Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

BỒI THƯỜNG THIỆT hại DO DANH dự, NHÂN PHẨM, UY tín bị xâm PHẠM THEO QUY ĐỊNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (838.4 KB, 90 trang )

’’’’’’’’’’’’’’’’’’


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, em đã nhận được
sự động viên, giúp đỡ tận tình, tạo điều kiện thuận lợi của các cấp lãnh đạo, các thầy
giáo, cô giáo, các bạn đồng nghiệp và gia đình.
Em xin trân trọng cảm ơn tới các thầy cô giáo trong Ban lãnh đạo, các Giáo
sư, Tiến sĩ, giảng viên của Trường Đại học Kinh tế - luật.
Đặc biệt, tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. ……………,
Người hướng dẫn khoa học đã tận tâm bồi dưỡng kiến thức, phương pháp nghiên
cứu và trực tiếp giúp đỡ, động viên để em hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã nỗ lực cố gắng rất nhiều trong quá trình nghiên cứu, song luận văn
khơng tránh khỏi những thiếu sót, tác giả kính mong nhận được những lời chỉ dẫn
của các thầy giáo, cơ giáo, ý kiến đóng góp trao đổi của các bạn đồng nghiệp để luận
văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
T.P.Hồ Chí Minh, ngày ....tháng 11năm 2020
Tác giả

………………………


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN……………………………………………………………

2

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT......................................................

5



MỞ ĐẦU.................................................................................................

6

1.Tính cấp thiết của đề tài......................................................................

6

2.Tình hình nghiên cứu đề tài................................................................

8

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu......................................................

11

4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu

12

5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài..................................
CHƯƠNG 1...................................................................................................

.......13
13

KHÁI QUÁT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO DANH DỰ,
NHÂN PHẨM, UY TÍN BỊ XÂM PHẠM THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VIỆT NAM


13

1.1. Khái niệm đặc điểm của trách nhiệm của trách bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm theo
quy định của pháp luật Việt Nam. .................................................................. 14
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng……14
1.1.2 Khái niệm, đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy
tín bị xâm phạm. ................................................................................................... 15
1.2 Quy định của pháp luật dân sự hiện hành về bồi thường thiệt hại do danh dự nhân
phẩm uy tín bị xâm phạm ............................................................................... 19
1.2.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín
bị xâm phạm ................................................................................................... 19
1.2.3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.
........................................................................................................................ 50
1. 2.4. Xác định thiệt hại, mức bồi thường, thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm
phạm .................................................................................................................................. 58
CHƯƠNG 2
59


THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO DANH DỰ NHÂN PHẨM, UY TÍN BỊ XÂM PHẠM. GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN

59

2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật dân sự về bồi thường thiệt hại do danh dự nhân phẩm,
uy tín bị xâm phạm ............................................................................................... 60
2.1.1 Thực trạng vấn đề xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín trong tình hình hiện nay

.............................................................................................................................. 60
2.1.2.Thực tiễn giải quyết áp dụng các quy định về bồi thường thiệt hại do hành vi xâm
phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín ........................................................................ 68
2.2 Một số đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm ..................................................................... 77
2.2.1 Hồn thiện các quy định của pháp luật dân sự về bồi thường thiệt hại do danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm ........................................................................... 77
2.2.2 Hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự và nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan
tố tụng ................................................................................................................... 79
2.2.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức .. 80
KẾT LUẬN.....................................................................................................

80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................

81


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. BLDS:

