Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

TÌM HIỂU về PHẬT GIÁO và GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO tại VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.25 KB, 44 trang )

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Đạo Phật đồng hành với dân tộc Việt Nam, từ khi du nhập
vào Việt Nam đến nay đã 2000 năm lịch sử, nên có thể xem nó
như một phần tài sản văn hóa dân tộc. Trong q trình phát triển
tại Việt Nam, đạo Phật khơng chỉ đơn thuần chuyền tải niềm tin
của con người mà cịn có vai trị góp phần duy trì đạo đức xã hội
nơi trần thế. Ngoài những điểm phù hợp với tình cảm đạo đức của
con người, đạo đức Phật giáo cịn thực hiện thơng qua tình cảm,
tín ngưỡng, niềm tin vào giáo lý. Do đó, tình cảm đạo đức Phật
giáo được người Việt tiếp thu, tạo thành đức tin thiêng liêng bên
trong và chi phối hành vi ứng xử của họ trong các quan hệ cộng
đồng. Do tuân thủ những điều răn dạy về đạo đức của Phật giáo,
người Việt đã sống và ứng xử đúng đạo lý, góp phần làm cho xã
hội ngày thêm tốt đẹp.
Đạo đức Phật giáo thông qua những giáo luật, giáo lý và các
giá trị, chuẩn mực đã đi vào cuộc sống của người dân Việt Nam.
Sự ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến đời sống của người Việt
Nam không chỉ là giáo lý qua kinh kệ, sách vở mà đã trở thành
phong tục, cách sống của dân tộc, của mọi gia đình. Người Việt
Nam truyền thống với tinh thần yêu thương, đoàn kết, đùm bọc
lẫn nhau, phụng dưỡng cha mẹ, tri ân những người có cơng với
cộng đồng, làm điều thiện… đó cũng chính là những điều luân lý
đạo đức cụ thể mà Phật giáo đã truyền dạy. Đạo đức Phật giáo đã
thực sự đi vào cuộc sống, đi vào tâm linh mỗi con người. Trong
suốt chiều dài của lịch sử, đạo đức Phật giáo đã có nhiều đóng
góp đáng kể đối với sự phát triển của dân tộc, những nhân tố
quan trọng góp phần định hình nên các quan niệm chuẩn mực, hệ
giá trị đạo đức trong xã hội Việt Nam truyền thống và hiện đại.
Nhận thấy tầm quan trọng to lớn của Phật giáo, vì vậy ta cần
nghiên cứu và đưa ra các giải pháp phù hợp nhất để ngày càng


phát triển Phật giáo tại Việt Nam.
2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đề tài này tập trung nghiên cứu các vấn đề sau đây:
- Khái quát chung về phật giáo
- Phân tích tình hình phật giáo ở Việt Nam
1


- Các giải pháp giúp Phật giáo ngày càng phát triển ở Việt
Nam.

3. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tôi chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử
và phương pháp logic. Ngồi ra trong q trình làm bài tập, còn
kết hợp sử dụng một số phương pháp khác như: so sánh, thống
kê,….
4. Cấu trúc bài tiểu luận
Cấu trúc bài tiểu luận gồm 3 chương
Chương 1: Khái quát về Phật Giáo
1.1.Hoàn cảnh ra đời
1.2 Kinh điển và giáo lý
1.3 Giáo luật và Nghi lễ
1.4 Các giáo phái
Chương 2: Tình hình Phật Giáo ở Việt Nam
2.1.Quá trình du nhập Pật giáo vào Việt Nam
2.2.Quá trình phát triển Phật Giáo tại Việt Nam
Chương 3: Giải pháp phát triển phật giáo Việt Nam
3.1.Vị trí của Phật Giáo trong các lĩnh vực
3.2.Giải pháp phát triển bền vững Phật Giáo Việt Nam
3.2.1.Những vấn đề đặt ra cho Phật Giáo Việt Nam

3.2.2.Những thành tựu đạt được của Phật Giáo Việt Nam
3.2.3.Giải pháp phát triển bền vững Giáo hội Phật Giáo Việt
Nam.

2


NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIAO
1.1 Hoàn cảnh ra đời
Đạo Phật mang tên người sáng lập là Đà ( hay buddha ). Đạo
phật chính là giáo lý mà Phật Đà đã thuyết giảng. Sau khi ra đời ở
ấn Độ vào thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, đạo
Phật được lưu hành rộng rãi ở các quốc gia trong khu vực á - Phi,
gần đây được truyền tới các nước Âu - Mỹ. Trong quá trình truyền
bá của minh, đạo Phật đã kết hợp với tín ngưỡng, tập tục, dân
gian, văn hố bản địa để hình thành rất nhiều tơng phái và học
phái, có tác động vô cùng quan trọng với đời sống xã hội và văn
hoá của rất nhiều quốc gia.
Buddha vốn là một thái tử tên là Tất Đạt Đa ( Siddharta), con
trai của Trịnh Phạn Vương ( Suđhodana) vua nước Trịnh Phạn, một
nước nhỏ thuộc Bắc ấn Độ ( nay thuộc đất Nê Pan ) ông sinh ra
vào khoảng năm 623 trước cơng ngun. Cuộc đời của Phật Thích
Ca được kể lại ở trong truyền thuyết như sau:
“ Vào một đêm Mahamaia, người vợ chính của Suđhodana,
Vua của người Saia mơ thấy mình được đưa tới hồ thiêng
Anavatápta ở Himalaya. Sau khi các thiên thần tắm rửa cho bà ở
trong hồ thiêng, thì có một con voi trắng khổng lồ có đố hoa sen
ở vịi bước tới và chui vào sườn bà. Ngày hôm sau các nhà thông
thái được vời tới để giải mơ của Hồng hậu. Các nhà thơng thái

cho rằng giấc mơ là điềm Hồng hậu đang có mang và sẽ sinh hạ
được một Hoàng tử tuyệt vời, người sau này sẽ trở thành vị chúa
tể của thế giới hoặc người thầy của thế giới. Đến ngày, đến tháng,
Hoàng hậu Mahamaia trở về nhà cha mình để sinh con. Thế
nhưng vừa đến khu vườn Lumbini, cách thủ đô Capilavastu của
3


người Sakia khơng xa, Hồng hậu trở dạ và vị Hoàng tử đã ra đời.
Vừa ra đời, vị Hoàng tử tí hon đã đứng ngay dậy, đi bảy bước và
nói: “ Đây là kiếp cuối cùng của ta, từ nay ta không phải luôn hồi
một kiếp nào nữa!”.
Đến ngày thứ năm một nghi thức trọng thể được tổ chức và
Hoàng tử được đặt tên là Siđhartha. Để ngăn cản Hoàng tử không
nghĩ tới việc tu hành, đức vua cha đã tìm mọi cách tạo ra quanh
người con trai mình một cuộc sống vương giả. Hoàng tử được học
mọi kiến thức để sau này trở thành một vị vua tài ba anh minh trị
vì một đất nước ấn Độ bao la. Thế rồi, nhà vua và quần thần đã
kén cho Hoàng tử một người vợ kiều diễm. Nhưng cuộc đời vương
giả khơng cán dỗ được Hồng tử trẻ tuổi. Bốn sự việc do các thần
tạo ra đã làm thay đổi hẳn cuộc đời Hồng tử Siddhartha. Đó là
một lần khi đang dạo chơi trong vườn, Hồng tử thấy một ơng già
gày còm, ốm yếu rồi nhận ra một điều rằng mọi người rồi ai cũng
phải già yếu như thế. ít lâu sau Hoàng tử lại được chứng kiến
người ốm và người chết. Ba hoàn cảnh trên làm cho Hoàng tử băn
khoăn, lo nghĩ về kiếp người và muốn cứu con người khỏi những
trầm luôn đau khổ của kiếp luôn hồi: Sinh, lão, bệnh, tử chính sự
việc thứ tư đã đem đến cho Hồng tử niềm hi vọng và an ủi. Lần
đó, Hồng tử nhìn thấy một vị hành khất dáng vẻ bần hàn nhưng
lại ung dung tự tại. Vừa nhìn thấy vị hành khất Hoàng tử như bừng

tỉnh và quyết định sẽ ra đi trở thành nhà hành khất như thế.
Được tin, đức vua Suddhơđana tìm mọi cách ngăn cản Hồng
tử. Thế nhưng Hồng tử khơng thể nào xua đi được bốn sự kiện
mà mình đã chứng kiến khiến lịng dạ của Hồng tử khơng lúc nào
được thanh thản. Ngay cả tin mừng cơng chúa Yashơdhara sinh
cho chàng một Hồng nam cũng khơng làm cho Hồng tử
Sidhartha vui. Ngày đêm khi đứa con ra đời, khi mọi người ngủ
say, Hoàng tử lặng lẽ đến nhìn vợ và con lần cuối rối đánh thức
người đánh xe dậy cùng minh cưỡi con ngựa Canthaca yêu quý rời
khỏi cung. Khi đã rời khỏi đô thành Hoàng tử trút bộ áo Hoàng tộc
và mặc lên người bộ quần áo thường dân. Hoàng tử dùng kiếm cắt
bộ tóc dài của mình và nhờ người đánh xe mang mớ tóc và quần
áo về trao lại cho đức vua. Cịn con ngựa Canthana vì đau khổ
phải chia tay với ơng chủ của nó nên đã lăn ra chết ngay tại chỗ.
Rời hoàng cung, dứt áo ra đi, Hoàng tử Sidhartha đã trở thành nhà
tu hành.
4


