ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
HOÀNG ÁI VÂN
PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐOÀN ĐỨC LƯƠNG
Thừa Thiên Huế, năm 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tư liệu
được sử dụng trong luận văn là trung thực và có xuất xứ rõ ràng. Các kết quả
nghiên cứu chưa được công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác./.
Huế, ngày 20/7/2016
Tác giả luận văn
Hoàng Ái Vân
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Trang
Lời cảm ơn
Mục lục
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài............................................................................... 3
3. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ..................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 5
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 6
6. Bố cục của luận văn .......................................................................................... 6
PHẦN NỘI DUNG .............................................................................................. 7
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI 7
1.1. Khái niệm, bản chất pháp lý của pháp nhân thương mại ........................ 7
1.1.1. Khái niệm về pháp nhân và pháp nhân thương mại .................................... 7
1.1.2. Đặc điểm của pháp nhân và pháp nhân thương mại ................................. 12
1.1.3. Điều kiện để công nhận pháp nhân thương mại ........................................ 15
1.2. Vai trò của pháp nhân thương mại .......................................................... 19
1.3. Một số pháp nhân thương mại chủ yếu.................................................... 21
1.4. Phân biệt pháp nhân thương mại với các loại chủ thể khác .................. 26
1.4.1. Pháp nhân thương mại với cá nhân ........................................................... 26
1.4.2. Pháp nhân thương mại với hộ gia đình ..................................................... 28
1.4.3. Pháp nhân thương mại với tổ hợp tác ....................................................... 30
1.4.4. Pháp nhân thương mại với pháp nhân phi thương mại ............................. 31
1.4.5. Pháp nhân thương mại với thương nhân ................................................... 32
Tiểu kết chương 1................................................................................................ 34
Chương 2. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI.. 35
2.1. Thành lập, hoạt động, chấm dứt pháp nhân thương mại ...................... 35
2.1.1. Các quy định về thành lập pháp nhân thương mại ................................... 35
2.1.2. Các quy định về hoạt động của pháp nhân thương mại ........................... 40
2.1.3. Các quy định về chấm dứt hoạt động của pháp nhân thương mại ............ 40
2.2. Các yếu tố về lý lịch pháp nhân thương mại ........................................... 43
2.2.1.Tên gọi của pháp nhân thương mại ............................................................ 43
2.2.2. Trụ sở của pháp nhân thương mại ............................................................. 45
2.3. Quốc tịch của pháp nhân thương mại ...................................................... 47
2.4. Cơ quan điều hành và đại diện của của pháp nhân thương mại ........... 48
2.4.1. Cơ quan điều hành ..................................................................................... 48
2.4.2. Đại diện củapháp nhân thương mại........................................................... 49
2.5. Quyền và nghĩa vụ dân sự của pháp nhân thương mại .......................... 55
2.6. Trách nhiệm dân sự của pháp nhân thương mại .................................... 60
Tiểu kết chương 2................................................................................................ 63
Chương 3. THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN, TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÁP NHÂN
THƯƠNG MẠI.................................................................................................. 64
3.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật vềpháp nhân thương mại....................... 64
3.2. Những hạn chế, bất cập của pháp luật điều chỉnh đối với pháp nhân
thương mại ......................................................................................................... 67
3.2.1. Những bất cập về đăng ký kinh doanh của pháp nhân thương mại .......... 67
3.2.2. Một số vướng mắc liên quan tới lý lịch của pháp nhân thương mại......... 70
3.2.3. Những quy định bất cập liên quan tới các pháp nhân thương mại là công
ty hợp danh .......................................................................................................... 73
3.2.4. Một số bất cập trong quy định liên quan tới phá sản pháp nhân thương mại 79
3.3. Phương hướng hoàn thiện luật về pháp nhân thương mại .................... 80
3.3.1. Đảm bảo quyền sở hữu của các chủ thể quan hệ pháp luật ...................... 80
3.3.2.Hoàn thiện quy định pháp luật về pháp nhân thương mại trên cơ sở tiếp
cận từ bản chất của các học thuyết về pháp nhân ............................................... 81
3.3.3. Tăng cường tính cơng khai và minh bạch thơng tin. ................................ 82
3.3.4. Hồn thiện hệ thống pháp luật về pháp nhân nói chung và pháp nhân
thương mại nói riêng. .......................................................................................... 83
3.4. Những giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật
về pháp nhân thương mại ................................................................................. 84
3.4.1.Các giải pháp về hoàn thiện pháp luật ....................................................... 84
3.4.1.1. Cần đưa ra định nghĩa và quan niệm pháp nhân: ................................... 84
3.4.1.2. Thay đổi nhận thức về tài sản và trách nhiệm pháp lý của pháp nhân
thương mại: ......................................................................................................... 84
3.4.1.3. Xây dựng mơ hình hệ thống pháp luật trước khi hoàn thiện pháp luật về
Pháp nhân thương mại:........................................................................................ 85
3.4.1.4. Quy định chế định hợp đồng thành lập pháp nhân trong Bộ Luật Dân sự: 86
3.4.2. Các giải pháp về tổ chức thực hiện pháp luật về pháp nhân thương mại . 87
3.4.2.1. Tổ chức hệ thống hóa quy định pháp luật về pháp nhân thương mại ... 87
3.4.2.2. Hồn thiện quy trình và hiệu quả đăng ký đối với các pháp nhân thương mại . 87
3.4.2.3.Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức công tác về đăng ký kinh
doanh đối với các pháp nhân nói chung và pháp nhân thương mại nói riêng .... 87
Tiểu kết chương 3................................................................................................ 89
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 93
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp nhân là một chủ thể cơ bản tham gia vào các quan hệ dân sự – kinh tế
thường xuyên và phổ biến cho nên nó tác động tới nhiều lĩnh vực của đời sống
xã hội. Trên thực tế, sự phát triển kinh tế - xã hội qua từng thời kỳ lịch sử đều
được đánh dấu bởi sự đóng góp của cá nhân, pháp nhân trong những vấn đề tồn
cầu như: hịa bình, mơi trường, sức khỏe cộng đồng, an ninh lương thực, phát
triển kinh tế, nghiên cứu khoa học… Thể nhân có thể để lại dấu ấn của mình
trong một thời gian hữu hạn nhưng dấu ấn pháp nhân để lại có thể tồn tại qua
nhiều thế kỷ, mang lại lợi ích về tinh thần, vật chất cho nhiều thể nhân, thúc đẩy
xã hội phát triển không ngừng.