Bộ luật dân sự

2. TTDS:

Tố tụng dân sự

3. NĐCP: Nghị định chính phủ

4. BTHH: Bồi thường thiệt hại
5. PLVN: Pháp luật Việt Nam
6. TANN: Tòa án nhân dân
7. VKS: Viện kiểm sát


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín thuộc nhóm quyền liên quan đến
giá trị của con người trong xã hội nói riêng và trong tổng thể các quyền nhân thân
nói chung. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có tác dụng bổ sung, hỗ
trợ cho các quyền nhân thân khác. Để đảm bảo quyền này được thực hiện trên thực
tế, pháp luật Việt Nam đã sớm có quy định về quyền này. Hiến pháp năm 1980 đã
quy định tại Điều 70: “Cơng dân có quyền tự được pháp luật bảo hộ về tính mạng,
tài sản, danh dự và nhân phẩm”. Hiến pháp năm 1992 tiếp tục ghi nhận quyền được
bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của cơng dân tại Điều 71 “Cơng dân có quyền
bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh
dự và nhân phẩm”. Hiến pháp năm 2013 Điều 20 quy định sửa đổi bổ sung và có
nhiều điểm mới tiến bộ hơn để nhằm bảo vệ quyền nhân thân này cụ thể: “Mọi người
có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh
dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức
đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”. Như
vậy quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín là quyền hiến định.
Trước đây, Bộ luật Dân sự năm 2005 chỉ quy định ngắn gọn về quyền này tại
Điều 37 như sau: “Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được tơn trọng và được
pháp luật bảo vệ”.
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung quy định chi tiết về quyền được
bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín tại Điều 34 cụ thể như sau:
“1.Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp
luật bảo vệ.

Cá nhân có quyền u cầu Tịa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh
dự, nhân phẩm, uy tín của mình.


Việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể được thực hiện sau khi cá nhân
chết theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc con thành niên; trường hợp khơng có những
người này thì theo u cầu của cha, mẹ của người đã chết, trừ trường hợp luật liên
quan có quy định khác.
Thơng tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được đăng
tải trên phương tiện thơng tin đại chúng nào thì phải được gỡ bỏ, cải chính bằng
chính phương tiện thơng tin đại chúng đó. Nếu thơng tin này được cơ quan, tổ chức,
cá nhân cất giữ thì phải được hủy bỏ.
Trường hợp không xác định được người đã đưa tin ảnh hưởng xấu đến danh dự,
nhân phẩm, uy tín của mình thì người bị đưa tin có quyền u cầu Tịa án tun bố
thơng tin đó là khơng đúng.
Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì ngồi
quyền u cầu bác bỏ thơng tin đó cịn có quyền u cầu người đưa ra thơng tin xin
lỗi, cải chính cơng khai và bồi thường thiệt hại”.
Bên cạnh đó, tại Ðiều 584, Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: "Người nào có
hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền,
lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường
hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác".
Danh dự nhân phẩm uy tín là những giá trị nhân thân không trị giá được tiền, tuy
nhiên xâm phạm đến những giá trị này có thể ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển
của chủ thể bị xâm phạm. Trong cuộc sống hàng ngày việc danh dự, nhân phẩm, uy
tín, bị xâm phạm diễn ra khá phổ biến với mọi đối tượng về độ tuổi, giới tính, nghề
nghiệp, các tổ chức, cá nhân. Trên thực tế trong những năm gần đây đã có những vụ
học sinh tự tử vì bị thầy cơ và bạn bè, hàng xóm nghi ngờ mình là người có hành vi
trộm cắp vặt. Bên cạnh đó việc cá nhân, cơ quan, tổ chức bị người khác xúc phạm
danh dự, nhân phẩm, uy tín cũng diễn ra trong các giao dịch dân sự, lao động, trên

không gian mạng như Facebook, Zalo, hay các trang mạng, báo chí… cũng rất phổ
biến.


Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do danh dự
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm là một trong những loại trách nhiệm bồi thường
ngoài hợp đồng gây nhiều tranh cãi về căn cứ phát sinh, mức bồi thường. Đồng thời
quy định của pháp luật về vấn đề này còn hạn chế bất cập gây khó khăn cho cơng
tác áp dụng pháp luật.
Xuất phát từ những lý do như trên, tác giả đã quyết định chọn đề tài “Bồi thường
thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm theo quy định của pháp luật
Việt Nam” để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp thạc sỹ cho mình. Đồng
thời đưa ra một số vụ án, tình huống thực tế cụ thể để phân tích, chứng minh và nêu
lên những khó khăn, vướng mắc qua đó đề xuất quan điểm cá nhân và một số kiến
nghị để những quy định về Bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng nói chung và Bồi
thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm ngày càng hồn thiện
hơn.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Quá trình tìm kiếm tài liệu để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài, tác giả nhận
thấy liên quan đến đề tài đã có một số cơng trình nghiên cứu khoa học đã được
cơng bố, các bài viết trên tạp chí chuyên ngành luật nghiên cứu về đề tài như sau:
Dưới hình thức giáo trình, sách chun khảo, bình luận khoa học có những
cơng trình:
Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh (2014), “Giáo trình pháp luật về hợp
đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, NXB Hồng Đức – Hội luật gia
Việt Nam. Trong giáo trình này, tác giả đề cập đến khái niệm, đặc điểm ý nghĩa
của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; Căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; Cách xác định thiệt hại trong đó có
đề cập đến cách xác định thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.
Tuy nhiên, giáo trình khơng đề cập chun sâu đến vấn đề giải thích như thế nào