Thoạt đầu, Hồng tử đi lang thang đây đó, sống theo kiểu
khổ hạnh. Sau đó, ngài vào rừng tu. Nhà hiền triết Alara Calama
dạy cho chàng các phép thiền định và những triết lý của
upanishad. Học thuyết và thực hành giải thốt cá nhân của
Upanishad khơng hấp dẫn Hồng tử. Chàng đi tiếp và nhập vào
nhóm năm người tu khổ hạnh. Suốt sáu năm trường ép xác Hoàng
tử gần như chỉ cịn bộ xương khơ mà vẫn chưa tìm ra chân lý của
sự giải thoát. Ngài bèn bỏ cuộc sống tu hành khổ hạnh và trở lại
ăn uống bình thường.
Khi Hồng tử Sidhartha 35 tuổi, một hơm ngài đến ngồi dưới
gốc cây bồ đề ở ngoại vi thành phố Gaia thuộc vùng đất của vua

Bimbisura, vua nước Magadha. Cho đến một hơm có nàng
Sudjata, con gái của một nơng dân trong vùng đem cho ngài một
bát cơm to nấu bằng sữa. Ăn xong, ngài xuống sông tắm rửa, rồi
trở lại gốc cây bồ đề. Ngài ngồi thiền định và nguyện sẽ khơng
đứng dậy nếu khơng tìm ra sự giải thốt về điều bí ẩn của sự đau
khổ. Và Hồng tử đã ngồi dưới gốc cây bồ đề suốt 49 ngày đêm.
Bảy tuần lễ đó là cả một chuỗi ngày đầy thử thách. Để phá sự
thiền định của Hoàng tử, con quỹ dữ Mara tìm mọi cách làm
chàng nản chí. Thoạt đầu, quỷ Mara biến thành một sứ giả đến
báo cho Hoàng tử một tin bịa đặt là em trai Hoàng tử là
Đevađatta nổi loạn, bắt nhốt đức vua cha vào ngục và chiếm
nàng Yashodrara làm vợ. Thế nhưng tin dữ đó khơng làm cho
Hồng tử bận tâm. Mara bèn cho gọi các quỷ dữ tới làm ra mưa
to, gió lớn gây ra động đất, lụt lội nhưng Hoàng tử vẫn ngồi bình
thản dưới gốc cây bồ đề, cảm phục trước ý chí kiên định của
Hồng tử, rắn thần Naga dùng thân làm tán cho mưa gió cho
Hồng tử ngồi. Thấy thế quỷ dữ Mara bèn dùng biện pháp quyết
liệt và tinh tế hơn để cơng phá vào thành trì kiên định của Hồng
tử Sidhartha. Nó cho gọi ba cơ con gái xinh đẹp của mình là các
nàng Khát vọng, khối lạc và Dục vọng tới múa nhảy mê hoặc nhà
tu hành trẻ tuổi. Thế nhưng biện pháp cuối cùng của quỷ Mara
cũng thất bại và lũ quỷ phải dời khỏi gốc cây bồ đề. Rạng sáng
ngày 49, Siddhartha đã tìm ra bí mật của sự đau khổ, đã tìm ra
được vì sao thế giới lại tràn đầy khổ đau và đã tìm ra được cách
để chiến thắng sự đau khổ. Siddhartha đã hoàn toàn giác ngộ và
trở thành Buddha (Đấng giác ngộ). Sau khi giác ngộ Đức phật còn
ngồi tiếp bảy ngày nữa dưới cây bồ đề suy ngẫm về những chân
lý diệu kỳ mà mình đã khám phá. Ngài phân vân khơng biết có
5



nên phổ biến đạo pháp của mình cho thế giới khơng vì có huyền
diệu q khó hiểu q đối với mọi người. Chính thượng đế Brahma
phải giáng trần để khích lệ Đức phật truyền bá đạo pháp của
mình cho thế gian. Chỉ khi đó Phật mới dời khỏi gốc cây bồ đề đi
đến khu vườn Lộc Uyển gần Varanasi để giảng bài thuyết pháp
đầu tiên cho năm người bạn tu khổ hạnh của mình. Sự kiện này
được ghi chép lại như một sự kiện quan trọng nhất của Đạo phật
và được gọi là Phật quay bánh xe Đạo pháp ( chuyển Pháp Luân ).
Giáo pháp mới của Đạ phật đã gây ấn tượng mạnh đối với năm
nhà tu, họ nhanh chóng trở thành những mơn đồ đầu tiên của Đức
Phật. Vài ngày sau số môn đồ của Phật đã tăng lên 60 người, theo
thời gian số môn đồ Đạo Phật ngày càng tăng và các tổ chức tăng
gia đã ra đời.
Đến năm 80 tuổi, biết mình tuổi cao, sức yếu, Đức Phật cùng
các môn đồ trở về chân núi Hymalaya nơi ngài sinh ra và lớn lên.
Trên đường Phật đã chuẩn bị mọi thứ cho các môn đồ để họ có thể
tự lập được sau khi ngàu viên tịch. Và, tại một nơi thuộc ngoại vi
thành phố Cusinagara, Phật đã ra đi. Câu nói cuối cùng của Phật
là: “ Hỡi các tì kheo tất cả những gì đang tồn tại rồi sẽ qua đi. Vậy
các người càng không nên ngừng gắng sức!”.
1.2 Kinh điển và giáo lý
Kinh sách của Phật giáo được chia làm 3 tạng (Tam tạng kinh
điển):
- Kinh tạng: là những sách ghi chép lời Phật giảng dạy về
giáo lý, cịn gọi là Khế kinh, có nghĩa như là một chân lý.
- Luật tạng: là sách ghi chép những giới luật của Phật chế
định dành cho 2 chúng xuất gia và 2 chúng tại gia phải tuân theo
trong quá trình sinh hoạt và tu học, đặc biệt là các quy định đối
với hàng đệ tử xuất gia.

- Luận tạng: là sách giảng giải ý nghĩa về kinh, luật.
Về số lượng, kinh sách của Phật giáo được coi là một kho
tàng vĩ đại. Riêng Đại tạng kinh có gần 10.000 pho sách, ngồi ra
cịn rất nhiều những trước tác, bình luận, giải thích giáo lý và rất
nhiều các lĩnh vực khác, như: Văn học, triết học, nghệ thuật, luân
lý học được truyền bá khắp thế giới và được dịch ra nhiều thứ
tiếng. Nguyên bản thì chép bằng chữ Pali và chữ Phạn.
* Giáo lý:
6


Giáo lý của đạo Phật có rất nhiều nhưng đều xuất phát từ
thực tế cuộc sống, không trừu tượng, siêu hình, giáo điều hay
khiên cưỡng, khơng ép buộc mà hồn tồn chỉ mang tính định
hướng để cho mọi người tuỳ điều kiện, hoàn cảnh, nhận thức áp
dụng linh hoạt để dù tu theo cách nào trong 84.000 pháp môn tu
Đức Phật đã chỉ ra thì cuối cùng cũng đạt đến mục đích sống yên
vui, ấm no và hạnh phúc cho mỗi người, cho gia đình và xã hội.
Giáo lý cơ bản của đạo Phật có 2 vấn đề quan trọng, đó là Lý
Nhân duyên và Tứ Diệu đế (4 chân lý).
Lý Nhân duyên
Phật giáo quan niệm các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ luôn
luôn vận động và biến đổi không ngừng theo quy luật Thành - Trụ
- Hoại - Khơng (mỗi sự vật đều có q trình hình thành, phát triển
và tồn tại một thời gian, rồi biến chuyển đi đến huỷ hoại và cuối
cùng là tan biến, ví như một làn sóng, khi mới nhơ lên gọi là
“thành”, khi nhô lên cao nhất gọi là “trụ”, khi hạ dần xuống gọi là
“hoại”, đến khi tan rã lại trở về “không”) và đều bị chi phối bởi
quy luật nhân - duyên, trong đó nhân là năng lực phát sinh, là
mầm để tạo nên quả và duyên là sự hỗ trợ, là phương tiện cho