Pháp nhân được ra đời từ mong muốn của các nhà đầu tư về một cơ chế góp
vốn mà ở đó những người góp vốn chỉ bỏ ra một số vốn hữu hạn vào cơng ty,
nếu cơng ty làm ăn thua lỗ thì họ chỉ phải chịu rủi ro trong phạm vi số vốn góp
đó. Ngay từ cội nguồn khai sinh ra nó, pháp nhân đã mang dấu ấn của một chủ
thể được quy định bởi pháp luật, có tài sản riêng để làm tiền đề cho việc gánh
vác nghĩa vụ độc lập trong giao dịch tài sản với các chủ thể khác. Từ bản chất
đó, pháp luật thừa nhận và quy định cơng khai về khả năng chịu trách nhiệm độc
lập bằng tài sản riêng của pháp nhân. Như vậy, pháp nhân là một thực thể pháp
lý được hình thành từ việc thực hiện nguyên tắc tách bạch về tài sản nhằm mục
đích đảm bảo tính độc lập về pháp lý và khả năng chịu trách nhiệm hữu hạn của
một chủ thể pháp luật không phải là con người. Sự ra đời và phát triển của pháp
nhân là dấu ấn quan trọng trong kỹ thuật lập pháp của hệ thống pháp luật quốc
gia. Trong hệ thống pháp luật đó có chứa đựng rất nhiều quy phạm điều chỉnh sự
hình thành, phát triển và chấm dứt hoạt động của pháp nhân.
1
Hiện nay, việc phân chia các loại pháp nhân có rất nhiều tiêu chí và tuỳ vào
những mục đích khác nhau nhưng nhìn chung pháp luật Việt Nam tồn tại hai
loại pháp nhân đó là pháp nhân cơng qùn và pháp nhân tư hay còn gọi là pháp
nhân thương mại.
Pháp nhân tư hay còn gọi là Pháp nhân thương mại được thành lập theo văn
bản thành lập pháp nhân theo hình thức pháp lý tư, đó là hợp đồng cơng ty, nghị
quyết của đại hội xã viên. Điều 100 Bộ luật Dân sự có liệt kê, thể hiện nhiều
dạng biểu hiện khác nhau của pháp nhân, nhưng dường như không theo tiêu chí
luật cơng và luật tư. Vì vậy, để đảm bảo sự bình đẳng giữa các pháp nhân cần có
sự phân biệt và điều chỉnh riêng đối với pháp nhân công quyền và các pháp nhân
tư bởi các ngành luật khác nhau.
Đối với nước ta đang bước vào thời kỳ đổi mới tư duy trong phát triển kinh
tế xã hội cụ thể là: Sự ghi nhận của chiến lược phát triển kinh tế thị trường, đa
dạng các hình thức sở hữu; đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật; xây dựng
hành lang pháp lý cho các loại hình pháp nhân công, pháp nhân tư và pháp nhân
hội hoạt động. Từ đó, Pháp nhân thương mại đã góp phần quan trọng vào việc
phát triển mọi mặt của đất nước. Sự hình thành và phát triển của Pháp nhân
thương mại ngày càng gia tăng. Theo đó, tranh chấp nảy sinh ngày một nhiều,
ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của pháp nhân, vi phạm pháp luật cũng vì
thế cũng gia tăng. Ở góc độ nào đó, nguyên nhân cũng từ sự không đầy đủ và
thiếu thống nhất của quy phạm pháp luật điều chỉnh pháp nhân công quyền và
Pháp nhân thương mại. Đặc biệt, pháp luật thiếu các quy phạm điều chỉnh các
thỏa thuận pháp nhân, Điều lệ pháp nhân. Bởi lẽ, Điều lệ pháp nhân là văn bản
có ý nghĩa quan trọng trong pháp nhân. Nó là sự ghi nhận và ấn định quyền và
nghĩa vụ của các thành viên pháp nhân, và đối với bên thứ ba trong quan hệ với
pháp nhân. Thực tế hiện nay, hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh về Pháp
nhân thương mại chưa đầy đủ và không thống nhất. Mặt khác, quy định pháp
2
luật về Điều lệ Pháp nhân thương mại hiện hành rất sơ sài, áp đặt, quy định ở
nhiều văn bản khác nhau. Khi giải quyết tranh chấp, các cơ quan áp dụng pháp
luật gặp nhiều vướng mắc, hạn chế quyền tự do, tự chủ trong quản lý và điều
hành pháp nhân. Đặc biệt, pháp luật chưa có quy định về bảo vệ quyền và lợi ích
của người thứ ba trong các giao dịch.
Hiện nay, nước ta phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đặc biệt trong giai đoạn hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay thì vấn đề làm rõ bản chất pháp lý của Pháp nhân thương mại,
từ đó giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan đến pháp nhân kinh thương mại
khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự là hết sức cần thiết nhằm làm cho các
loại pháp nhân bình đẳng khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, đặc biệt là
trong quan hệ pháp luật kinh tế, thương mại.
Vì vậy, việc nghiên cứu về bản chất pháp lý của Pháp nhân thương mại có ý
nghĩa lớn cả về lý luận và thực tiễn. Vì những lý do trên nên tác giả chọn đề tài
“Pháp nhân thương mại theo pháp luật Việt Nam” làm Luận văn Thạc sỹ Luật
học của mình. Trong khn khổ của Luận văn, tác giả đi sâu nghiên cứu và làm
rõ bản chất, địa vị pháp lý của Pháp nhân thương mại hiện nay nhằm hoàn thiện
các quy định của pháp luật về Pháp nhân thương mại.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về pháp nhân với tư cách là chủ thể pháp luật độc lập trong thời
gian qua có một số cơng trình nghiên cứu, trong đó có thể kể đến như:
- Bài báo khoa học “Một số quan điểm về xây dựng Luật Doanh nghiệp và
Luật Đầu tư” của tác giả Nguyễn Tiến Lậpđăng trên Tạp chí Doanh nghiệp Đầu
tư nước ngồi, Số 36 tháng 04/2004;
- Bài báo khoa học “Sửa đổi Bộ luật Dân sự năm 2005: Vấn đề cải cách
hợp đồng” của PGS.TS. Phạm Hữu Nghị - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện
Khoa học Xã hội Việt Nam;
3
- Bài báo “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp Luật Công ty
Việt Nam” của TS. Luật học Bùi Xuân Hải - Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh đăng trên Tạp chí Khoa học Pháp luật, Số 4 (41)/2007;
- Luận văn Thạc sỹ Luật học, chuyên ngành Luật dân sự "Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra", Nguyễn Thị Hương - Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008.