là danh dự, uy tín, nhân phẩm, không đề cập đến việc bồi thường về danh dự


nhân phẩm uy tín bị xâm phạm trong các mối quan hệ cụ thể như trong quan hệ
lao động; quản lý hành chính hay giao dịch dân sự;
Trường Đại học mở thành phố Hồ Chí Minh (2018), “Giáo trình luật dân sự
tập 2”, NXB Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Trong giáo trình này,
tác giả đề cập đến việc xác định thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm
phạm và đã có phân tích các khái niệm về danh dự, nhân phẩm, uy tín. Nhưng
giáo trình cũng chưa đề đề cập chuyên sâu đến vấn đề xâm phạm uy tín, danh dự
của cơ quan, tổ chức và chưa nghiên cứu các vướng mắc, bất cập trong việc áp
dụng pháp luật liên quan đến vấn đề này.
PGS.TS. Phùng Trung Tập chủ biên (2017), “Luật dân sự Việt Nam (bình giải
và áp dụng – Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng”, NXB Cơng an
nhân dân. Trong cuốn sách này các tác giả đã đặt trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm uy tín dưới góc độ là bồi thường thiệt hại
do xâm phạm các quyền nhân thân và qua đó tác giả phân tích một số vấn đề về
quyền nhân thân, lịch sử pháp luật Việt Nam quy định về quyền này; trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do xâm phạm các quyền nhân thân của cá nhân như: hành vi
xâm phạm đến hình ảnh, họ tên, danh dự, nhân phẩm uy tín của cá nhân… Tuy
nhiên, tác giả chưa đề cập đến vấn đề xâm phạm uy tín, danh dự của cơ quan, tổ
chức và chưa nghiên cứu các vướng mắc, bất cập trong việc áp dụng pháp luật
liên quan đến vấn đề này.
Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, “Tập bài giảng – Pháp luật về
hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, Tài liệu lưu hành nội bộ.
Trong sách này, tác giả đề cập đến khái niệm, đặc điểm ý nghĩa của trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng; Cách xác định thiệt hại trong đó có đề cập đến cách xác
định thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Tuy nhiên, tác giả
chưa đề cập chuyên sâu đến vấn đề bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự,

uy tín, nhân phẩm và chưa nghiên cứu thực tiễn áp dụng, những vướng mắc, bất
cập trong việc áp dụng pháp luật liên quan đến vấn đề này.


Về cơng trình nghiên cứu cấp trường:
Võ Thị Như Thương (2015), “Trách nhiệm bồi thường về tổn thất tinh thần
theo pháp luật dân sự Việt Nam” – Khóa luận tốt nghiệp cử nhân chuyên ngành
luật dân sự. Đây là công trình nghiên cứu cấp trường, đã được nghiên cứu và bảo
vệ thành công tại Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Tại cơng trình này, tác
giả đề cập đến căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường về tổn thất tinh thần và
các trường hợp được bồi thường tổn thất về tinh thần trong đó có trường hợp
danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, tác giả đã làm rõ một số nội dung khái
niệm về Danh dự, uy tín, nhân phẩm và cách xác định thiệt hại do tổn thất về tinh
thần gây ra, tuy nhiên tác chưa đề cập đến các khía cạnh cịn lại của trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.
Ngồi ra, trên các tạp chí, các website chuyên ngành luật có các bài viết có
nội dung liên quan đến đề tài:
Phạm Kim Anh (2011), “Về qui định bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân
phẩm uy tín bị xâm phạm trong bộ luật dân sự Việt Nam và hướng hồn thiện”,
tạp chí khoa học pháp lý số (03). Trong bài viết này, tác giả đã tác giả đã làm rõ
một số nội dung khái niệm về Danh dự, uy tín, nhân phẩm và phân tích quy định
của Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm
phạm và hướng hoàn thiện. Nhưng trong bài viết, tác giả chỉ phân tích ở góc độ
lý luận chưa tập trung vào việc phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật đối với vấn
đề này.
Có thể thấy chế định pháp luật Bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng nói chung
và bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
nói riêng đã được rất nhiều các giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận khoa học
đề cập đến. Nhìn chung các cơng trình khoa học đó đã nêu và phân tích những
vấn đề chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong luật dân sự, đưa ra những