nhân phát sinh, nảy nở. Tuỳ vào sự kết hợp giữa nhân và duyên
mà tạo thành các sự vật, hiện tượng khác nhau. Có hay khơng
một hiện tượng, sự vật là do sự kết hợp hay tan rã của nhiều
nhân, nhiều duyên. Nhân và duyên cũng khơng phải tự nhiên có
mà nó được tạo ra bởi sự vận động của các sự vật, hiện tượng và
quá trình hợp - tan của các nhân - dun có trước để tạo ra nhân duyên mới, Phật giáo gọi đó là tính “trùng trùng dun khởi”.
Về con người, Phật giáo cho rằng cũng khơng nằm ngồi quy
luật: Thành - Trụ - Hoại - Khơng, hay nói cách khác bất cứ ai cũng
phải tuân theo quy luật: Sinh - Trụ - Dị - Diệt (đó là chu trình con
người được sinh ra, lớn lên, tồn tại, thay đổi theo thời gian và cuối
cùng là diệt vong). Khi con người mất đi thì tinh thần cũng theo
đó mà tan biến. Phật giáo không công nhận một linh hồn vĩnh
cửu, tách rời thân thể để chuyển từ kiếp này sang kiếp khác.
Phật giáo quan niệm con người được sinh ra không phải là
sản phẩm của một đấng tối cao nào đó, càng khơng phải tự nhiên
mà có. Sự xuất hiện của một người là do nhiều nhân, nhiều duyên
hội hợp và người đó khơng cịn tồn tại khi nhân dun tan rã.
Nhân - duyên ở đây được Phật giáo khái quát thành một chuỗi 12
7


nhân duyên (thập nhị nhân duyên), là sợi dây liên tục nối tiếp con
người trong vòng sinh tử luân hồi: 1) Vô minh; 2) Hành; 3)Thức; 4)
Danh sắc; 5) Lục nhập; 6) Xúc; 7) Thụ; 8) Ái; 9) Thủ; 10) Hữu; 11)
Sinh; 12) Lão tử. Trong đó, Vơ minh là duyên của "Hành", Hành là
duyên của "Thức", Thức là duyên của "Danh sắc", Danh sắc là
duyên của "Lục nhập", Lục nhập là duyên của "Xúc", Xúc là duyên
của "Thụ", Thụ là duyên của "Ái", Ái là duyên của "Thủ", Thủ là
duyên của "Hữu", Hữu là duyên của "Sinh", Sinh là duyên của
"Lão tử". Phật giáo cho rằng 12 nhân duyên có quan hệ gắn bó

mật thiết với nhau, cái này là quả của cái trước nhưng lại là nhân,
là duyên cho cái sau. Trong chuỗi nhân duyên, Phật giáo chú trọng
nhấn mạnh tới yếu tố “vô minh”, hiểu theo nghĩa đen là một màn
đêm u tối, khơng có ánh sáng dẫn đường, khơng biết lối mà đi;
hiểu theo nghĩa bóng đó là sự thiếu hiểu biết của con người về thế
giới khách quan, về bản chất chân thực của sự vật hiện tượng dẫn
tới nhìn nhận thiên kiến, thiển cận, phiến diện, chấp ngã, đề cao
cái “Ta”, từ đó dẫn dắt đến hành động sai trái, tạo nên nghiệp
xấu, gây nên “nhân” xấu, sinh ra “quả” xấu, làm cho con người
phải chịu đau khổ, mãi quẩn quanh trong vòng sinh tử luân hồi.
Do đó, để có thể thụ hưởng yên vui, an lạc trong cuộc đời con
người phải học tập, lấy trí tuệ làm sự nghiệp (duy tuệ thị nghiệp)
để xố bỏ “vơ minh”, tạo ra những nhân, dun tốt để gieo trồng
nên quả ngọt.
Phật giáo quan niệm mọi sự vật ln ln biến chuyển, đổi
thay, mọi thứ ta có, ta nhìn thấy đều chỉ là vơ thường. Vơ thường
là không thường xuyên, mãi mãi ở trong một trạng thái nhất định
mà nó sẽ ln biến đổi, tồn tại hay khơng tồn tại, có hay khơng có
đó chỉ là vấn đề thời gian. Khi đầy đủ nhân duyên hội hợp thì sự
vật hiện hữu, gọi là "có"; khi nhân dun tan rã thì sự vật biến
diệt, lại trở về là "không". Muôn vật từ nhân duyên mà sinh và
cũng do nhân duyên mà diệt. Lý nhân duyên làm cho ta thấy con
người là một đấng tạo hoá tự tạo ra đời sống của mình, con người
làm chủ đời mình, làm chủ vận mệnh của mình. Cuộc đời con
người vui sướng hay phiền não đều do nhân và duyên mà con
người tự tạo ra chi phối. Từ cách nhìn nhận đó, Đức Phật khuyên
con người sống hướng thiện, thực hiện tâm từ bi, biết yêu thương
và chia sẻ, vì hạnh phúc của mọi người và hạnh phúc của mình,
sống tự tại an lạc, khơng cố chấp bám víu vào sự vật, hiện tượng,
không bị ảnh hưởng, chi phối bởi sự vô thường của cuộc sống.

8


Tứ diệu đế
Khi còn là Thái Tử, Đức Phật đã nhận ra cuộc đời đầy rẫy sự
đau khổ, do đó Ngài đã quyết chí ra đi tu hành để lý giải vì sao
con người ta lại đau khổ và làm sao để thoát khổ. Sau khi đắc
đạo, Đức Phật đã nhận rõ căn nguyên nguồn cội của sự khổ đau
và phương pháp để diệt trừ nó, Đức Phật đã đem kiến thức của
mình truyền bá và hướng dẫn cho người xung quanh thực hành.
Song giai đoạn đầu truyền bá không thành cơng vì lý lẽ Đức
Phật nói ra q cao siêu mà trình độ của những người nghe đa số
cịn hạn hẹp nên họ không hiểu, dần dần rời bỏ khỏi những buổi
thuyết pháp của Phật. Từ đó Phật đã chuyển đổi phương pháp
giảng đạo từ tư duy lý luận sang hướng dẫn thực hành, đó là pháp
mơn Tứ diệu đế.
Tứ diệu đế đã trở thành giáo lý căn bản, xuyên suốt trong
toàn bộ kinh điển Phật giáo. Tứ diệu đế bao gồm: Khổ đế, Tập đế,
Diệt đế và Đạo đế.
- Khổ đế: Đức Phật chỉ ra rằng, con người ta sống ở trên đời
ai cũng phải gặp những điều đau khổ. Ngài đã khái quát cái khổ
của con người thành 8 loại khổ (bát khổ):
+ Sinh (sinh ra đời và tồn tại cũng phải trải qua những đau
khổ);
+ Lão (tuổi già sức yếu là khổ);
+ Bệnh (đau ốm là khổ);
+ Tử (chết là khổ);
+ Ái biệt ly khổ (những người thân yêu phải xa nhau là khổ);
+ Oán tăng hội khổ (những người có ốn thù mà phải gặp gỡ
cũng khổ);

+ Cầu bất đắc khổ (điều mong cầu không toại nguyện là
khổ);
+ "Ngũ ấm xí thịnh khổ" (thân ngũ đại của con người được
gọi là thân ngũ ấm, đó là: sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và
thức ấm. Thân ngũ đại của con người luôn bị chi phối, khổ sở bởi
luật vơ thường, bởi thất tình, lục dục lơi cuốn… làm cho khổ sở).
Đức Phật nói Khổ đế không phải để làm cho con người buồn
chán, bi quan mà trái lại, làm cho mọi người nhìn rõ về quy luật và
9


thực tế của cuộc sống để trân trọng những gì mình có, khi gặp
cảnh khổ cũng khơng hoảng loạn mà điềm tĩnh đón nhận, khơng
bị hồn cảnh chi phối, tìm phương án giải quyết cho tốt đẹp.
- Tập đế: nguyên nhân tạo thành những nỗi khổ hiện hữu ở
đời, Đức Phật gọi là Tập đế. Đức Phật khái quát nguyên nhân nỗi
khổ thành “Thập kết sử” (mười điều cốt lõi làm cho con người bị
khổ đau), đó là: tham (tham lam), sân (giận dữ), si (si mê), mạn
(kiêu ngạo), nghi (nghi ngờ), thân kiến (chấp ngã), biên kiến (hiểu
biết không đầy đủ, cực đoan), tà kiến (hiểu không đúng, mê tín dị
đoan…), kiến thủ (bảo thủ về ý kiến của mình), giới cấm thủ (làm
theo lời răn cấm của tà giáo). 10 điều này đều có thể ở chính
ngay trong con người và gây nên đau khổ, tuy nhiên Đức Phật
nhấn mạnh đến 3 điều: Tham - Sân - Si, Phật giáo gọi là “Tam
độc” là nguyên nhân chính của sự khổ đau.
- Diệt đế: Đức Phật chỉ ra kết quả an vui, hạnh phúc đạt được
khi con người diệt trừ hết những nỗi khổ, muốn diệt khổ phải diệt
tận gốc, đó là diệt cái nguyên nhân gây ra đau khổ.
- Đạo đế: là những phương pháp Đức Phật hướng dẫn để
chúng sinh thực hành diệt khổ, được vui. Đây là phần quan trọng

