Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Cơ hội và thách thức của bách khoa thư việt nam trước bối cảnh hội nhập quốc tế an quang thắng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.42 KB, 8 trang )

CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA BÁCH KHOA THƯ VIỆT NAM
TRƯỚC BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
An Quang Thắng
(Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam)
1. Đặt vấn đề
Bách khoa thư là những cơng trình văn hóa lưu giữ thông tin thành các dữ
liệu tri thức tổng hợp để trở thành công cụ tra cứu và giáo dục mang tính hệ
thống hóa, chính xác cao và thuận tiện. Trên thế giới việc xây dựng và sử dụng
bách khoa thư từ lâu đã trở thành một kênh thông tin hữu ích, rất quan trọng
trong việc quảng bá tri thức nhân loại. Ở Việt Nam, các cơng trình bách khoa thư
đang ngày càng được nghiên cứu cả về mặt lý luận và thực tiễn biên soạn, cũng
như đề cao và chú ý để xuất bản nhiều hơn. Bài viết này nhằm mục đích tìm
hiểu thuật ngữ “hội nhập quốc tế” và gợi mở những vấn đề về cơ hội và thách
thức của bách khoa thư Việt Nam trước bối cảnh hội nhập hiện nay.
2. Khái niệm thuật ngữ “hội nhập quốc tế”
Thuật ngữ “hội nhập quốc tế”, là một thuật ngữ khoa học mang tính liên
ngành. Bởi vậy, trước khi tìm hiểu về nội dung định nghĩa của nó, ta phải hiểu
thế nào là thuật ngữ nói chung và thuật ngữ liên ngành nói riêng.
Thuật ngữ được hiểu là những từ ngữ định danh cho các khái niệm, các
đối tượng được xác định một cách chặt chẽ, chuẩn xác trong mỗi ngành, mỗi
lĩnh vực khoa học chun mơn nào đó. Thuật ngữ luôn luôn biểu thị khái niệm
được xác định trong một ngành khoa học và lệ thuộc vào khái niệm của ngành
đó. Bởi vì mỗi ngành, lĩnh vực khoa học lại có hệ thống thuật ngữ riêng mang
đặc trưng của ngành mình. Ví dụ, các thuật ngữ về kinh tế học như: hàng hóa,
giá trị thặng dư, kinh tế thị trường; thuật ngữ về ngành tốn học: tổng, hiệu,
tích, hàm số, đại số, phân số, đạo hàm, góc, đường thẳng, hình tam giác,…;
thuật ngữ về ngành văn học: hư cấu, hình tượng, trữ tình, tiểu thuyết, thơ,…
Cịn thuật ngữ chuyên ngành là tập hợp hệ thống các thuật ngữ cùng nằm
trong một bộ môn, ngành, lĩnh vực cụ thể. Thuật ngữ chuyên ngành có những
1



đặc trưng sau: tính chính xác về nội dung khái niệm mà nó biểu thị; tiếp theo là
tính hệ thống: mỗi thuật ngữ đều nằm trong một hệ thống các khái niệm của một
ngành nhất định, từ tính hệ thống về nội dung, dẫn đến tính hệ thống về hình
thức biểu hiện; thứ nữa là mang tính quốc tế hóa, đây cũng là biểu hiện cho sự
thống nhất khi nhận thức khái niệm của các chuyên ngành khoa học, bởi lẽ thuật
ngữ biểu thị khái niệm khoa học mà khái niệm khoa học được coi là thành tựu
chung của trí tuệ, tri thức nhân loại.
Bên cạnh đó, do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật hiện nay, đã
khiến cho sự ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau giữa các ngành khoa học diễn
ra ngày càng phổ biến. Chính vì vậy, thuật ngữ trong giai đoạn hiện nay cịn
mang tính liên ngành khá rõ nét: một thuật ngữ có thể được sử dụng ở nhiều
ngành khác nhau. Và thuật ngữ “hội nhập quốc tế” là một ví dụ điển hình. Đây
là thuật ngữ mang tính liên ngành do nó có liên quan đến nhiều lĩnh vực từ kinh
tế học cho đến chính trị học, luật học, xã hội học, ngoại giao…
Trước khi tìm hiểu về thuật ngữ “hội nhập quốc tế”, chúng ta cũng cần
phải hiểu thêm về khái niệm “hội nhập”. Thuật ngữ “hội nhập” bắt đầu được đề
cập lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội VIII của Đảng (năm 1996): “Xây dựng
một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu,
đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu
quả...”1. Từ đó thuật ngữ “hội nhập” được sử dụng và trở thành khái niệm chính
thức trong văn kiện của Đảng ở nước ta.
Trong lĩnh vực từ điển học và bách khoa thư, thuật ngữ “hội nhập” cũng
đã được đưa vào trong cơng trình Từ điển bách khoa Việt Nam, mục từ này được
giải thích như sau: “hội nhập là sự liên kết các công ty hay các nền kinh tế với
nhau, sự HN các cơng ty có hai phương thức: HN nhập và HN ngang... Các nền
kinh tế khác nhau thực hiện sự HN qua các hoạt động mậu dịch và hợp tác trong
chính sách và biện pháp kinh tế. HN các nền kinh tế có những hình thức sau: 1)
1Văn


kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,

2008, trang 342.
2


HN theo thị trường là việc HN kinh tế khu vực thông qua hoặc thúc đẩy bằng
các hoạt động kinh doanh. Điều này có thể thực hiện mà khơng cần đến một
khn khổ HN liên chính phủ. 2) HN theo chính sách, là sự HN kinh tế khu vực
được thúc đẩy thơng qua một thỏa thuận chính thức, thường là thông qua một
thỏa thuận khu vực thương mại ưu đãi”2.
Về thuật ngữ “hội nhập quốc tế”, trong Văn kiện Đại hội XIII (2021) của
Đảng ta đã chỉ rõ:“chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối
quan hệ giữa độc lập dân tộc, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập
quốc tế toàn diện, sâu rộng, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc
lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia. Gắn kết chặt chẽ q trình chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng với việc nâng cao sức mạnh tổng hợp,
huy động tiềm năng của toàn xã hội; đổi mới, hoàn thiện thể chế trong nước,
nâng cao năng lực tự chủ, cạnh tranh và khả năng thích ứng của đất nước”3.
Xét riêng thuật ngữ “hội nhập quốc tế” trong từ điển học và bách khoa
tồn thư, qua tìm hiểu các cơng trình bách khoa thư gần đây, người viết chưa
thấy mục từ này được biên soạn trong bách khoa toàn thư hoàn chỉnh nào ở nước
ta. Do đó dựa vào thực tiễn và lý luận trên thế giới, chúng tơi có thể tự đưa ra
cách định nghĩa về thuật ngữ “hội nhập quốc tế” như sau: “hội nhập quốc tế là
hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế, là quá trình chủ động chấp nhận,
áp dụng và tham gia xây dựng các luật lệ và chuẩn mực quốc tế nhằm phục vụ
tối đa lợi ích quốc gia, dân tộc. Hội nhập quốc tế bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế,
nhưng không giới hạn ở đó, mà có thể diễn ra trên nhiều lĩnh vực. Quá trình này
đã và đang diễn ra trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế đến chính
trị, quốc phịng - an ninh, văn hóa - xã hội và các lĩnh vực khác. Đây cũng là

một quá trình liên tục trong quan hệ hợp tác giữa các nước, có thể đi từ thấp đến
2Hội

đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Từ điển Bách khoa

Việt Nam (Tập II), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2002, trang 384.
3Văn

kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,

2021, tập I.
3


cao, từ trạng thái này đến trạng thái khác, quá trình này khơng chỉ diễn ra thơng
qua việc tham gia các cơ chế hợp tác đa phương mà còn trên nhiều bình diện.
Bản chất của hội nhập quốc tế là quá trình xây dựng và áp dụng các luật lệ và
chuẩn mực chung. Đây chính là các đặc điểm phân biệt “hội nhập quốc tế” với
các hoạt động hợp tác quốc tế khác, như trao đổi, tham vấn, phối hợp chính
sách,... Nói cách khác, “hội nhập quốc tế” là một hình thức hợp tác quốc tế ở
trình độ cao, gắn với luật lệ và chuẩn mực chung giữa các nước.
3. Cơ hội và thách thức của bách khoa thư Việt Nam trước bối cảnh
hội nhập quốc tế
Trong thời đại hiện nay, chiến lược phát triển đất nước phải dựa vào tri
thức và thơng tin, trong đó giáo dục và đào tạo luôn được ưu tiên hàng đầu.
Nhiều học giả trên thế giới đã đánh giá cao vai trò của bách khoa toàn thư đối
với sự phát triển và truyền bá văn hóa và khoa học của con người. Việc biên
soạn các cơng trình bách khoa thư là rất cần thiết cho việc cung cấp cho cộng
đồng những tri thức cơ bản nhất, những thông tin chuẩn xác nhất của nhân loại,
của các quốc gia ở mọi thời đại về mọi lĩnh vực như: khoa học xã hội và nhân

văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, phục vụ cho mọi đối
tượng, mọi trình độ trong việc nghiên cứu và học tập hàng ngày.
Trong số các loại sách tra cứu, bách khoa tồn thư là cơng trình khoa học
hệ thống hóa tri thức tồn diện về một đối tượng mà nó hướng tới ở một thời đại
nhất định hoặc của mỗi quốc gia. Bách khoa toàn thư có nhiều loại: bách khoa
thư tổng hợp phản ánh tri thức chung, bách khoa thư chuyên ngành phản ánh tri
thức của riêng một lĩnh vực, bách khoa thư địa phương phản ánh tri thức về một
vùng, địa phương nào đó, dù thuộc loại hình nào thì bách khoa thư khơng chỉ là
phương tiện tra cứu, tham khảo học tập hữu ích và tiện dụng cho đông đảo
người sử dụng, mà bách khoa tồn thư cịn là niềm tự hào của mỗi địa phương,
dân tộc, qua đó góp phần nâng tầm vị thế của dân tộc đối với các nước trong khu
vực và trên thế giới.
4


Thực tế ở nước ta hiện nay, các cơng trình bách khoa thư chưa có nhiều.
Về bách khoa thư tổng hợp cỡ lớn thì chúng ta vẫn đang thực hiện Đề án biên
soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam. Về bách khoa ngành, chun ngành thì hiện
nay Bộ Quốc phịng đã cho xuất bản một số quyển của: Bách khoa toàn thư
Quân sự Việt Nam (dự kiến 6 tập, đã xuất bản 1 tập); Bộ Công an cũng đã thực
hiện: Bách khoa thư Công an nhân dân Việt Nam (dự kiến 7 tập, đã xuất bản 2
tập). Về chuyên đề và lĩnh vực thì cũng có một số quyển như: Bách khoa thư về
dưỡng sinh, Bách khoa thư về huyết học… Về bách khoa thư địa phương thì có
một số cơng trình như là: Bách khoa tồn thư Hà Nội, Bách khoa toàn thư Hà
Nội phần địa giới mở rộng, Bách khoa thư Du lịch Hà Giang.
Trong thời kỳ hội nhập hiện nay, bách khoa thư Việt Nam đứng trước
nhiều cơ hội cũng như thách thức. Về cơ hội, với việc tồn cầu hóa, sự nhảy vọt
của cơng nghệ thơng tin, phổ biến tri thức diễn ra liên tục và cập nhật nhanh
chóng giúp cho các phương pháp luận về lý thuyết lẫn thực tiễn biên soạn bách
khoa thư mới của thế giới có thể dễ dàng tiếp cận ở nước ta. Trong thời đại cách

mạng công nghiệp 4.0, vai trị của cơng nghệ trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu,
xuất bản phẩm các cơng trình tra cứu, các sách công cụ từ điển, bách khoa thư là
rất quan trọng, góp phần hồn thiện hơn các cơng trình tra cứu. Cùng với sự hội
nhập trong các tổ chức, đoàn thể quốc tế nói chung của nước ta, xét riêng về lĩnh
vực từ điển học và bách khoa thư chúng ta có thể kết nối, tăng cường hợp tác
giao lưu, trao đổi chuyên môn nghiệp vụ với các tổ chức, hiệp hội chuyên
nghành, các trường đại học, các trung tâm nghiên cứu, giảng dạy và xuất bản từ
điển và bách khoa toàn thư nổi tiếng trên khắp thế giới.
Sự hội nhập trong lĩnh vực bách khoa thư của Việt Nam với thế giới còn
thể hiện ngay trong việc chúng ta đang tiến hành các công việc của Đề án Bách
khoa toàn thư Việt Nam (BKTTVN) là một đề án khoa học cấp quốc gia, có quy
mơ đồ sộ, huy động hàng nghìn nhà nghiên cứu của Việt Nam góp sức tham gia.
Tính đến thời điểm hiện nay, Đề án biên soạn BKTTVN đã cơ bản hoàn thành
việc xây dựng đề cương các quyển chuyên ngành, xác định số lượng mục từ cần
biên soạn khoảng 60.000 mục từ, với sự tham gia biên soạn của khoảng 6000
5