yêu cầu cơ bản trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, các quy định
của pháp luật dân sự trong việc bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự nhân


phẩm và uy tín, cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, các hình thức
và mức bồi thường, những trường hợp miễm hoặc giảm trách nhiệm bồi thường.
Tuy nhiên các đề tài cơng trình nghiên cứu này đã được thực hiện từ khá lâu và
đề cập đến vấn đề bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm
phạm ở mức độ khái quát. Trong khi đó xã hội biến động và thay đổi khơng
ngừng, bên cạnh đó Bộ luật dân sự năm 2015 cũng mới được ban hành theo
hướng hoàn thiện hơn và có nhiều quy định mới trong đó có chế định bồi thường
thiệt hại ngồi hợp đồng. Do đó, đề tài mà tác giả nghiên cứu sẽ có phạm vi,
phương pháp tiếp cận có tính mới hơn so với các đề tài, cơng trình nghiên cứu
trên. Tuy nhiên, những tài liệu trên đây vẫn là những tài liệu nghiên cứu quan
trọng được tác giả lựa chọn tham khảo khi thực hiện việc nghiên cứu đề tài luận
văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, các quy định pháp luật,
thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề bồi thường thiệt hại trong trường hợp danh
dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, từ đó tìm ra những điểm bất cập hạn chế để
đề xuất giải pháp, kiến nghị hoàn thiện.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
- Làm rõ khái niệm, đặc điểm ý nghĩa của việc quy định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và quy định về bồi thường thiệt hại
do xâm phạm danh dự, nhân phẩm uy tín nói riêng;
- Phân tích, đánh giá các quy định về bồi thường thiệt hại trong trường hợp
danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại và cơ sở để xác định mức độ thiệt hại khi danh dự, nhân phẩm,
uy tín bị xâm phạm;



- Nghiên cứu các quy định của pháp luật, tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy
định về bồi thường thiệt hại dao xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín để tìm ra
những vướng mắc bất cập trong việc áp dụng quy định pháp luật. Thơng qua đó,
đề xuất được những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và thực hiện những quy
định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, uy tín, nhân
phẩm và việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
4.1. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại
do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín và việc áp dụng các quy định pháp luật
này trong thực tiễn.
Để bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại do danh dự nhân phẩm uy tín bị
xâm phạm, pháp luật nước ta có rất nhiều các quy định ở nhiều những lĩnh vực
khác nhau như để điều chỉnh như hình sự, dân sự, hành chính, bồi thường nhà
nước... Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này để tập trung chuyên
sâu đi vào phân tích về vấn đề bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy
tín bị xâm phạm như một phần của chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
và phù hợp với chuyên ngành học, tác giả chỉ tập trung và nghiên cứu vấn đề bồi
thường thiệt hại do danh dự nhân phẩm uy tín, bị xâm phạm theo quy định của
pháp luật dân sự Việt Nam.
Vấn đề bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm được
quy định Bộ luật dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành, đề tài tập trung
nghiên cứu các quy định của pháp luật liên quan đến vấn đề trên, tìm hiểu thực
tiễn áp dụng trong các vụ án dân sự để nghiên cứu làm rõ những vướng mắc khó
khăn khi áp dụng và tìm ra những phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật. Các vấn đề khác có liên quan đến đề tài như bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng tác giả nghiên cứu ở mức độ làm cơ sở, nền tảng lý luận chung phục
vụ cho việc chứng minh, làm rõ trong phạm vi đề tài nghiên cứu.



4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin quan điểm
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp và xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình nghiên cứu, để hồn thành đề tài luận văn tác giả sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống như: phương pháp phân tích;
phương pháp tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn giải,
quy nạp; tham khảo ý kiến của các chuyên gia và những người làm công tác thực
tiễn v.v… để thực hiện những nội dung đã đặt ra.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Đề tài là một cơng trình nghiên cứu phản ảnh tồn diện và có hệ thống những
vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại do danh dự
nhân phẩm uy tín, bị xâm phạm theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam.
Luận văn đánh giá những ưu điểm, hạn chế của quy định pháp luật dân sự Việt
Nam để từ đó đề xuất những giải pháp thiết thực khắc phục những khó khăn,
vướng mắc cịn tồn tại.
Đề tài được ứng dụng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả ứng dụng của Luật dân
sự Việt Nam cũng như bảo vệ quyền công dân, quyền con người.