- Bài viết về “Mối quan hệ giữa cam kết với WTO, Luật Doanh nghiệp và
nghị quyết số 71/2006/QH11 của đồng tác giả TS. Phan Huy Hồng, PGS.TS
Nguyễn Thái Phúc…
- Luận văn Thạc sỹ Luật học "Pháp nhân - Chủ thể quan hệ pháp luật dân
sự", Nguyễn Thị Tuyết Nhung, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011.
- Luận văn Thạc sỹ Luật học "Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của
quan hệ pháp luật", Nguyễn Văn Lâm, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội,
2011.
- Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Chế định pháp nhân trong Dự thảo Bộ Luật
dân sự sửa đổi”– của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015.
Các cơng trình nghiên cứu này từ các góc độ tiếp cận khác nhau đã có
những đóng góp nhất định trong việc nghiên cứu nội dung pháp lý về pháp nhân
nói chung và Pháp nhân thương mại nói riêng. Tuy nhiên, đến nay chưa có một
cơng trình nghiên cứu khoa học về Pháp nhân thương mại. Do đó, việc lựa chọn
vấn đề “Pháp nhân thương mại theo pháp luật Việt Nam” có ý nghĩa về mặt lý
luận và thực tiễn.
3. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, lý luận về nhà nước và pháp luật; trên
cơ sở chủ trương của Đảng, Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
4
3.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: phương pháp này được sử dụng để tập
hợp và phân tích các quy định của pháp luật về Pháp nhân thương mại cũng như
các thông tin về thực tiễn áp dụng. Đồng thời, phương pháp này còn được sử
dụng để nhận xét, đánh giá trình bày trong luận văn.
- Phương pháp so sánh:phương pháp này được sử dụng để tìm hiểu, so
sánh khái niệm, bản chất pháp lý cũng như chế định về pháp nhân qua các thời
kỳ trong pháp luật Việt Nam.
- Phương pháp diễn dịch, quy nạp: được tác giả phân tích, chứng minh các
luận điểm, quy định pháp luật, các dẫn chứng chứng minh để nghiên cứu nội
dung của luận văn.
- Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp: Thông tin thứ cấp được thu thập
chủ yếu là các quy định của cơ quan nhà nước. Nguồn thông tin này thu thập
chủ yếu qua Công báo, các trang web của các cơ quan nhà nước có thẩm qùn.
Đồng thời, thơng qua các quyết định, báo cáo, các ý kiến chỉ đạo, bài viết của
các nhà chun mơn, tạp chí, internet… để lấy thơng tin, số liệu liên quan đến
pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật về Điều lệ pháp nhân.
- Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng nhằm xử lý các
tài liệu, thông tin thống kê, báo cáo mà trong quá trình nghiên cứu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật Việt Nam
điều chỉnh về pháp nhân thương mại và thực tiễn thực hiện các quy định của
pháp luật về pháp nhân thương mại.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về pháp nhân thương mại ở Việt Nam với tư
cách là chủ thể của quan hệ pháp luật trong hoạt động kinh doanh trên cơ sở
phân tích các quy định của Bộ Luật Dân sự 2015 và Luật Doanh nghiệp 2014.
Thời gian: Từ 2013-2016
Không gian: Trên phạm vi cả nước
5
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Mục đích nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu những nội dung lý luận về pháp nhân và
Pháp nhân thương mại và phân tích thực tiễn hoạt động của Pháp nhân thương
mại và những phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý
của Pháp nhân thương mại trong giai đoạn hiện nay.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ giải quyết các vấn đề
chủ yếu sau:
+ Làm sáng tỏ khái niệm, bản chất pháp lý củaPháp nhân thương mại;
+ Phân tích, đánh giá, làm rõ địa vị pháp lý của Pháp nhân thương mại.
Trên cơ sở đó, luận văn nêu lên những hạn chế, bất cập, quy định chồng chéo
giữa các quy định pháp luật quy định Pháp nhân thương mại;
+ Phân tích hoạt động thực tiễn của Pháp nhân thương mại; đồng thời đề
xuất phương hướng sửa đổi, bổ sung của pháp luật về Pháp nhân thương mại.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu thành 3 Chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về pháp nhân thương mại
Chương 2. Pháp luật Việt Nam vềpháp nhân thương mại
Chương 3. Thực tiễn thực hiện và các giải pháp hoàn thiện, tổ chức thực
hiện pháp luật về pháp nhân thương mại
6
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm, bản chất pháp lý của pháp nhân thương mại
1.1.1. Khái niệm về pháp nhân và pháp nhân thương mại
Trong lịch sử đã có thời kỳ pháp luật chưa hề biết đến khái niệm pháp nhân.
Từ thời cổ đại đến thời kỳ phong kiến đã xuất hiện những phường hội. Đây là
những tổ chức hình thành trên cơ sở hợp tác liên kết, không tham gia vào các
quan hệ pháp luật. Các tổ chức này không nhân danh mình mà nhân danh các
thành viên của phường, của hội, hay nói cách khác là nhân danh các chủ sở hữu
của các tài sản được đưa vào sử dụng để thực hiện các hành vi giao dịch. Và
như vậy, các tổ chức này khơng có tư cách pháp nhân độc lập trong việc sử dụng
và định đoạt những tài sản khi nó buộc phải trở thành phương tiện để thực hiện
các quan hệ dân sự, thương mại, kinh tế. Điều đó cũng có nghĩa là về mặt pháp
lý, khơng có sự phân biệt và tách bạch giữa tài sản được đưa vào tổ chức và
phần tài sản còn lại, mà cả hai thuộc sở hữu của cùng một chủ.
Cho đến thời kỳ xã hội tư bản, phương thức sản xuất, đặc biệt là sức sản
xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh, đưa đến sự xuất hiện ngày càng nhiều
những tổ chức kinh tế xã hội với tư cách là những chủ thể đặc biệt của những
quan hệ pháp luật. Vấn đề củng cố địa vị cho các tổ chức kinh tế bằng phương
tiện pháp lý để các tổ chức này tham gia vào các quan hệ dân sự, thương mại đặt
ra nhu cầu cấp thiết với các loại hình tổ chức khác nhau và cũng là phương tiện
cạnh tranh giữa các nhà tư bản với nhau trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Để
xác định tư cách pháp lý độc lập cho các tổ chức này và tránh rủi ro trong kinh
doanh cũng như giới hạn những hậu quả từ sự đổ vỡ trong các tổ chức và thực
tiễn của hoạt động dân sự, thương mại đòi hỏi phải tạo ra một khả năng về sự
7
tách bạch về tài sản giữa phần đưa vào lưu thơng và phần cịn lại mà chủ sử hữu
có nhu cầu sử dụng vào các mục đích khác. Khi thực hiện nguyên tắc tách bạch
về tài sản cũng là khi xuất hiện một nhân cách pháp lý mới tách bạch với nhân
cách của chủ sở hữu hoặc cộng đồng sở hữu. Để đặt tên cho nhân cách pháp lý
mới đó, khái niệm pháp nhân ra đời. Hay nói một cách khác, lịch sử ra đời của
chế định pháp nhân và những ý niệm về pháp nhân được chính thức hình thành
trong nền pháp lý tư sản.