nhất trong Tứ diệu đế, vì khi biết rõ đau khổ, nguyên nhân của
đau khổ, mong muốn được thoát khổ để đạt đến cảnh giới an vui
nhưng nếu khơng có phương pháp hiệu nghiệm để thực hiện ý
muốn ấy thì khơng giải quyết được vấn đề và càng thêm đau khổ.
Do đó, Đạo đế đã được Đức Phật rất chú trọng, quan tâm để tuỳ
căn cơ của chúng sinh mà phân tích cụ thể để hướng dẫn mọi
người thực hiện cho phù hợp với bản thân mình.
Đạo đế có 37 phẩm chia làm 7 loại, đó là:
- Tứ niệm xứ (bốn điều mà người tu hành thường xuyên nghĩ
đến): quán thân bất tịnh; quán tâm vô thường; quán pháp vô ngã;
quán thọ thị khổ.
- Tứ chánh cần (bốn phép siêng năng chân chính để tinh tấn
tu hành): tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sinh; tinh
tấn dứt trừ những điều ác đã phát sinh; tinh tấn phát triển những
điều lành chưa phát sinh; tinh tấn tiếp tục phát triển những điều
lành đã phát sinh.

10


- Tứ như ý túc (bốn phép thiền định để việc tu hành được
phát triển): Dục như ý túc, tinh tấn như ý túc, nhất tâm như ý túc
và quán như ý túc.
- Ngũ căn (năm điều căn bản giúp người tu hành đạt chính
quả): Tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn.
- Ngũ lực (năm năng lực để cùng ngũ căn giúp người tu hành
đạt chính quả): Tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực và huệ lực.
- Thất bồ đề phần (bảy pháp tu tập giúp người tu hành thành
tựu đạo quả đại giác): Trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, niệm,
định, xả.

- Bát chính đạo (8 con đường chân chính hợp với chân lý Tứ
đế để tiến tới đạo Niết bàn, thoát khỏi khổ đau, đó là: Chính kiến,
chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính tinh
tiến, chính niệm và chính định). Trong 37 nội dung trợ đạo như đã
nói ở trên, Bát chính đạo được coi là pháp mơn chính quan trọng
nhất, nó phù hợp với mọi căn cơ, nhận thức, mọi thời đại và mọi
người. Giá trị của Bát chính đạo là giúp người ta tu dưỡng thân
tâm, cải thiện hoàn cảnh, thoát khỏi khổ đau, phiền não, bước lên
con đường giải thoát, an vui, tự tại.
1.3 Giáo luật và Nghi lễ
Giáo luật Phật giáo được Đức Phật chế ra xuất phát từ thực
tế trong khi điều hành Tăng đoàn với những điều quy định, cấm
nhằm duy trì tổ chức tăng đoàn, hướng mọi người tới chân - thiện
- mỹ, phát triển hạnh từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha, biết làm lành
lánh dữ để đạt tới giác ngộ và giải thoát.
Cốt lõi của giáo luật Phật giáo là “Ngũ giới” và “Thập thiện”.
- Ngũ giới là 5 giới cấm:
+ Khơng sát sinh;
+ Khơng nói sai sự thật;
+ Khơng tà dâm;
+ Không trộm cắp;
+ Không uống rượu.
- Thập thiện là mười điều thiện nên làm, trong đó:

11


+ Ba điều thiện về thân: không sát sinh, không trộm cắp,
không tà dâm;
+ Bốn điều thiện về khẩu: không nói dối, khơng nói hai

chiều, khơng nói điều ác, khơng nói thêu dệt;
+ Ba điều thiện về ý: khơng tham lam, không giận dữ, không
tà kiến.
Trên cơ sở của quy định Ngũ giới và Thập thiện, Phật giáo đã
quy định chi tiết và cụ thể đối với từng loại xuất gia.
- Đối với hàng đệ tử xuất gia đã thụ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni:
Theo Luật Tứ phận thì kinh Giới bản quy định:
+ Tỳ kheo phải giữ 250 giới.
+ Tỳ kheo Ni phải giữ 348 giới.
Theo Nam truyền Luật tạng thì:
+ Tỳ kheo phải giữ 227 giới
- Đối với hàng đệ tử xuất gia còn ở bậc Sa di phải giữ 10 giới.
Ngồi ngũ giới như đã nói ở trên, người tu ở bậc Sa di còn phải giữ
thêm 5 giới nữa là:
+ Không trang điểm, không bôi nước hoa hay xức dầu thơm.
+ Không nằm giường đệm cao sang, giường rộng dùng cho
hai người.
+ Không xem ca hát nhảy múa và cũng không được ca hát
nhảy múa.
+ Không giữ vàng bạc.
+ Không ăn phi thời (quá giờ quy định).
Tăng Ni phải nương vào giới luật để làm mực thước sinh hoạt
hàng ngày.
- Đối với Phật tử tại gia:
Sau khi thụ Tam quy (quy Phật, quy Pháp, quy Tăng) người
Phật tử cần trì Ngũ giới để ngăn cấm những tưởng niệm ác, hành
động bất chính, gieo lịng từ bi, bình đẳng trong chúng sinh giúp
họ được tiến trên con đường giải thoát, an lạc.

12



Ngoài ra người Phật tử tuỳ căn cơ, sở nguyện có thể thụ Bát
quan trai giới (8 giới). Nội dung Bát quan trai giới gồm có Ngũ giới
và thêm 3 điều quy định nữa:
+ Không trang điểm
+ Không dùng đồ sang trọng (giường cao rộng; không ca
múa hát xướng và cũng không xem nghe ...).
+ Không ăn uống không đúng giờ.
- Đạo Phật cũng đưa ra những lời khuyên, hướng dẫn mọi
người trong cách sống chung, tu hành cùng giữ trọn vẹn hịa khí,
ví dụ như tinh thần Lục hịa (6 điều hòa hợp):
+ Thân hòa đồng trụ
+ Giới hòa đồng tu
+ Khẩu hịa vơ tranh
+ Ý hịa đồng duyệt
+ Kiến hồ đồng giải
+ Lợi hịa đồng qn
Có thể nói, giáo luật của Phật giáo có nhiều điểm tương đồng
với truyền thống văn hoá của các dân tộc, đặc biệt là ở các nước
phương Đơng, trong đó có Việt Nam. Giáo luật của Phật giáo đã có
đóng góp khơng nhỏ vào việc điều chỉnh hành vi, hình thành nhân
cách, đạo đức lối sống của một bộ phận đông đảo nhân dân Việt
Nam.
* Lễ nghi
Lễ nghi của Phật giáo thể hiện sự trang nghiêm, tơn kính tới
người sáng lập (đức Bổn sư). Ban đầu, lễ nghi của Phật giáo khá
đơn giản và đồng nhất, song cùng với quá trình phát triển, Phật
giáo phân chia thành nhiều tông phái và du nhập vào các dân tộc
khác nhau, hồ đồng cùng với tín ngưỡng của người dân bản địa,

lễ nghi của Phật giáo dần có sự khác biệt giữa các khu vực, vùng
miền…
Một số ngày lễ, kỷ niệm lớn trong năm của Phật giáo (tính
theo ngày âm lịch):
- Tết Nguyên đán
- Rằm tháng giêng: lễ Thượng nguyên
13


- Ngày 08/02 : Đức Phật Thích Ca xuất gia
- Ngày 15/02: Đức Phật Thích Ca nhập Niết bàn
- Ngày 19/02: Khánh đản Đức Quán Thế Âm Bồ tát
- Ngày 21/02: Khánh đản Đức Phổ Hiền Bồ tát
- Ngày 16/3: Khánh đản Đức Chuẩn Đề Bồ tát
- Ngày 04/4: Khánh đản Đức Văn Thù Bồ tát
- Ngày 15/4: Đức Phật Thích Ca đản sinh
- Ngày 13/7: Khánh đản Đức Đại Thế Chí Bồ tát
- Ngày 14/7: Lễ Tự tứ
- Ngày 15/7 : Lễ Vu lan
- Ngày 30/7: Khánh đản Đức Địa Tạng Bồ tát
- Ngày 30/9: Khánh đản Đức Phật Dược sư
- Ngày 17/11: Khánh đản Đức Phật A Di Đà
- Ngày 08/12: Đức Phật Thích Ca thành đạo
Đối với Phật giáo Nam tơng Khmer cịn có một số ngày lễ
theo truyền thống người Khmer, như:
- Ngày 13 - 15/4 dương lịch: Lễ mừng năm mới (CholChơnam
Thmây - Tết dân tộc của người Khmer);
- Ngày 30/8 dương lịch: Lễ cúng ông bà tổ tiên (lễ Donta)…
- Đầu tháng 9 hoặc tháng 10 âm lịch (sau khi kết thúc khoá
hạ): Lễ Dâng Y (hay lễ Dâng Bông);