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO
DANH DỰ, NHÂN PHẨM, UY TÍN BỊ XÂM PHẠM THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM


1.1. Khái niệm đặc điểm của trách nhiệm của trách bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm,

uy tín bị xâm phạm theo quy định của pháp luật Việt Nam.
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng.
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
+ Là loại trách nhiệm dân sự phát sinh bên ngồi, khơng phụ thuộc hợp đồng mà
chỉ cần tồn tại một hành vi vi phạm pháp luật dân sự, cố ý hay vô ý gây thiệt hại cho
người khác và hành vi này cũng không liên quan đến bất cứ một hợp đồng nào có
thể có giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại.
+ Thiệt hại không chỉ là nền tảng cơ bản mà còn là điều kiện bắt buộc của trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, hiểu một cách đơn giản là loại trách nhiệm
bồi thường không phát sinh từ quan hệ hợp đồng; người nào có hành vi xâm phạm
đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền lợi hợp pháp
của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại (“BTTH”) ngoài hợp đồng được quy
định từ Điều 604 đến Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2005 (“BLDS 2005”). Tuy
nhiên, trong thực tiễn áp dụng, các quy định này đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập
nhất định, ví dụ như khơng cụ thể, rõ ràng; khơng bao quát hết mọi trường hợp xảy
ra; đặc biệt là nhiều quy định khơng cịn phù hợp với thực tiễn và từ đó gây khó khăn
nhiều cho cơng tác xét xử của Tịa án. Chính vì vậy, Bộ luật Dân sự năm 2015 được
Quốc hội thông qua ngày 24 tháng 12 năm 2015 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 01 năm 2017) (“BLDS 2015”) đã có nhiều sự thay đổi cơ bản liên quan đến
chế định BTTH ngoài hợp đồng. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ trình bày
một số điểm mới cơ bản của BLDS 2015 ở mục “Những Quy định chung” trong
Chương XIX “Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng”.


Căn cứ phát sinh bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trường hợp bên bị vi phạm được quyền
yêu cầu bên vi phạm bồi thường những thiệt hại xảy ra không phải do vi phạm các

nghĩa vụ trong hợp đồng. Theo Bộ luật dân sự 2015, điều kiện xảy ra bồi thường
thiệt hại ngồi hợp đồng là:
– Có thiệt hại thực tế xảy ra (thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp)
– Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật (xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác)
– Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra
Ngoài ra, khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cần quan tâm đến yếu tố
lỗi các bên. Lỗi của người vi phạm là là một trong những điều kiện có thể làm phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt thiệt hại chứ không phải là yếu tố bắt buộc. Theo
Bộ luật dân sự 2015:
“Điều 584. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của
bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy
định tại khoản 2 Điều này.”
Như vậy, trong một số trường hợp người chịu trách nhiệm bồi thường phải bồi
thường thiệt hại xảy ra không phải do lỗi của mình, ví dụ trong một số trường hợp
phải bồi thường thiệt hại do súc vật hoặc cây cối gây ra.
1.1.2 Khái niệm, đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.


1.1.2.1. Khái niệm danh dự nhân phẩm
Trong đời sống hàng ngày, thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân
phẩm của công dân; tài sản, danh dự, uy tín của các tổ chức, có thể xảy ra do nhiều
tác động khác nhau. Đó có thể là những tác động khách quan song cũng có thể do
các hành vi trái pháp luật của cá nhân mang lại. Do đó, Nhà nước ta đã phải sử dụng
nhiều biện pháp pháp luật khác nhau để ngăn chặn và khắc phục những hậu quả đó.

