng Cầm đã thể hiện được cái thần thái
cái linh hồn của dòng tranh và cũng là vẻ đẹp độc đáo của quê hương.
Vẻ đẹp ấy lại ngập chìm trong khói lửa chiến tranh. Thi sỹ đã miêu tả thật xúc động những
cảnh tan tác chia lià ,những đau thương mất mát:
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đơi ngả
Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu"
Ở đây cái ảo và cái thực hồ nhập vào nhau khó lịng tách bạch riêng biệt. Mượn hình ảnh
trong tranh để diễn tả cánh tượng thật ngoài đời, thi sỹ đã lay động được tình cảm của những con người
gắn bó máu thịt với truyền thống văn hố nghìn đời vùng Kinh Bắc. Bốn câu thơ như được viết ra trong
trạng thái mơ tỉnh lẫn lộn. Bức tranh Đông Hồ hiện cùng bức tranh đời. Cái độc đáo của câu thơ là ở chỗ
thi sỹ vừa tái hiện nỗi đau quê hương bị tàn phá vừa nói được nỗi đau nền văn hoá dân tộc bị dày xéo,
chà đạp. Đoạn thơ khép lại trong một tâm trạng đầy hoang mang đầy cảm xúc thơ tới chót đỉnh của sự
tê tái.
TƠN NGỌC MINH QUÂN
17
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa
Năm học: 2018-2019
Quê hương Kinh Bắc được gợi lên với những đình chùa cổ kính, những hội hè đình đám thể
hiện khát vọng một cuộc sống hạnh phúc bình yên của nhân dân. Bài thơ đã tái hiện cảnh hội ngày xuân
tưng bừng rộn rã thanh bình cuộc sống êm ả ngọt ngào " Mấy trăm năm giấc mộng bình n". Nói tới
mộng bình n tác giả đã chạm vào niềm khao khát chân chất của con người đất Việt từ nghìn đời : khát
vọng hồ bình. Nhưng tất cả đều tan vỡ.
"Những nàng mơi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu về đâu"
Những con người như một phần linh hồn của quê hương xứ sở giờ đây đã nên bơ vơ tan tác …
chỉ cịn lại âm thanh của tiếng chng chùa văng vẳng như gọi linh hồn quê hương trở lại, tạo ra sự
hoàng vắng rợn ngập. Câu thơ kết như một tiếng thở dài tiếc nuối.
Tái hiện trong tâm trí nhà thơ, Kinh Bắc cịn là xứ sở của bn bán sầm uất đông vui - miền
quê lao động và con người cũng mang vẻ đẹp chân chất của gió nội hương đồng:
"Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gởi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thống mộng bình n
…
Những cơ hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng "
Khác với những giai nhân trong buồng the, trướng gấm, cô gái Kinh Bắc trong nỗi nhớ Hoàng
Cầm là những con người lao động. Họ đẹp vẻ đẹp tảo tần mà vẫn tinh tế ngọt ngào. Những câu thơ tài
hoa Hoàng Cầm đã thổi sự sống vào hình ảnh của người thục nữ : một khuôn mặt thật độc đáo vừa có vẻ
đẹp tạo hình gợi sự mịn màng sắc màu phớt hồng đầy sức sống vừa gợi làn hương e ấp trinh nguyên .và
nụ cười thật trong sáng ấm áp dịu dàng như mùa thu toả nắng. Đó là cái hồn riêng ánh sáng riêng của
vùng Kinh Bắc mà Hoàng Cầm nhận ra trong nõi nhớ bâng khuâng.