Và như vậy, đến lúc này, trong cơ chế của nền pháp lý tư sản khơng chỉ có
một loại chủ thể pháp luật duy nhất là cá nhân con người mà xuất hiện một loại
chủ thể khác nữa, đó là tổ chức tập thể cộng đồng hay tập đồn... Từ đó, trong
dân luật tư sản xuất hiện hai khái niệm pháp nhân và thể nhân. Hai khái niệm
này được dùng để chỉ tính chủ thể của hai loại trên (tổ chức và cá nhân) khi
chúng tham gia vào các quan hệ pháp luật chủ yếu là pháp luật dân sự, kinh tế1.
Do vậy, chế định pháp nhân xuất hiện trên thương trường cùng với sản xuất
hàng hố và hình thành thị trường với q trình trao đổi hàng hoá và sự ra đời
của các hội buôn, của các doanh nghiệp tổ chức theo kiểu công ty. Các hội bn,
doanh nghiệp này có trụ sở khác với trú quán hoặc nơi ở của các hội viên, một
tài sản khác với tài sản của các hội viên và khối tài sản này được dùng làm đảm
bảo cho những cam kết của công ty, doanh nghiệp hay của hội đối với khách
hàng mà ngày nay trong thuật ngữ kinh doanh gọi là “đối tác”. Cơng ty cũng có
một người đại diện để hành động phán quyết nhân danh cơng ty, nếu khơng có
những yếu tố trên, mỗi khi đi giao dịch hoặc theo kiện với công ty, người ta phải
kiện từng thành viên, để sai áp tài sản của từng người tại nơi làm việc hoặc nơi ở
của từng người. Như thế thì việc giao dịch với cơng ty không thực hiện được và
không ai muốn giao dịch với công ty nữa, các giao dịch không được thực hiện.
1
Nguyễn Thị Tuyết Nhung, Pháp nhân – Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, Luận văn Thạc sỹ Luật học,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.6.
8
Có thể thấy, ý niệm về pháp nhân xuất hiện cùng với nhu cầu của các tổ
chức tập đoàn, doanh nghiệp, hội buôn, công ty được tham gia vào các quan hệ
pháp luật và được luật pháp bảo vệ lợi ích trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Và mặc dù xuất hiện và tồn tại xuất phát từ nhu cầu khách quan của thực tiễn,
song định nghĩa chung về pháp nhân hiện nay cũng chưa có ở bất cứ pháp luật
của một nước nào mà chỉ dừng lại ở việc quy định các dấu hiệu của pháp nhân
với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, trong đó dấu hiệu cơ bản
nhất vẫn là "pháp nhân tồn tại không phụ thuộc vào sự thay đổi các thành viên
trong pháp nhân đó". Pháp nhân được coi là “cá thể riêng biệt”, có tài sản riêng
độc lập với tài sản của các thành viên của nó, có quyền chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản và thực hiện những hành vi pháp lý nhân danh mình; có qùn
làm ngun đơn, bị đơn trước tịa án, có trách nhiệm độc lập về tài sản.
Quan niệm chung trên thế giới là vậy, cịn ở Việt Nam trước đây cũng
khơng có khái niệm về pháp nhân mà thuật ngữ "pháp nhân" thực chất là một
chế định pháp lý du nhập. Quan niệm về pháp nhân ở Việt Nam có thể được
khái quát thông qua quan điểm pháp lý ở các thời kỳ khác nhau, trong đó có thể
chia thành 2 giai đoạn chính, gồm: thời kỳ kinh tế tập trung và thời kỳ kinh tế thị
trường.
Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung: Chế định pháp nhân là vấn đề
pháp lý ít được nhắc đến. Mặc dù trong nhiều văn bản có quy định một số tổ
chức có tư cách pháp nhân nhưng không nêu rõ pháp nhân là gì và có đặc điểm
gì. Pháp nhân được đề cập tại Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành kèm
theo Nghị định 54/CP ngày 10/3/1975 của Hội đồng Chính phủ.
Thời kỳ này, việc quy định tư cách pháp nhân là phục vụ cho chủ trương,
chính sách quản lý và ký kết hợp đồng kinh tế của Nhà nước. Theo đó, Quy chế
về pháp nhân cũng khơng được xây dựng trên nền tảng khoa học mà được ban
hành nhằm phục vụ cho ý chí chủ quan của nhà nước. Cũng chính vì chưa có
nền tảng lý luận nên những điều kiện trở thành pháp nhân khá mơ hồ, phiến
diện.
9
Cũng cần hiểu rằng, thời kỳ này, các quan hệ dân sự chưa phát triển, nhiều
quan hệ kinh tế của nền kinh tế thị trường chưa được đặt ra như: phá sản, giải
quyết tranh chấp kinh tế, hợp đồng kinh tế nên chế định pháp nhân chưa được
quy định đầy đủ các khía cạnh pháp lý của nó. Vì thế, xét dưới góc độ điều
chỉnh pháp luật, thời kỳ này khơng có sự tồn tại pháp nhân khi tham gia các
quan hệ dân sự - kinh tế theo đúng nghĩa của nó.