- Ngày 15/10 âm lịch: Lễ cúng trăng (Okcombok).
Với những giá trị đạo đức, văn hóa, tư tưởng hịa bình, đồn
kết, hữu nghị mà Phật giáo đóng góp cho xã hội, năm 1999, tại
phiên họp thứ 54 Đại hội đồng Liên hợp quốc đã công nhận Đại lễ
Phật đản, tên gọi theo truyền thống của Việt Nam (hay Đại lễ
Vesak, Đại lễ Tam hợp Đức Phật - theo tên gọi quốc tế để kỷ niệm
ngày Phật đản sinh, ngày Phật thành đạo và ngày Phật nhập Niết
bàn) là lễ hội văn hố - tơn giáo quốc tế của Liên hợp quốc. Lễ hội
này được tổ chức hàng năm tại trụ sở Liên hợp quốc và các trung
tâm Liên hợp quốc trên thế giới.
1.4 Các giáo phái
14


* Hệ phái Phật giáo
Trong 49 năm thuyết pháp, Đức Phật đã tuỳ theo căn cơ, đối
tượng người nghe; tuỳ vào từng vấn đề; tuỳ vào phạm vi thời gian,
không gian, điều kiện, hoàn cảnh… mà thuyết giảng. Sau khi Phật
nhập Niết bàn, các vị Bồ tát, Thánh tăng đã tổ chức 4 lần kết tập
kinh điển để lưu truyền giáo lý của Phật về sau cho các hàng đệ
tử có điều kiện tiếp cận, tìm hiểu, nghiên cứu và thực hành.
- Kết tập kinh điển thứ nhất được tổ chức tại thành Vương Xá
sau khi Phật nhập diệt 7 ngày (có sách nói là 3 tháng) tập trung
vào việc các Đại đệ tử của Phật tổng hợp và tụng lại các phần
Kinh – Luật – Luận, tuy nhiên kết tập kinh điển lần này chỉ là sự
tổng hợp và truyền tụng lại cho nhau qua lời nói, chưa có điều
kiện để lưu lại trên văn tự.
- Kết tập kinh điển thứ hai được tổ chức tại thành Tỳ Xá Ly
sau khi Phật nhập diệt hơn 100 năm để luận giải kinh điển, thực
hành giới luật và tranh luận về 10 điều luật mới một bộ phận Tỳ

kheo trẻ đưa ra.
- Kết tập kinh điển lần thứ ba được tổ chức tại Thành Hoa Thị
sau khi Phật nhập diệt 236 năm và cho đến lúc này cả 3 tạng Kinh
– Luật – Luận mới chính thức được ghi chép bằng văn tự Pa li vào
các lá bối.
- Kết tập kinh điển lần thứ tư được tổ chức tại thành Ca Thấp
Di La sau khi Phật nhập diệt khoảng 600 năm. 3 tạng Kinh – Luật –
Luận thời kỳ này đã được khắc bằng chữ Phạn vào các lá đồng dát
mỏng rồi được lưu giữ tại một ngôi tháp lớn ở nước Kế Tân.
Sự phân chia hệ phái trong Phật giáo xuất hiện từ lần kết tập
kinh điển thứ 2. Trong 10 điều luật mới một bộ phận tỳ kheo trẻ
đưa ra và cho là hợp chính pháp, đó là: giáo diêm tịnh (được đem
muối đựng trong sừng để bỏ vào các món ăn khi khơng đủ muối);
lưỡng chỉ sao thực tịnh (bóng nắng quá ngọ 2 ngón tay vẫn được
ăn); tụ lạc gian tịnh (trước ngọ ăn rồi nhưng đến làng khác vẫn
được phép ăn); trụ xứ tịnh (ở đâu thì làm lễ Bá tát ngay ở đấy);
tuỳ ý tịnh (quyết nghị đã được Đại hội dù ít dù nhiều cho thơng
qua đều có giá trị thi hành); cửu trú tịnh (noi theo điều lệ, tập
quán); sinh hoà hợp tịnh (được uống sữa pha nước sau giờ ngọ);
thuỷ tịnh (rượu mới lên men được pha với nước uống trị bệnh); bất
ích lũ Ni sư đàn tịnh (được dùng tọa cụ khơng viền, kích thước lớn
15


hơn mẫu định); thụ súc kim ngân tiến định (được nhận tiền vàng
bạc cúng dàng). Các vị tỳ kheo lớn tuổi khơng chấp nhận và cho
đó là 10 điều phi pháp. Các vị tỳ kheo trẻ không chịu, tách ra
thành lập một đoàn thể riêng với chủ trương hành đạo theo tinh
thần "Khế lý - khế cơ", phù hợp với căn cơ, hoàn cảnh từng thời
kỳ, từng vùng, miền của chúng sinh. Vì các vị chiếm số đơng nên

gọi là phái Đại chúng bộ. Các vị cao tăng với chủ trương giữ y giới
luật như ngày Đức Phật còn tại thế, đa số là những người đạo cao,
đức trọng nên gọi là phái Thượng toạ bộ.
Phái Thượng toạ bộ truyền sang phía Nam qua Tích Lan,
Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia nên gọi là hệ phái Phật giáo
“Nam truyền” hay “Nam tông”. Phái Thượng toạ bộ chủ trương
tôn trọng lối truyền thừa và chủ trương tự độ, tự giác.
Phái Đại chúng truyền sang Trung Quốc rồi truyền vào Việt
Nam và Triều Tiên, Nhật Bản ... được gọi là hệ phái Phật giáo “Bắc
truyền” hay “Bắc tông”. Phái này chủ trương linh động, khoan
dung trong giới luật, không cố chấp vào từng chữ trong kinh để
rút ra những bài học về triết lý thực hành với tinh thần nhập thế,
phổ độ chúng sinh, làm cho chúng sinh cùng giác ngộ như mình,
có nghĩa là: Tự độ, độ tha; Tự giác, giác tha.
* Tông phái Phật giáo
Cùng với sự phân chia hệ phái của Phật giáo và với cách tiếp
cận, nhìn nhận khác nhau về giáo lý Phật giáo, với tinh thần khế
lý - khế cơ, từ hai phái lớn của Phật giáo lại được phân thành
nhiều tơng phái khác nhau. Có thể nói, sự hình thành các tơng
phái khơng phải là sự phân liệt, tranh chấp trong Phật giáo về
quyền lợi, địa vị của Tăng chúng, cũng không phải là sự phủ định
lẫn nhau mà đây chính là sự phát triển làm cho Phật giáo trở nên
vững chắc.
Trước đây, Phật giáo có nhiều tơng phái, sau này phần nhiều
các tơng phái có cùng khuynh hướng sát nhập lại với nhau, cịn lại
10 tông phái:
1.

Câu Xá tông


2.

Thành Thật tông

3.

Tam Luận tông

4.

Pháp Tướng tông
16


5.

Thiên Thai tông

6.

Hoa Nghiêm tông

7.

Luật tông

8.

Thiền tông


9.

Tịnh độ tông

10. Mật tơng
Chín tơng phái (từ 1 đến 9) thuộc loại bộ Hiển giáo. Trong
Hiển giáo lại được chia ra Nam tông (1,2) và Bắc tông (từ 3 đến
9). Hiển giáo là thứ giáo lý có thể dùng ngơn ngữ để phát biểu,
diễn đạt được. Hiển giáo là do Báo thân và Ứng thân Phật thuyết
pháp.
Đối với Mật tông thuộc loại bộ Mật giáo, là thứ giáo lý không
thể dùng ngôn ngữ diễn đạt. Mật giáo là do Pháp thân Phật thuyết
pháp, do đó giáo phái này cịn được gọi là Chân Ngơn hay Chân
Ngơn tơng.
Chương 2 TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA PHẬT GIÁO Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Quá trình du nhập
Phật giáo vào Việt Nam từ đầu công nguyên đến thế kỷ X
Theo một số nguồn sử liệu, Phật giáo được truyền vào Việt
Nam những năm đầu công nguyên. Thời gian này ở Luy Lâu thuộc
quận Giao Chỉ (Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay) đã hình thành
nên một trung tâm Phật giáo và Phật học khá mạnh. Thậm chí,
trung tâm Phật giáo ở Luy Lâu đã ảnh hưởng đến việc hình thành
hai trung tâm Phật giáo lớn của Trung Quốc là Lạc Dương và Bành
Thành.
Sự du nhập của Phật giáo vào nước ta đầu tiên được truyền
bá trực tiếp từ Ấn Độ sang bằng đường biển. Một số tăng sỹ Ấn Độ
sang truyền giáo ở Việt Nam như Ma ha kỳ vực (Marajayaka);
Khưu đà la (K’sudara, năm 188); Khương Tăng Hội (năm 200 247), Chi Lương Cương (Kaiaruci, năm 266). Do đó, từ thế kỷ I đến
thế kỷ III, Phật giáo nước ta chịu ảnh hưởng chủ yếu là Phật giáo