Đi hết tình yêu lại gặp nỗi đau Hoàng Cầm lựa chọn đưa vào thơ mình hai hình ảnh, hai nạn
nhân tội nghiệp nhất của chiến tranh người mẹ già và đứa trẻ. Hình ảnh người mẹ già dạt ra khỏi phiên
chợ nghèo khi giặc tràn tới xuất hiện ba lần trong một đoạn thơ ngắn. đất lành hoá thành đất dữ con
người và những cánh cị cũng tan tác khơng chốn nương thân
Có con cị tráng bay vùn vụt
Lướt ngang dịng Sơng Đuống về đâu
Mẹ già lịng đói dạ sầu
Đường trơn mưa tạnh mái đầu bạc phơ
Hai hình ảnh bổ sung cho nhau cánh cò trời cao mẹ già đất thấp tạo nên một khơng gian hoảng
loạn. Khơng phải cánh cị trong những áng ca dao thơ mộng mà là cánh cò bay trốn đạn bom. Người mẹ
già quẩy gánh hàng rong trên con đương mưa lạnh và hướng đi vô định... đã nói thật sinh động cái khơng
gian chiến tranh mà con người trong đó với thân phận bơ vơ, mất phương hướng và ln bị cái chết rình
rập.
Những đứa trẻ với nỗi bất hạnh là đói khát và đạn bom đe doạ được tái hiện thật thảm thương.
Bóng đen tử thần cũng ln rình rập chúng, tồn bộ thời gian ban ngày lẫn ban đêm cả khi thức cũng
như khi ngủ. Lòng căm giận đã bùng lên đến đỉnh điểm của sự dữ dội lời thơ thét lên phẫn nộ :
Đã có đất này chép tội
Chúng ta khơng biết ngi hờn.
Những câu thơ xót đau tê tái đã trở thành lực nén cho tiếng sét trả hận cho đoạn thơ tiếp nối.
Đó là hình ảnh q hương quật khởi. Giọng thơ từ nhớ tiếc xót thương chuyển sang phẫn uất căm thù.
Nhân vật trữ tình khơng cịn là nhân vật hồi niệm mà là nhân vật hành động.
TƠN NGỌC MINH QUÂN
18
Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa
Năm học: 2018-2019
Những câu thơ trong đoạn kéo dài trong lặng lẽ những hình ảnh được miêu tả cái gì cũng bé
nhỏ nén đè thu gọn lại" Liếp hé " ánh sáng leo lét tiếng nói ngậm ngùi thầm kể những câu thơ hình ảnh
như những dịng nước tích tụ đổ về dịng sơng để cuối cùng biến thành dịng lũ quật khởi. Sơng Đuống
sinh thể thương đau đang vùng dậy cuốn phăng ra bể những đồn thù và những thương đau.
Khát vọng giải phóng.
Sáu câu cuối làm thành một giấc mơ đẹp bay lên giữa khốc liệt hiện thực. Hình ảnh sáng tạo
lúng liếng sắc màu và lung linh ánh sáng "Yếm thắm” và “lụa hồng" “xuân xanh” và đặc biệt là hình ảnh
nụ cười làm toả rạng ánh sáng bài thơ:
Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại gặp em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng mn lịng xn xanh
Đó là giấc mơ chan chứa niềm hy vọng. Một hình ảnh tương lại của kinh Bắc thật lộng lẫy chan
chứa yêu thương và đặc biệt là sự thay đổi từ cảnh sắc đến mn lịng con người sự hồi sinh tươi trẻ.Một
kết thúc có hậu mê đắm nụ cười thiếu nữ đã nâng cánh lãng mạn của bài thơ và gieo vào lòng người đọc
niềm vui và hy vọng.
“Bên kia sông Đuống” mang hai đặc điểm nổi bật xoắn xt hồ quyện đó là dịng cảm xúc nuối
tiếc xót thương căm giận và yêu thương quê hương gia diết xuyên suốt bài thơ. Bài thơ thể hiện đậm đà
bản sắc dân gian và rất dân tộc; trên một nền nhạc buồn, hồn quê hương dân tộc phảng phất trong mỗi
dịng thơ.
"Bên kia sơng Đuống" ghi nhận dịng tình cảm mãnh liệt chân thành trong sáng mà Hồng Cầm
dành cho q hương mình. Bài thơ viết về vùng Kinh Bắc nhưng dư ba của nó lan rộng và động tới vùng
nhạy cảm của trái tim, đó là tình yêu quê hương của tất cả con người Việt Nam.
TÔN NGỌC MINH QUÂN
19