Trong thời kỳ kinh tế thị trường: theo chủ trương đổi mới của Đảng, nền
kinh tế nước ta đã bắt đầu có những chuyển biến tích cực theo hướng nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của nhà nước. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế được ban
hành để điều chỉnh các quan hệ kinh tế ngày càng phát triển và đa dạng, trong đó
xác định pháp nhân là chủ thể quan trọng của hợp đồng kinh tế. Nghị định
17/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng hướng dẫn chi tiết thi hành Pháp lệnh Hợp
đồng kinh tế (1989) lần đầu tiên đưa ra khái niệm về pháp nhân. Theo đó, pháp
nhân là tổ chức thỏa mãn các điều kiện, như: được thành lập hợp pháp; có tài sản
riêng và chịu trách nhiệm độc lập bằng tài sản đó; có quyền quyết định độc lập
về hoạt động; tự mình tham gia các quan hệ pháp luật. Ngồi ra, pháp nhân cịn
được đề cập trong Pháp lệnh Hợp đồng Dân sự ngày 01/7/1991, theo đó một tổ
chức được coi là có tư cách pháp nhân phải hội đủ ba điều kiện là: có tài sản
riêng, tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; tham gia các quan hệ pháp luật
một cách độc lập, có thể là nguyên đơn, bị đơn trước tịa; được thành lập hợp
pháp và được pháp luật cơng nhận là một tổ chức độc lập.
Như vậy, các pháp lệnh trên đều quy định về hai thuộc tính cơ bản của pháp
nhân là sự tham gia quan hệ pháp luật và đặc biệt là pháp nhân có tài sản độc lập
và chịu trách nhiệm bằng tài sản. Pháp nhân được coi là chủ thể của quan hệ
pháp luật dân sự chứ không chỉ là chủ thể trong hợp đồng kinh tế trước đây.
Năm 1995, Bộ Luật Dân sự được ban hành, lần này khái niệm pháp nhân
được đưa vào Bộ Luật với những quy định cụ thể. Điều 94 của Bộ Luật Dân sự
quy định một tổ chức được công nhận là pháp nhân.
10
Còn theo Bộ Luật Dân sự năm 2015 được Quốc hội khóa XIII thơng qua tại
kỳ họp thứ 10 ngày 24/11/2015 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017) quy
định: một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
(1) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;
(2) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;
(3) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản của mình;
(4) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Từ các dấu hiệu pháp lý của pháp nhân cho thấy sự tồn tại của pháp nhân
phụ thuộc vào pháp luật. Có nghĩa là, pháp luật quy định tổ chức nào có tư cách
pháp nhân. Bản chất pháp lý của pháp nhân gắn với sự độc lập về tài sản, tham
gia các quan hệ pháp luật bằng tài sản và chịu trách nhiệm hữu hạn về tài sản.
Pháp nhân có khả năng hành động độc lập trước pháp luật. Pháp nhân được pháp
luật thừa nhận có quyền nhân thân và quyền tài sản, có địa vị pháp lý bình đẳng
với các chủ thể khác khi tham gia các quan hệ dân sự - một quan hệ mang tính
chất nền tảng trong đời sống dân sự. Do vậy, pháp nhân cũng là chủ thể của các
quan hệ pháp luật khác như: kinh tế, thương mại, lao động. Tuy nhiên, các Bộ
luật dân sự 1995, 2005 và 2015 chưa đưa ra khái niệm pháp nhân.
Theo pháp luật Việt Nam, bên cạnh Bộ Luật Dân sự, pháp nhân còn là đối
tượng điều chỉnh của nhiều văn bản pháp lý chuyên ngành. Trong nền kinh tế thị
trường, để tạo nên sự đa dạng các hoạt động kinh tế, pháp luật thừa nhận và quy
định các hình thức đầu tư – các chủ thể mới của nền kinh tế. Mỗi hủ thể đều có
quy chế thành lập, hoạt động, giải thể và phá sản theo một quy chế pháp lý
riêng. Các pháp nhân là tổ chức kinh tế chịu sự điều chỉnh rất chặt chẽ của văn
bản pháp luật chuyên ngành như: Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư nước ngoài,
Luật Hợp tác xã, Luật phá sản... Do đó, có thể nói quy chế hoạt động của mỗi
pháp nhân kinh tế cụ thể chịu sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật chung
11
(về các nội dung pháp lý cơ bản của pháp nhân) và những quy phạm pháp luật
cá biệt điều chỉnh về việc thành lập, tổ chức hoạt động được áp dụng riêng cho
mỗi hình thức tổ chức pháp nhân.
Từ phân tích trên, chúng tơi đưa ra khái niệm pháp nhân như sau: Pháp
nhân là một tổ chức thống nhất, độc lập, hợp pháp có tài sản riêng và chịu trách
nhiệm bằng tài sản của mình, nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp
luật một cách độc lập.
Đó là khái niệm về pháp nhân nói chung, cịn về Pháp nhân thương mại đã
tồn tại và hoạt động trong thực tiễn với tư cách là chủ thể kinh doanh (các tổ
chức kinh tế) nhưng chưa được quy định chính thức. Các tổ chức kinh tế cũng là
một loại pháp nhân nên Pháp nhân thương mại mang đầy đủ các dấu hiệu của
một pháp nhân nói chung như vừa đề cập trên.
Đặc thù của pháp nhân là tổ chức kinh tế được thành lập để nhằm mục đích
tìm kiếm lợi nhuận, nó khác với các cơ quan nhà nước như là một pháp nhân
“công” thực hiện các chức năng của nhà nước. Pháp nhân thương mại đã được
chính thức quy định tại Điều 75 Bộ Luật Dân sự 2015 (có hiệu lực từ ngày
01/01/2017) là bước tiến ghi nhận loại pháp nhân này. Đây cũng là cơ sở pháp lý
xác định “địa vị pháp lý” của Pháp nhân thương mại trong nền kinh tế thị
trường. Pháp nhân thương mại được hiểu là các tổ chức hoạt động vì mục đích
kinh doanh, kiếm lời, tồn tại dưới tên gọi khác nhau và tài sản được hình thành
theo nhiều hình thức khác nhau. Các pháp nhân này thường gồm các loại: công
ty, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã...
Theo đó, Pháp nhân thương mại mang đầy đủ các dấu hiệu của pháp nhân
và có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các
thành viên.
1.1.2. Đặc điểm của pháp nhân và pháp nhân thương mại
Thứ nhất, những đặc điểm chung
Nghiên cứu tư cách pháp nhân nói chung và tư cách pháp nhân của các loại
hình doanh nghiệp nói riêng giúp chúng ta nhận thức rõ được bản chất pháp lý
12
của chúng khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự hay thương mại. Nhìn
chung, Pháp nhân thương mạicũng mang đầy đủ bản chất pháp lý của pháp nhân
nói chung, cụ thể:
Một là,Pháp nhân thương mại có năng lực pháp luật. Khác với cá nhân thì
pháp nhân nói chung và Pháp nhân thương mại nói riêng có năng lực pháp luật
khi tham gia các quan hệ pháp luật. Điều đó có nghĩa rằng Pháp nhân thương
mạiphải hoạt động đúng mục đích, khi thay đổi mục đích phải xin phép đăng ký
tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chẳng hạn, khi các pháp nhân này được
các cơ quan nhà nước có thẩm qùn cho phép thành lập thì phải hoạt động theo
đúng mục đích đã được ghi trong Điều lệ. Trường hợp các pháp nhân này muốn
thay đổi mục đích thì phải xin phép đăng ký lại với cơ quan nhà nước có thẩm
qùn. Cịn trong trường hợp pháp nhân được thành lập theo quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm qùn thì việc thay đổi mục đích hoạt động phải tuân
theo quyết định của cơ quan đó.