nhà khoa học Việt Nam ở cả trong và ngoài nước. Hiện nay, ta có thể tạo ra các
miền học thuật, các trang dữ liệu bách khoa toàn thư mở. Những cá nhân, tổ
chức tham gia xây dựng bách khoa tồn thư mở sẽ được cộng đồng ghi nhận, tơn
vinh theo quy trình: chia sẻ tri thức - kết nối cộng đồng. Sau khi hoàn thành biên
soạn, ngoài bản in giấy, nội dung bộ sách cũng sẽ được công khai trên mạng và
cập nhật liên tục. Trên thế giới, ngay cả những nước có truyền thống làm bách
khoa tồn thư khi làm theo cách cũ nếu tính cả hai giai đoạn biên soạn và biên
tập thường mất trên 10 năm, thậm chí hàng chục năm để hồn thành. Nhưng với
sự phát triển của cơng nghệ, việc này sẽ hồn thành được nhanh hơn, giúp rút
ngắn thời gian biên soạn hơn nhiều lần. Bên cạnh đó ngồi bản in giấy, nội dung
nhiều bộ bách khoa tồn thư lớn đã được cơng khai trên mạng và cập nhật liên
tục theo thời gian thực tế.

Bên cạnh những cơ hội, quá trình hội nhập cũng đặt ra các thách thức như
sau: việc nghiên cứu và biên soạn các bộ bách khoa thư ở nước ta vẫn cịn khá
non trẻ và mới mẻ, các cơng trình biên soạn chưa nhiều nên ta chưa có nhiều
kinh nghiệm trong vấn đề này. Điều này, có thể dẫn đến sự tụt hậu và cả lạc hậu
khi nghiên cứu và thực tiễn bách khoa thư học nước nhà. Bởi vậy, các nhà
nghiên cứu, giới học thuật chuyên ngành bách khoa thư nước ta cần phải tăng
cường trau dồi chuyên môn và kỹ năng làm việc để không bị tụt hậu quá nhiều
so với thế giới. Tuy vậy, chúng ta cũng luôn cần phải giữ vững lập trường, quan
điểm học hỏi, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm từ thế giới, hội nhập quốc
tế để góp phần phát huy các bản sắc truyền thống của dân tộc.
Hi vọng rằng với những kết quả ban đầu đã đạt được, chúng ta sẽ sớm
hồn thành nhiều cơng trình khoa học về lĩnh vực bách khoa thư cả về phương
diện lý luận, phương pháp luận lẫn biên soạn các vộ bách khoa toàn thư mang
nhiều ý nghĩa quan trọng nhằm giới thiệu một cách tồn diện, có hệ thống,
chuẩn xác những tri thức cơ bản nhất về đất nước, con người, lịch sử xã hội, văn
hóa, khoa học, cơng nghệ của Việt Nam và thế giới từ xưa đến nay… Đây vừa là
vinh dự vừa là trách nhiệm của cộng đồng các nhà khoa học Việt Nam.
6


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chủ nhiệm Đề án Biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam, Tài liệu
hướng dẫn biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam, Hà Nội, 2017.
2. Hà Học Trạc, Lịch sử lí luận và thực tiễn biên soạn bách khoa toàn thư, Nxb
Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2004.
3. Hà Quang Năng (Chủ biên), Thuật ngữ học – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2012.
4. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Từ điển
Bách khoa Việt Nam (Tập II), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2002, trang 384.
5. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập, Nxb. Chính trị quốc gia

Sự thật, Hà Nội, 2008.
6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2021, tập I.

7


8



×