Điều 609 Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:
“Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý mà xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm
phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại
thì phải bồi thường”. Điều 615 Bộ luật Dân sự có đề cập đến thiệt hại về danh dự,
nhân phẩm, uy tín nhưng khơng nêu rõ khái niệm thế nào là danh dự, nhân phẩm,
uy tín. Điều này có thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau trong thực tế. Do đó, cần
xác định rõ thế nào là danh dự, nhân phẩm, uy tín và hành vi nào được coi là xúc
phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín.
Theo chúng tôi, danh dự là sự đánh giá của xã hội đối với một cá nhân về các
mặt đạo đức, phẩm chất chính trị và năng lực của người đó. Sự đánh giá của xã hội
có thể về mặt lao động như nói người cần cù, siêng năng hay lười nhác, có thể về
mặt tinh thần thái độ đối với công việc được giao, trong sinh hoạt cá nhân hay cư xử
với mọi người xung quanh như người đó sống nghiêm túc hay buông thả, trong quan
hệ với mọi người thì thân ái đồn kết hay ích kỷ.
Như vậy, danh dự của một con người được hình thành từ những hành động và
cách cư xử của người đó, từ cơng lao và thành tích mà người đó có được qua những
năm tháng của cuộc đời và được xã hội đánh giá theo những tiêu chuẩn và nguyên
tắc đạo đức xã hội chủ nghĩa.
Danh dự là một khái niệm rộng gắn liền với một cá nhân hoặc một tổ chức nhất
định. Danh dự của một cá nhân bao gồm các yếu tố sau:


– Lòng tự trọng: tức là sự tự đánh giá mình, tự ý thức về giá trị, vị trí của mình
trong xã hội (chà đạp lên lịng tự trọng của người khác chính là xúc phạm đến danh
dự của người đó).
– Uy tín: chính là giá trị về mặt đạo đức và tài năng được công nhận ở một cá
nhân thơng qua hoạt động thực tiễn của mình tới mức mà mọi người trong một tổ
chức, một dân tộc cảm phục tơn kính và tự nguyện nghe theo. Trong danh dự có uy
tín, phá hoại uy tín cũng chính là phá hoại danh dự.

Ngồi ra có thể hiểu danh dự bao gồm cả nhân phẩm. Nhân phẩm là phẩm giá
con người, là giá trị tinh thần của một cá nhân với tính cách là một con người. Chà
đạp lên nhân phẩm của người khác cũng là xúc phạm đến danh dự người đó.
Danh dự của một tổ chức là sự đánh giá của xã hội và sự tín nhiệm của mọi người
đối với hoạt động của tổ chức đó.
Nhưng cần phân biệt mặc dù nhân phẩm cũng là một yếu tố của danh dự, song
giữa danh dự và nhân phẩm cũng có những điểm khác nhau nhất định:
Nếu danh dự được hình thành qua nhiều năm tháng của cuộc đời và được xã hội
đánh giá theo những tiêu chuẩn và nguyên tắc đạo đức xã hội chủ nghĩa thì nhân
phẩm lại có từ khi con người mới sinh ra. Danh dự có thể của một cá nhân hay tổ
chức, nhưng nhân phẩm chỉ là một khái niệm được áp dụng đối với cá nhân. Mặc dù
danh dự của một con người được hình thành từ những hành vi và cách cư xử, từ
cơng lao và thành tích của người đó có được qua nhiều năm tháng của cuộc đời và
được thừa nhận, nhưng mọi người dân đều có quyền được bảo vệ danh dự và nhân
phẩm như nhau không phân biệt vào công lao, công tác và những đặc điểm riêng
của người có quyền; những người khơng có năng lực hành vi dân sự, những người
mất năng lực hành vi dân sự cũng có quyền bảo vệ danh dự và nhân phẩm như mọi
cá nhân khác.
Cũng giống như những quyền dân sự khác, quyền được bảo vệ danh dự và nhân
phẩm của cá nhân chấm dứt khi cá nhân đó chết. Tuy nhiên, cũng có trường hợp vì


lợi ích của xã hội địi hỏi phải phục hồi danh dự và nhân phẩm cho một cá nhân mặc
dù cá nhân đó đã chết.
Xúc phạm đến danh dự và nhân phẩm thường thể hiện bằng cách: Dùng những
lời lẽ hoặc hành động có tính chất thóa mạ khinh bỉ để làm nhục người khác hoặc
gán một sự kiện xấu xa cho người khác làm cho xã hội đánh giá sai hoặc hình dung
sai về người đó. Sự đánh giá sai sự thật không phụ thuộc vào việc người đưa ra
những tin tức đó vơ tình hay cố ý.
Tiêu chuẩn để đánh giá những sự việc nêu ra là xấu xa hay không xấu xa là những