Hai là, năng lực pháp luật và năng lực hành vi của Pháp nhân thương mại
cùng xuất hiện hoặc cùng chấm dứt ở một thời điểm. Khác với cá nhân, năng lực
hành vi của Pháp nhân thương mại khơng tính theo độ tuổi hay tình trạng sức
khỏe (vì pháp nhân không phải là người ). Kể từ thời điểm Pháp nhân thương
mại được thành lập thì năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của
pháp nhân đó đã được pháp luật cơng nhận. Đồng thời, khi pháp nhân này chấm
dứt hoạt động thì năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của pháp
nhân cũng chấm dứt.
Pháp nhân thương mại chấm dứt năng lực pháp luật và năng lực hành vi
dân sự của mình trong các trường hợp, như: hợp nhất, sáp nhập, chia, giải thể
hoặc bị tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật. Thời điểm Pháp nhân
thương mại chấm dứt kể từ thời điểm xóa tên trong sổ đăng ký pháp nhân hoặc
từ thời điểm ghi trong quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
13
Ba là,Pháp nhân thương mại chỉ có thể thực hiện các giao dịch thơng qua
cơ quan của pháp nhân đó. Về nguyên tắc, cơ quan của pháp nhân là người đại
diện theo pháp luật của pháp nhân và được “ủy quyền” của pháp nhân. Pháp
nhân có thể thực hiện hành vi dân sự thông qua đại diện ủy quyền. Như vậy, ta
có thể hình dung ở đây có hai thực thể pháp lý, đó là pháp nhân và cơ quan hay
đại diện pháp nhân. Vì thế, khi cơ quan pháp nhân nhân danh pháp nhân thể
hiện ý chí của pháp nhân, phù hợp với điều lệ của pháp nhân, thì bản thân cơ
quan pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân. Nhưng
ngược lại, khi cơ quan pháp nhân thực sự không nhân danh pháp nhân mà nhân
danh chính bản thân cơ quan pháp nhân thì chính nó chứ khơng phải là pháp
nhân phải gánh chịu hậu quả pháp lý về những hành vi đó. Bởi lẽ, cơ quan pháp
nhân là cá nhân hay tập thể người cũng đều có thể là chủ thể của quan hệ pháp
luật dân sự.
Thứ hai, những đặc điểm riêng của Pháp nhân thương mại
Một là, mục đích của phấp nhân thương mại là tìm kiếm lợi nhuận
Theo Khoản 7, Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: “Doanh nghiệp là
tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký thành lập
theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh.” Mà theo Khoản 16, Điều 4,
Luật Doanh nghiệp 2014, “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất
cả các cơng đoạn của q trình, đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung
ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”. Điều đó chứng tỏ rằng lợi nhuận
đã được pháp luật thừa nhận như là mục tiêu chủ yếu và là động cơ sản xuất kinh
doanh của các Pháp nhân thương mại.Đặc điểm này là cơ sở để phân biệt rõ với lại các
pháp nhân phi lợi nhuận, khi thành lập mục đích hồn tồn khác như cơ quan nhà
nước, lực lượng vũ trang,…
Hai là, lợi nhuận của Pháp nhân thương mại được chia cho các thành viên.
Vấn đề lợi nhuận là sự quan tâm hàng đầu của Pháp nhân thương mại, nhưng
chia lợi nhuận là sự quan tâm của các thành viên Pháp nhân thương mại.
14
Việc chia lợi nhuận theo từng mơ hình của pháp nhân. Đối với công ty cổ
phần, Điều 132 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định“ Cổ tức trả cho cổ phần ưu
đãi được thực hiện theo các điều kiện áp dụng riêng cho mỗi loại cổ phần ưu đãi.
Cổ tức trả cho cổ phần phổ thông được xác định căn cứ vào số lợi nhuận ròng đã
thực hiện và khoản chi trả cổ tức được trích từ nguồn lợi nhuận giữ lại của cơng
ty. Cổ tức có thể được chi trả bằng tiền mặt, bằng cổ phần của công ty hoặc bằng
tài sản khác quy định tại Điều lệ công ty.
Nếu chi trả bằng tiền mặt thì phải được thực hiện bằng Đồng Việt Nam và
có thể được chi trả bằng séc, chuyển khoản hoặc lệnh trả tiền gửi bằng bưu điện
đến địa chỉ thường trú hoặc địa chỉ liên lạc của cổ đơng”. Với đặc điểm này này,
có những pháp nhân được thành lập và hoạt động để tìm kiếm lợi nhuận nhưng
sử dụng lợi nhuận đó vì những mục tiêu, lợi ích chung (hay lợi ích cơng) mà
khơng chia lợi nhuận thì khơng xác định là Pháp nhân thương mại.
1.1.3. Điều kiện để công nhận pháp nhân thương mại
Một tổ chức được coi là Pháp nhân thương mại khi trước tiên tổ chức đó
phải đảm bảo đủ các điều kiện của một pháp nhân nói chung như sau:
Điều kiện thứ nhất, pháp nhân đó phải được thành lập một cách hợp pháp.
Một pháp nhân được thành lập hợp pháp khi pháp nhân được pháp luật cho phép
thành lập hoặc được pháp luật thừa nhận một cách hợp lý. Dấu hiệu pháp lý này
có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thời điểm một tổ chức được hưởng
quy chế pháp nhân. Khi pháp nhân chưa được khai sinh về mặt pháp lý thì
khơng có sự chuyển dịch về nghĩa vụ giữa người thành lập pháp nhân và pháp
nhân nếu trong giai đoạn tiền thành lập pháp nhân phát sinh một nghĩa vụ tài
sản.