Ấn Độ.
Trong thế kỷ IV, Tu Du Pháp Lan và thiền sư Du Đạo Toái là
hai nhà sư Trung Quốc đã có cơng lớn trong việc truyền bá đạo
17


Phật vào nước ta. Do đó trong thế kỷ IV, Phật giáo nước ta chịu
ảnh hưởng chủ yếu từ Phật giáo Trung Quốc.
Đến thế kỷ V, Phật giáo được truyền bá rộng rãi trên đất
nước và đã xuất hiện những nhà sư Việt Nam có danh tiếng như:
Huệ Thắng, Đạo Hiền, Đạo Gao và Pháp Minh (giữa thế kỷ V),...
Thiền sư Huệ Thắng (440 - 479) và Thích Đạo Hiền (457 - 483) đã
từng được mời sang Trung Quốc thuyết pháp, đóng góp vào q
trình phát triển Phật giáo ở Trung Quốc. Thiền sư Đàm Hoằng
người Trung Quốc cũng đã sang Việt Nam truyền pháp năm 423.
Đây là thời kỳ Phật giáo Việt Nam và Phật giáo Trung Quốc ảnh
hưởng qua lại lẫn nhau.
Từ thế kỷ VI đến thế kỷ X, lịch sử Phật giáo Việt Nam vẫn tiếp
tục là giai đoạn truyền giáo. Trong giai đoạn này, ảnh hưởng của
các nhà truyền giáo Ấn Độ giảm dần, trong khi các nhà truyền
giáo Trung Quốc tăng lên, hình thành nên các phái thiền ở Việ
Nam:
- Phái Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci): Khoảng năm 580,
nhà sư Ấn Độ tên là Tỳ Ni Đa Lưu Chi (?- 594), học trò của Tăng
Xán, tổ thứ ba của phái Thiền Trung Quốc đã sang Việt Nam tu tại
chùa Pháp Vân (Bắc Ninh) và trở thành sư tổ của phái Thiền Việt
Nam. Phái Thiền này có 18 đời với 29 vị sư tổ, người đầu tiên là
Pháp Hiểu (626) đến người cuối cùng là Y Sơn (1216).
- Phái Thiền Vô Ngôn Thông: Vô Ngơn Thơng có họ Trịnh
(khơng rõ tên), là người Triết Giang (Trung Quốc). Là người tinh

thơng Phật pháp nhưng ít nói nên các Phật tử gọi là Vơ Ngơn
Thơng hay Bất Ngữ Thơng. Ơng sang Việt Nam năm 820, tu ở
chùa Kiến Sơ (Hà Nội ngày nay). Ông truyền pháp cho học trò
người Việt là Lập Đức, hiệu là Cảm Thành hình thành phái Thiền
Vơ Ngơn Thơng ở Việt Nam. Phái này có 15 đời với 40 vị sư tổ, kể
từ người đầu tiên là Cảm Thành (860) đến người cuối cùng là Ứng
Vương (1287).
Đạo Phật được truyền bá vào Việt Nam thơng qua con đường
hịa bình, với giáo lý chuyển tải tư tưởng bình đẳng, bác ái, cứu
khổ, cứu nạn.... gần gũi tín ngưỡng, văn hóa Việt Nam nên được
các cư dân Việt Nam dễ dàng chấp nhận.
Như vậy, trong mười thế kỷ, mặc dù trong hoàn cảnh đất
nước bị xâm lược và đô hộ, Phật giáo được truyền bá vào Việt
18


Nam từ con đường trực tiếp đến gián tiếp, được tiếp thu một cách
hịa bình và nhanh chóng tạo ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống
nhân dân, tạo điều kiện cho sự phát triển mới trong giai đoạn đất
nước độc lập, tự chủ.
2.2. Quá Trình Phát Triển
Phật giáo từ thế kỷ X đến thế kỷ XV
Dưới thời Đinh – Tiền Lê, Phật giáo được nhà nước xem trọng.
Vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành đã trọng dụng và phong
thưởng cho những nhà sư có cơng giúp vua lo việc triều chính.
Sau khi lên ngơi hồng đế, Đinh Tiên hoàng đã triệu tập các
vị cao tăng để định rõ phẩm trật cho tăng chúng. Thiền sư Ngô
Chân Lưu hậu duệ của Ngơ Quyền được Đinh Tiên hồng tơn làm
Khng Việt Thái Sư (khuôn mẫu cho nước Việt) ngang với
hàng"Tam Công" trong triều và phong chức Tăng thống đứng đầu

Phật giáo cả nước, Pháp sư Ma Ni được phong Tăng lục, đứng dưới
Tăng thống; Pháp sư Đặng Huyền Quang được phong là Sùng
trấn... Dưới thời vua Lê Đại Hành, ngoài các vị cao tăng Ngô Chân
Lưu, Ma Ni, Huyền Quang, cịn có thêm nhà sư Pháp Thuận đời thứ
mười của phái thiền TỳNi ĐaLưu Chi được trọng dụng, giúp triều
đình trong việc đối nội, đối ngoại.
Thời Đinh – Tiền Lê cịn có nhiều chính sách hỗ trợ Phật giáo
phát triển. Vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành cho xây dựng
nhiều chùa tháp ở kinh đô Hoa Lư, biến nơi đây thành một trong
những trung tâm Phật giáo lớn của cả nước. Vua Đinh Tiên Hồng
cịn cho dựng những trụ đá ở Hoa Lư khắc Kinh Phật và những bài
thần chú để lưu lại cho đời sau.
Thời Lý, Phật giáo phát triển mạnh mẽ. Vua Lý Thái Tổ (Lý
Công Uẩn) vốn xuất thân từ chốn thiền mơn, học trị của Lý Khánh
Vân và cùng thụ giới Sa-di với nhà sư Vạn Hạnh nên có rất nhiều
chính sách chấn hưng Phật giáo. Sau khi đăng quang, Lý Thái Tổ
ban sắc hàm phẩm phục cho nhiều tăng sỹ. Năm 1010,khi dời đô
về Thăng Long, nhà vua đã cho xây một số chùa như Thiên Phủ,
Hưng Long… và cử sứ thần sang Trung Quốc thỉnh kinh (Đại tạng
kinh) để góp phần quảng bá Phật giáo, ra chiếu khuyến khích xuất
gia tu hành. Vua Lý Thánh Tông (1054 - 1072), được suy tôn là sư
tổ thứ XII của phái thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi và là người sáng lập
phái Thiền Thảo Đường. Tương truyền, năm 1069, Lý Thánh Tông
19


đem quân dẹp giặc Chiêm Thành, thắng trận trở về đã ban
thưởng cho nhiều quan tướng, tăng sỹ nhiều tù binh để làm tạp
dịch. Một người tù binh của một Tăng lục thấy trên bàn của chủ có
quyển Ngũ lục chép tay, trong đó có những đoạn chép sai, tiện

bút ông ta sửa luôn. Vị Tăng lục biết chuyện bèn báo cho Lý
Thánh Tơng. Thì ra người tù binh đó là thiền sư Thảo Đường từ
Trung Quốc tới Chiêm Thành truyền đạo thì bị bắt. Vua Lý Thánh
Tơng thấy thiền sư Thảo Đường là người "có đức hạnh, lại tinh
thơng Phật điển, bèn bái làm thầy" , mời thiền sư về tu ở chùa
Khai Quốc, phong đến chức Quốc sư và trở thành sư tổ của một
phái thiền mới ở Việt Nam. Phái Thiền Thảo Đường tồn tại từ 1069
đến 1205 với 5 đời và 19 vị sư tổ, đời đầư tiên là Thảo Đường
(1069) và đời cuối cùng là Phan Phúng Ngự (1205). Ba vị vua nhà
Lý là Lý Thánh Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông đều theo phái thiền
này.
Dưới thời Lý có những nhà sư nổi tiếng như: nhà sư Vạn Hạnh
(? - 1018) quê ở Đình Bảng, Bắc Ninh, đời thứ mười của phái thiền
Tỳ ni Đa lưu chi, là người có cơng lập triều Lý, được Lý Thái Tổ
phong làm Quốc sư; Huệ Sinh (? - 1063) quê ở Hà Đông, Phật học
uyên thâm được Lý Thánh Tông phong làm Tăng Thông; Viên
Chiếu (999 - 1090); Mãn Giác (1052-1096); Không Lộ (? - 1119),...
Nhà sư Viên Thông (1080-1151) người đất Thăng Long đỗ đầu kỳ
thi Tam giáo năm 1097 và Hoằng Tài năm 1098 nhưng không
nhận phẩm chức vua ban, chỉ lo việc giảng đạo trong triều và
được phong làm Quốc sư.
Dưới thời Trần, Phật giáo Việt Nam phát triển cực thịnh và trở
thành quốc đạo. Vua Trần Thái Tơng trong 33 năm trị vì (12251258) vừa trị quốc an dân, vừa nghiên cứu Phật học, trở thành
người có trình độ Phật học un thâm. Nhà vua thường đàm luận
về Phật học với những nhà sư nổi tiếng Việt Nam và Trung Quốc
như Ứng Thuận, Tức Lục, Đại Đăng, Thiên Phong,... Vua Trần Thái
Tông đã viết nhiều sách luận về Phật giáo hoặc là sách văn thơ
mang tư tưởng Phật giáo, như: ThiệnTông chỉ nam, Lục thời xám
hối khóa nghi, Kim cương tam muội chú giải, Bình đẳng lễ sám
văn, Thái Tơng thi tập, Khóa hư lục.Tác phẩm của Trần Thái Tông