nguyên tắc đạo đức xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, tính chất nghiêm trọng của những
tin tức đưa ra có thể khác nhau tùy theo nhân thân của người bị hại. Ví dụ: Nếu nói
một em học sinh quay cóp khi thi mà khơng đúng sự thật thì cũng là điều đáng chê
trách và có thể cũng bị dư luận lên án, nhưng khơng nghiêm trọng bằng việc nói một
nhà văn đã ăn cắp văn của người khác.
Về quy định bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
trong bộ luật dân sự việt nam và hướng hoàn thiện
1.1.2.2. Khái niệm nhân phẩm danh dự của con người
Danh dự của con người là sự đánh giá của xã hội đối với một cá nhân về các mặt
đạo đức, phẩm chất chính trị và năng lực của người đó. Danh dự của một con người
được hình thành từ những hành động và cách cư xử của người đó, từ cơng lao và
thành tích người đó có được. Đối với tổ chức thì danh dự là sự đánh giá của xã hội
và sự tín nhiệm của mọi người đối với hoạt động của tổ chức đó.
Nhân phẩm là phẩm giá con người, là giá trị tinh thần của một cá nhân với tính
cách là một con người. Danh dự là sự đánh giá của xã hội đối với một cá nhân về
các mặt đạo đức, phẩm chất chính trị và năng lực của người đó.
Danh dự của một cá nhân bao gồm các yếu tố sau:
- Lòng tự trọng là sự tự đánh giá mình, tự ý thức về giá trị, vị trí của mình trong
xã hội


- Uy tín chính là giá trị về mặt đạo đức và tài năng được công nhận ở một cá
nhân thơng qua hoạt động thực tiễn của mình tới mức mà mọi người trong một tổ
chức, một dân tộc cảm phục tơn kính và tự nguyện nghe theo.
Thiệt hại do danh dự nhân phẩm uy tín khi bị xâm phạm của cá nhân cũng là một
trong loại trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Do vậy khi xác định thiệt hại xảy ra
cũng bao gồm thiệt hại về vật chất và những tổn thất về tinh thần. Thiệt hại về vật
chất cũng có thể xác định thơng qua các phương pháp khác nhau và người bị thiệt
hại phải chứng minh các thiệt hại yêu cầu bồi thường nhưng phải đảm bảo nguyên
tắc hợp lý. Thiệt hại về tinh thần không thể xác định bằng các đơn vị đo lường nhưng

bản thân người bị thiệt hại không thể chứng minh cho yêu cầu của mình bởi đây là
những thiệt hại đương nhiên khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Mức bồi
thường thiệt hại về tinh thần trước tiên do các bên tự thỏa thuận.
So với bộ luật dân sự 2005 Bộ luật dân sự năm 2015 có những điểm mới như
sau:
Thứ nhất: Bộ luật dân sự 2015 đã bỏ quy định về chủ thể bị xâm phạm danh dự,
nhân phẩm uy tín. Điều này là phù hợp vì việc liệt kê này là không cần thiết. Bởi bất
kỳ chủ thể nào chứng minh được danh dự, nhân phẩm hoặc uy tín của mình bị xâm
phạm thì đều có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Thứ hai, Bộ luật dân sự 2015 cũng có những sự điều chỉnh tương tự như đối với
trường hợp sức khỏe tính mạng bị xâm phạm như: bổ sung thiệt hại khác do pháp
luật quy định; cơ sở để tính mức bù đắp là lương cơ sở chứ không phải là lương tối
thiểu như Bộ luật dân sự năm 2005; mức bù đắp về tổn thất tinh thần được xác định
đối với mỗi người có danh dự nhân phẩm uy tín bị xâm phạm.
1.2 Quy định của pháp luật dân sự hiện hành về bồi thường thiệt hại do danh
dự nhân phẩm uy tín bị xâm phạm
1.2.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm


Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do danh dự nhân phẩm uy tín xâm phạm được
thừa nhận trên nguyên tắc được quy định tại Điều 34 khoản 5 Bộ luật dân sự như
sau: “Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự nhân phẩm uy tín thì
ngồi quyền bác bỏ thơng tin đó cịn có quyền u cầu người đưa ra thơng tin xin
lỗi, cải chính cơng khai và bồi thường thiệt hại”. Có thể thấy các khái niệm danh dự
nhân phẩm uy tín khơng được làm rõ bằng các quy định của Luật, do đó có thể nhìn
nhận các giá trị này về mặt pháp lý từ góc độ nhìn phổ thơng. Chẳng hạn đó có thể
được hiểu là những yếu tố tạo thành diện mạo tích cực của một người trong mắt
cộng đồng, sự lương thiện, biết điều, biết giữ chữ tín. Chửi rủa một người cũng là
xúc phạm xúc phạm danh dự của người đó, việc nói xấu cũng như có hành vi, thái