Thời điểm pháp nhân ra đời là sự kiện pháp lý làm phát sinh năng lực pháp
luật và năng lực hành vi của pháp nhân. Dấu hiệu “hợp pháp” ở đây được hiểu
theo là được cơ quan có thẩm quyền thành lập, đăng ký kinh doanh hoặc công
15
nhận. Đối với các Pháp nhân thương mại đa số thơng qua hình thức đăng ký
kinh doanh, trình từ, thủ tục thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
Điều kiện thứ hai, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Một pháp nhân có cơ cấu tổ
chức như thế nào được coi là chặt chẽ, và cần có tiêu chuẩn nào, để xem xét một
tổ chức có tư cách hay khơng dựa vào điều kiện này, ví như “Câu lạc bộ là một
tổ chức xã hội - nghề nghiệp, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng và tài
khoản tại ngân hàng. Hoạt động của Câu lạc bộ theo nguyên tắc tự nguyện, tự
quản, tự trang trải kinh phí và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật”. Việc xem
xét cơ cấu tổ chức của Câu lạc bộ có thỏa mãn điều kiện về cơ cấu tổ chức
khơng thì cịn phải được xem xét sâu hơn, nhưng với một mô hình tự nguyện, tự
quản, thì việc coi đó là pháp nhân thì cần phải đối chiếu với các điều kiện quy
định tại điều 84 của Bộ luật dân sự 2005. Do đó, dấu hiệu này khơng đặc trưng
vì đã là đơn vị, tổ chức đều có thể có cơ cấu tổ chức riêng, song không phải mọi
tổ chức, đơn vị đều là pháp nhân.
Điều kiện thứ ba,Pháp nhân thương mại đó phải có tài sản độc lập, tự chịu
trách nhiệm bằng tài sản đó. Điều kiện này hết sức quan trọng đối với Pháp nhân
thương mại. Muốn tổ chức kinh doanh thì phải có tài sản thể hiện dưới hình thức
vốn, mặt bằng, nhà xưởng, máy móc,…Do đó yếu tố tài sản được xem xét rất kỹ
khi thành lập pháp nhân. Ngoài tài sản, phương án kinh doanh cũng được xem
xét đảm bảo Pháp nhân thương mại có hiệu quả.
Độc lập tài sản là sự phân định minh mạch giữa tài sản của Pháp nhân
thương mại với các pháp nhân khác, giữa Pháp nhân thương mại với các tổ
chức, cá nhân (kể cả thành viên của pháp nhân). Cơ chế góp vốn, huy động vốn
của Pháp nhân thương mại được quy định rất cụ thể làm căn cứ xác định tài sản
thuộc sở hữu của Pháp nhân thương mại.
Pháp luật quy định sở hữu của pháp nhân là sở hữu chung theo phần hoặc
sở hữu hỗn hợp. Tuy nhiên, dưới góc độ xem xét về tình trạng chiếm hữu đối
16
với tài sản, tài sản của pháp nhân luôn tồn tại dưới dạng giá trị, là một khối
thống nhất, không thể phân chia. Pháp luật thừa nhận các trường hợp những
người cùng góp vốn có thể được chia lợi nhuận, rút vốn… nhưng khơng phải lúc
nào những người góp vốn vào cơng ty cũng có qùn đó. Pháp luật quy định chỉ
trong một số trường hợp nhất định thì người sáng lập ra pháp nhân mới được
quyền dự phần (can thiệp) vào khối tài sản của pháp nhân. Sự bảo toàn trạng thái
chiếm hữu một cách nguyên vẹn đối với tài sản của pháp nhân luôn được pháp
luật bảo vệ, mục đích là để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ của pháp nhân
trước chủ thể thứ ba. Do đó, sở hữu của pháp nhân là sở hữu chung theo phần sẽ
có xu hướng khơng tích cực khi nói đến sự tham gia của những người góp vốn
theo phần hoặc theo tỷ lệ vốn góp. Hệ quả tất yếu của việc Pháp nhân thương
mại có tài sản riêng là việc pháp nhân được quyền nhân danh mình tham gia vào
các quan hệ tài sản. Tài sản của pháp nhân là đối tượng bảo đảm cho các quan
hệ trái vụ của pháp nhân. Các chủ thể khác khi tham gia quan hệ tài sản với
Pháp nhân thương mại được bảo đảm bằng việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của
pháp nhân đó trong phạm vi tài sản hiện có của pháp nhân này. Nếu như Pháp
nhân thương mại không tồn tại (bị vỡ nợ) thì trách nhiệm trả đối với các khoản
nợ đương nhiên chấm dứt. Các thành viên Pháp nhân thương mại khơng phải
lấy tài sản riêng của mình để trả nợ thay cho Pháp nhân thương mại mà chỉ phải
mất phần vốn mà mình đã góp vào Pháp nhân thương mại. Đây cũng là nguyên
tắc pháp lý chung áp dụng cho mọi pháp nhân, không chỉ với pháp nhân thương
mại. Cơ sở vật chất áp dụng quy chế này là sự tách bạch một cách tuyệt đối về
tài sản của pháp nhân với chủ thể thành lập pháp nhân. Trong khoa học pháp lý,
việc pháp nhân chỉ phải chịu trách nhiệm đến hết tài sản hiện có của mình khi bị
phá sản được gọi là chế độ trách nhiệm hữu hạn của pháp nhân.
Nói rộng ra, quy chế pháp lý này là yếu tố cơ bản để phân biệt pháp nhân
với chủ thể pháp luật cơ bản khác là thể nhân về trách nhiệm “hữu hạn”. Việc
phân biệt giữa pháp nhân hay thể nhân không phải ở cơ cấu tổ chức, không phải
17
là cá nhân hay tổ chức mà chính là khả năng tách bạch về tài sản và chịu trách
nhiệm về tài sản một cách độc lập.
Điều kiện thứ tư, pháp nhân nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp
luật. Đối với Pháp nhân thương mạicũng vậy, sự tách bạch tuyệt đối về tài sản
đã làm hình thành nên khối tài sản thống nhất thuộc quyền sở hữu của pháp
nhân.Thực hiện qùn kiểm sốt đối với tài sản chung đó, như một yêu cầu tất
yếu, các chủ thể sáng lập ra pháp nhân - những người đã từ bỏ quyền sở hữu của
mình để được quyền quản lý, điều hành đối với pháp nhân - cần có một sự thống
nhất về ý chí trong việc quyết định đưa khối tài sản chung đó vào trong lưu
thơng. Sự thống nhất ý chí này được pháp luật trừu tượng hóa trở thành “ý chí”
của pháp nhân. Pháp nhân có năng lực về tài sản và có ý chí thống nhất là cơ sở
để trở thành một chủ thể độc lập tham gia quan hệ tài sản.