chịu ảnh hưởng của thiền tông Lâm Tế, nhấn mạnh bát khổ là vô
ngã, vô thường, cần được giác ngộ, cần phải làm lành lánh dữ, tu
nhân tích đức và nhất là phải hành thiền.
20


Tuệ Trung Thượng sỹ (tên tục là Trần Trung, 1230- 1291) là
học trò của thiền sư Ứng Thuận, là người có cơng trong cuộc
kháng chiến chống qn Ngun được phong Tiết độ sứ, trấn ở
Thái Bình. Ơng đã từ quan về tu thiền tại gia đình. Tuệ Trung
Thượng sỹ có tác phẩm Ngữ lục thể hiện tư tưởng thiền học sâu
sắc.
Vua Trần Nhân Tông (1285-1308) lên ngôi năm 20 tuổi, trị vì
15 năm. Năm 1293, Trần Nhân Tơng truyền ngơi cho con là Trần
Anh Tông, lên núi Yên Tử xuất gia tu hành, hiệu là Trúc Lâm Đầu
Đà và trở thành sư tổ của phái thiền Trúc Lâm Yên tử. Ông vừa là
vua, vừa là nhà thiền học, vừa là nhà thơ lớn với nhiều tác phẩm
chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng Phật giáo như Thiền Lâm chiết
chỉ ngữ lục, Trúc Lâm hậu lục, Thách thất mỵ ngữ, Đại hưởng Hải
ấn thi tập, Tăng già… Phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử thực ra là thuộc
Thiền Vô Ngôn Thông nhưng đến đời vua Trần Nhân Tông trở
thành một phái thiền riêng theo tư tưởng nhập thế với ba vị sư tổ
là Trần Nhân Tông, Pháp Loa (1284 - 1330) và Huyền Quang (1254
- 1334).
Như vậy, từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, Phật giáo bước vào giai
đoạn phát triển cực thịnh ở Việt Nam. Được sự quan tâm của các
triều đại trên nhiều phương diện, Phật Giáo đã nhập thế, trở thành
quốc giáo thời Trần, phát triển mạnh mẽ các phái thiền hình thành
thời kỳ trước đó và sáng lập nên một số phái thiền mới như Thiền
Thảo Đường, Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Phật giáo từ thế kỷ X đến thế

kỷ XV đã đóng vai trị to lớn đối với công cuộc bảo vệ độc lập dân
tộc và xây dựng đất nước Việt Nam thời kỳ này.
Phật giáo thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XIX
Từ thế kỷ XV, dưới thời Lê Sơ, chế độ phong kiến Việt Nam đã
phát triển thịnh đạt, lấy Nho giáo làm chỗ dựa tư tưởng chính trị
và đạo đức. Do đó, Phật giáo khơng được chính quyền quan tâm
như trước nên bước vào giai đoạn suy yếu. Phật giáo trở về với
thôn dã, trở thành hạt nhân của tinh thần đoàn kết cộng đồng,
bám rễ sâu trong đời sống nhân dân. Với đặc trưng ơn hịa, khoan
dung, Phật giáo đã làm cho xu hướng tư tưởng Tam giáo (Phật,
Lão, Nho) vốn có từ trước mang một sắc thái mới. Quan niệm Tam
giáo đồng nguyên, Tam giáo đồng quy, Tam giáo đồng tôn xuất
hiện.
21


Thời kỳ Nam – Bắc triều, Phật giáo có khởi sắc hơn do các
chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở Đàng Trong đều tạo điều
kiện cho việc tu tập, tơn tạo, sửa chữa chùa chiền.
Ở Đàng Ngồi, năm 1618, Trịnh Tráng cho xây dựng chùa
Phúc Long. Năm 1727, Trịnh Cương cho xây chùa Thiền Tây ở Vĩnh
Phúc, chùa Độc Tôn ở Thái Nguyên. Năm 1730, Trịnh Giang cho
trùng tu chùa Quỳnh Lâm, Sùng Lâm; năm 1736, cho xây dựng
chùa Hồ Thiên (Kinh Bắc); chùa Hương Hải (Chí Linh)... Đây cũng
là thời kỳ Đàng Ngồi hình thành nên hai phái thiền mới: Thiền
Tào Động và Thiền Lâm Tông. Về Thiền Tào Động, thời Vua Lê Thế
Tông (1573 - 1599), Thiền sư Thủy Nguyệt người Thái Bình tu ở
Quảng Ninh sang núi Phượng Hoàng (Trung Quốc) cầu đạo và trở
thành sư tổ thứ 35 của Thiền Tào Động, Trung Quốc. Sau khi đắc
đạo ông trở về Việt Nam lập chùa Hồng Phúc (Hà Nội) và trở

thành sư tổ của Thiền Tào Động Việt Nam. Về Thiền Lâm Tông, do
Thiền sư Trịnh Lập (1696 - 1773) lập ra dưới thời vua Lê Hy Tông
(1675 - 1705) nhưng ảnh hưởng của phái thiền này khơng lớn.
Ở Đàng Trong, năm 160l, Nguyễn Hồng xây dựng chùa
Thiên Mụ (Huế). Sau đó các năm 1665, 1710, 1738, các chúa
Nguyễn như Nguyễn Phúc Tần, Nguyễn Minh Vương, Nguyễn Phúc
Hoạt,... cho xây dựng tu bổ nhiều chùa, đúc chuông và thỉnh kinh
từ Trung Quốc để phát triển Phật giáo. Thời kỳ này ở Đàng Trong
xuất hiện phái Thiền Lâm Tế. Thế kỷ XVII, người Mãn Châu xâm
lược Trung Quốc, diệt nhà Minh lập nhà Thanh, dẫn đến việc nhiều
người Hán xuống phía Nam lập nghiệp, trong đó có các nhà sư. Sư
tổ truyền bá Thiền Lâm Tế vào Đàng Trong là Nguyên Thiều (1649
- 1729) quê ở Triều Châu, Quảng Đông, Trung Quốc. Năm 1677,
Nguyên Thiều vào Quy Nhơn tu hành, lập chùa Thập Tháp, sau đó
ơng ra Thuận Hóa lập chùa Hà Trung, lên Xuân Kinh lập chùa Quốc
ấn và dựng tháp Phổ Đồng. Sau thiền sư Nguyên Thiều là Liễu
Quán (1667 - 1742), một vị thiền sư quê ở Phú Yên tiếp nối Thiền
tông Lâm Tế. Tuy nhiên do ảnh hưởng của Liễu Quán rất lớn, nên
Thiền Lâm Tế ở Đàng Trong, từ Huế trở vào thường nhận mình là
Thiền Liễu Qn chứ khơng gọi là Thiền Lâm Tế hay Nguyên
Thiều.
Như vậy, từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XIX, Phật giáo Việt
Nam suy yếu hơn so với trước đó. Mặc dù có những điểm sáng
trong từng giai đoạn nhưng vị thế của Phật giáo khơng cịn được
22


như trước. Tuy nhiên, đây là giai đoạn Phật giáo từ chỗ được chính
quyền trọng vọng, là tơn giáo của giới quan lại, quý tộc đã trở về
với thôn dã, nhân dân, sâu rễ bền gốc trong nhân dân và trở