Pháp nhân thực hiện các giao dịch tài sản thông qua cơ chế người đại diện
của pháp nhân. Pháp nhân tham gia các quan hệ dân sự với tư cách là một chủ
thể độc lập như những con người. Để trở thành một chủ thể pháp luật độc lập,
pháp nhân phải có đầy đủ năng lực hành vi và năng lực pháp luật kể từ thời điểm
pháp nhân được khai sinh về mặt pháp lý.
Thế nhưng, khác với cá nhân với khả năng tự hành động của mình, pháp
nhân sẽ khơng có năng lực hành vi nếu như không được thực hiện qua người đại
diện cho pháp nhân. Người đại diện cho pháp nhân được quyền nhân danh pháp
nhân, đại diện cho ý chí của pháp nhân trong việc thiết lập các quan hệ tài sản.
Người đại diện cho pháp nhân chỉ thực hiện những hành vi về mặt thực tế để
đại diện cho pháp nhân trong việc thiết lập, thực hiện các quan hệ tài sản với các
chủ thể khác. Và do đó, một giao dịch của pháp nhân phải được hiểu rằng đó là
sự thiết lập một cách độc lập với pháp nhân chứ không phải với người đại diện
cho pháp nhân. Hệ quả của nó là việc gánh vác các nghĩa vụ về tài sản luôn
thuộc về pháp nhân và không đặt ra với người đại diện pháp nhân.
18
Đối với Pháp nhân thương mại, người đại diện của pháp nhân này có vai trị
quan trọng trong việc thể hiện ý chí của pháp nhân mong muốn xác lập, thực
hiện nghĩa vụ về tài sản trước chủ thể khác. Việc lựa chọn ai là người sẽ thay
mặt mình, đại diện cho quyền lợi của mình đưa khối tài sản của pháp nhân vào
lưu thông của những người sở hữu pháp nhân (những người nắm quyền quyết
định trong quản lý, điều hành pháp nhân) và được pháp luật bảo vệ. Đây là sự
bảo vệ của pháp luật về việc hiện thực hoá những trái quyền đối với những tài
sản của chủ sở hữu pháp nhân. Người đại diện cho Pháp nhân thương mại, do đó
ln là những con người cụ thể, được những người sở hữu Pháp nhân thương
mại chỉ định trước, biểu hiện sự thống nhất về ý chí trong tổ chức nội bộ của
Pháp nhân thương mại đó. Trong công ty, người đại diện theo pháp luật của
pháp nhân phải được ghi trong Điều lệ công ty.
1.2. Vai trò của pháp nhân thương mại
Như trên đã đề cập, lịch sử hình thành pháp nhân nói chung và Pháp nhân
thương mại nói riêng cho thấy, pháp nhân ra đời từ mong muốn của những
người có vốn muốn đầu tư vào một “chủ thể mới” mà chủ thể này sẽ tách bạch
với họ về tài sản và tư cách pháp lý. Pháp nhân thương mại cũng là một chủ thể
được hư cấu bởi pháp luật.Ngay từ cội nguồn khai sinh ra nó, pháp nhân nói
chung và Pháp nhân thương mại nói riêng đã thể hiện rõ mong muốn của các
nhà đầu tư với các vai trò sau:
Một là,Pháp nhân thương mại là cơng cụ liên kết ý chí của nhiều người
thành một ý chí chung. Xuất phát từ mong muốn hội vốn, các cá nhân đã cùng
nhau liên kết lại để thành lập ra một tổ chức có đủ điều kiện để hoạt động, giao
dịch với các đối tác khác - được gọi là pháp nhân. Các cá nhân đã thể hiện ý chí
của mình thơng qua hoạt động của Pháp nhân thương mại. Hay nói cách khác,
mục đích hoạt động của Pháp nhân thương mạithể hiện ý chí của những người
sáng lập, là cơng cụ để ý chí của các nhà đầu tư được liên kết với nhau nhằm đạt
19
được mục đích của mình. Chẳng hạn, khi một Pháp nhân thương mại hoạt động
nhằm mục đích kinh doanh thu lợi nhuận thì cũng thể hiện ý chí của các nhà
sáng lập mong muốn kinh doanh để kiếm lời....
Hai là, Pháp nhân thương mại đại diện cho quyền lợi của nhiều chủ thể
thành viên. Khi các thành viên cùng nhau góp vốn vào thành lập Pháp nhân
thương mại thì pháp nhân đó hoạt động khơng chỉ thể hiện ý chí của từng thành
viên mà còn hoạt động thay mặt các chủ thể bảo vệ quyền lợi của các thành
viên, đại diện cho quyền lợi của các thành viên. Quyền lợi của các thành viên
nằm trong quyền lợi của Pháp nhân thương mại đó. Khi Pháp nhân thương mại
hoạt động đạt được mục đích của mình thì từng thành viên cũng đạt được quyền
lợi như mong muốn. Và ngược lại, khi Pháp nhân thương mại khơng đạt được mục
đích của mình thì qùn lợi của từng thành viên cũng sẽ khơng được bảo vệ.
Ba là, không chỉ là công cụ liên kết ý chí của các chủ thể, Pháp nhân
thương mạicịn là công cụ liên kết nguồn vốn của nhiều chủ thể đầu tư vào một
chủ thể duy nhất. Khi cá nhân có vốn nhưng để hoạt động trong một lĩnh vực
nào đó vẫn khơng đủ thì ngay lập tức họ đã tìm đến một giải pháp đó là thơng
qua việc thành lập nên một tổ chức hay còn gọi là pháp nhân, mà cụ thể ở đây là
Pháp nhân thương mại để các chủ thể có cùng mong muốn góp vốn cùng nhau
hoạt động dưới một chủ thể. Nếu không có giải pháp này thì từng cá nhân sẽ
phải hoạt động riêng lẻ, không tập trung được nguồn lực, nguồn vốn để đạt được
mục đích như mong muốn.
Bốn là, pháp nhân thương mại là công cụ hạn chế rủi ro trong kinh doanh.
Bằng cách mang một số vốn riêng góp vào Pháp nhân thương mại và khi Pháp
nhân thương mại đó tham gia quan hệ tài sản với các chủ thể khác, nếu khơng
may bị đổ vỡ thì từng chủ thể tham gia góp vốn chỉ mất số vốn đã góp, sản
nghiệp cịn lại của họ dành cho cuộc sống gia đình vẫn được đảm bảo an tồn.
Quy chế về Pháp nhân thương mại là một giải pháp được các nhà đầu tư lựa
chọn.
20