thành nhân tố thúc đẩy một hiện tượng khá độc đáo ở Việt Nam:
Tam giáo đồng nguyên.
Phật giáo thế kỷ XX
Đến những thập niên đầu của thế kỷ XX, Phật giáo Việt Nam
có nhiều khởi sắc do ảnh hưởng phong trào Chấn hưng Phật giáo
ở Trung Quốc, Nhật Bản và nhiều nước châu Á.
Ngồi ý nghĩa tơn giáo, phong trào Chấn hưng Phật giáo ở
Việt Nam còn gắn với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Một số
nhà sư cùng một nhân sỹ trí thức yêu nước, mến đạo muốn Phật
giáo phát triển, qua đó lấy ngọn cờ Phật giáo để đoàn kết tập hợp
lực lượng chống Pháp. Phong trào Chấn hưng Phật giáo diễn ra
đầu tiên ở Sài Còn vào năm 1920 gắn với tên tuổi các nhà sư
Khánh Hòa, Thiện Chiếu... và lan rộng ra miền Trung và miền Bắc
với các nhà sư như Thượng tọa Tế Liên, Hịa thượng Giác Tiên,
Thượng tọa Trí Hải, các cư sỹ như Lê Hình Thám, Nguyễn Năng
Quốc, Phan Kế Bính, Trần Văn Giáp,... Phong trào Chấn hưng Phật
giáo kéo dài từ những năm 20 đến giữa những năm 50 của thế kỷ
XX đã đưa lại những kết quả rất quan trọng. Đặc biệt, Phật giáo
thời kỳ này đã hình thành nên một hệ thống các tổ chức điều
hành hoạt động ở các vùng miền như:
+ Ở miền Nam: Hội Nam Kỳ nghiên cứu Phật họcdo nhà sư
Khánh Hòa lập năm 1930 (năm 1951, ông Mai Thọ Truyền lập lại,
lấy tên là Hội Phật học Nam Việt); Hội Tăng già Nam Việt thành
lập tháng 6/1951.
+ Ở miền Trung: An Nam Phật học hội (1932) và Hội Tăng
già Trung Việt (1949).
+ Ở miền Bắc: Hội Phật giáo Bắc Kỳ do ông Nguyễn Năng
Quốc lập năm 1934; Hội Chỉnh lý Tăng ni Việt do nhà sư Tố Liên
lập năm 1949, (năm 1950, đổi thành Hội Tăng già Bắc Việt).
Trước ảnh hưởng của phong trào Chấn hưng Phật giáo, năm

1951, các tổ chức Phật giáo trên đã tổ chức họp tại Huế và thành
lập Hội Phật giáo Việt Nam. Đây là sự kiện quan trọng trong lịch
sử Phật giáo Việt Nam, được xem là cuộc vận động thống nhất
đầu tiên của Phật giáo ỏ Việt Nam về mặt tổ chức.
23


Bên cạnh đó, phong trào Chấn hưng Phật giáo đã xây dựng
được một số cơ sở đào tạo Phật học có quy củ. Khi các tổ chức
Phật giáo ra đời và phát triển, kinh sách được dịch, sưu tầm, biên
soạn và xuất bản rộng rãi. Tạp chí Phật học ra đời nhằm tuyên
truyền và chẩn chỉnh phương diện giáo lý, giáo luật,... Năm 1931,
Hội Nam Kỳ nghiên cứu Phật học xuất bản tờ Từ Bi âm. Năm 1932,
An Nam Phật học hội xuất bản tờ Viên âm. Năm 1934, Hội Phật
học Bắc kỳ xuất bản tờ Đuốc Tuệ. Năm 1931, Hội Thiền giáo tông
xuất bản tờ Bát Nhã Âm; Lưỡng xuyên Phật học xuất bản tờ Duy
Tâm Phật học…. Nhiều tăng ni phật tử có đóng góp to lớn cho
thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược. Nhiều chùa là cơ sở hoạt động hoặc là
nơi che giấu, cán bộ cách mạng.
Sau Hiệp định Geneve năm 1954, đất nước bị chia cắt làm
hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Trong bối cảnh đó,
Phật giáo ở hai miền cũng có sự khác nhau trên nhiều phương
diện.
Ở miền Bắc, tháng 3/1958, giới Phật giáo đã triệu tập Đại hội
đại biểu Phật giáo với sự tham gia của hơn 200 tăng ni và tín đồ.
Đại hội đã quyết định thành lập tổ chức Hội Phật giáo Thống nhất
Việt Nam. Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam trong thời kỳ 1954 –
1975 đã hồn thành tốt vai trị của mình, vừa hoạt động tơn giáo,
vừa hoạt động xã hội, tham gia tích cực vào phong trào thi đua

yêu nước ở miền Bắc.
Ở miền Nam, trong giai đoạn 1954 - 1975, chính quyền có
nhiều chính sách ưu tiên Cơng giáo và làm phân hóa các tơn giáo
khác. Phật giáo miền nam do đó cũng bị phân hóa phức tạp với
nhiều tổ chức, hệ phái.Tính đến năm 1975, có hàng chục các tổ
chức Phật giáo như: Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Tịnh
độ Cư sĩ Phật học hội, Việt Nam nghiên cứu Phật học hội, Phật
giáo Nam tông Khơ-me, Phật giáo khất sỹ, Thiên thai Giáo quán
tông, Cổ sơn môn, Tịnh độ tông, Quan âm Phổ tế, Thiền tông Lâm
tế, Thiền định Đạo tràng..
Dù vậy, phong trào đấu tranh của giới Phật giáo mang nội
dung dân tộc dân chủ, chống Mỹ - Ngụy vẫn diễn ra mạnh mẽ. Sôi
nổi, quyết liệt nhất là cuộc đấu tranh của giới Phật giáo chống
chính sách cưỡng bức Phật giáo đầu những năm 1960 chống chế
độ độc tài Ngơ Đình Diệm. Phong trào tăng ni phật tử dũng cảm tự
24


thiêu để đấu tranh chống Mỹ - Ngụy để bảo vệ “Đạo pháp và Dân
tộc” diễn ra liên tục, có sức ảnh hưởng lớn như: Hịa thượng Thích
Quảng Đức (11/6/1963), đại đức Thích Nguyên Hương (4/8/1963),
đại đức Thích Thanh Tuệ (13/8/1963), ni cơ Thích Nữ Niệm Quang
(15/8/1963), thượng tọa Thích Tiêu Diêu (16/8/1963), …. Chính vì
lẽ đó, Phật tử đã duy trì được ảnh hưởng của Phật giáo trong lịng
dân tộc.
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước hòa bình, độc
lập, thống nhất đã tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển cả về số
lượng, tổ chức và phạm vi ảnh hưởng. Nhằm thống nhất Phật giáo
cả nước, tháng 2/1980, Ban Vận động Phật giáo Thống nhất được
thành lập do Hịa thượng Thích Trí Thủ làm Trưởng ban. Sau một

quá trình chuẩn bị cẩn trọng, tháng 11/1981, Đại hội đại biểu
thống nhất Phật giáo đã long trọng tổ chức tại Chùa Quán Sứ, Hà
Nội với sự tham dự của 165 đại biểu tăng ni, cư sĩ đại diện 9 tổ
chức hệ phái trong cả nước. Đại hội đã chính thức thành lập Giáo
hội Phật giáo Việt Nam, thông qua hiến chương và chương trình
hoạt động của Phật giáo Việt Nam với đường hướng “Đạo pháp Dân tộc - Xã hội chủ nghĩa”. Đại hội cũng đã bầu hệ thống tổ chức
của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Đây được xem là Đại hội I của
Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đến nay Giáo hội đã tổ chức 7 kỳ đại
hội (5 năm 1 lần, kể từ 1981).
Có thể nói, sự kiện thống nhất Phật giáo là sự kiện quan
trọng đối với lịch sử Phật giáo Việt Nam. Đây là sự kiện mở đường
cho Phật giáo phát triển mạnh mẽ, đáp ứng tình cảm, nguyện
vọng tha thiết của tăng ni, Phật tử trong cả nước. Với quan điểm
tôn trọng tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước, Phật giáo Việt
Nam với thế mạnh của mình tiếp tục phát huy truyền thống gắn
bó với dân tộc.
2.3 Tình Hình Hoạt Động Của Phật Giáo Việt Nam Hiện Nay
Phật giáo là một tôn giáo thế giới, Phật giáo ra đời ở Ấn Độ
vào khoảng giữa thiên niên kỷ 1 TCN. Theo truyền thuyết người
sáng lập ra đạo Phật là Thái tử Tất Đạt Đa. Khơng bao lâu sau khi
ra đời, nó đã lan tỏa rộng khắp các nước khu vực châu Á, và ngày
nay đang thâm nhập sang các châu lục khác. Phật giáo được
truyền bá vào Việt Nam rất sớm, ngay từ đầu Cơng ngun với
truyện cổ tích Chử Đồng Tử, Phật giáo bám rễ và ăn sâu vào Việt
Nam đến nay đã hai chục thế kỷ. Trong q trình đó, Phật giáo đã
25


×