độ miệt thị, lăng nhục một người ở nơi công cộng cũng được coi là xúc phạm, danh
dự nhân phẩm uy tín. Hoặc hành vi gán cho một người nào đó một điều khơng đúng
sự thật cũng có thể coi là xâm phạm danh dự nhân phẩm uy tín của người đó. Xem
thêm hiến pháp quy định luật quy định và bản án bài báo…
1.2.1.1 Phải có thiệt hại xảy ra
- Khái niệm thiệt hại:
Thiệt hại là sự mất mát mà một chủ thể của quan hệ pháp luật phải gánh chịu. Đó
là sự thay đổi tình trạng sinh hoạt của chủ thể theo chiều hướng xấu: một người có
tài sản bị mất tài sản đó một người có sức khỏe bình thường nay bị yếu đi,… Tình
trạng bị thay đổi có thể là tình trạng vật chất (tài sản, tính mạng, sức khỏe…) hoặc
tình trạng tinh thần (danh dự, uy tín).
Như vậy ta có thể thấy, khơng có thiệt hại thì khơng có trách nhiệm dân sự. Ví
dụ như một người tâm thần nói năng chửi bới bâng quơi trên đường khơng xúc phạm
tới ai hết thì người đó cũng không phải chịu trách nhiệm dân sự… Pháp luật hiện
hành khi nhắc đến trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng có quy
định rõ: Tại khoản 1 Điều 584 Bộ luật dân sự “Người nào xâm phạm …..mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường….” Quy tắc này cũng được áp dụng cho việc xác lập


trách nhiệm dân sự trong hợp đồng, dù luật coi trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ
là một phần trách nhiệm trong hợp đồng chứ khơng phải tồn bộ trách nhiệm đó.
Tóm lại, có thiệt hại việc có thiệt hại là trong những điều kiện cơ bản để xác lập
trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật hiện hành. Thiệt hại làm phát sinh
trách nhiệm dân sự có thể là thiệt hại về vật chất hoặc thiệt hại về tinh thần.
Thiệt hại về vật chất: Thiệt hại vật chất trước hết là thiệt hại gây ra đối với tài sản
của một người. Khi nhắc đến trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ, luật
quy định thiệt hại vật chất là tổn thất vật chất thực tế tính được thành tiền do bên vi
phạm nghĩa vụ gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí ngăn chặn, hạn chế thiệt
hại, thu nhập thực tế bị mất bị giảm sút. (Bộ luật dân sự Điều 361 khoản 2) Khi nói
về thiệt hại ngồi hợp đồng luật phân biệt ra bốn nhóm thiệt hại: Thiệt hại do tài sản

bị xâm phạm Điều 589, thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm Điều 591 và Thiệt hại do
danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm phạm.
Thơng qua các điều luật trên chúng ta có thể thấy sự khác biệt trong cách phân
loại thiệt hại giữa hai loại trách nhiệm. Trong đó loại trách nhiệm bồi thường thiệt
hai ngồi hợp đồng thiệt hại do tính mạng sức khỏe, tính mạng, danh dự nhân phẩm
uy tín bị xâm phạm bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Trong khi
đó khi xây dựng trách nhiệm dân sự do khơng thực hiện nghĩa vụ, thì người làm luật
có nhắc đến thiệt hại về tinh thần như là tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến
tính mạng sức khỏe… do vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng là nguồn của thiệt hại về
vật chất cần được bồi thường.
Thiệt hại được nhắc đến tại điều luật bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về
tinh thần.
Thiệt hại về vật chất được mô tả tại Điều 592 khoản 1 Bộ luật dân sự 2015. “Thiệt
hại do danh dự nhân phẩm uy tín, bị xâm phạm. Thiệt hại do danh dự nhân phẩm uy
tín, bị xâm phạm bao gồm: Chi phí để hạn chế khắc phục thiệt hại; thu nhập thực tế
bị mất hoặc bị giảm sút; thiệt hại khác do luật quy định” .


Trong thực tiễn việc xác định thiệt hại vật chất do danh dự nhân phẩm uy tín bị
xâm hại khơng phải là việc đơn giản. Trong trường hợp phải bỏ chi phí để khác phục
thiệt hại ví dụ phải đăng tải thơng tin để cải chính đối với thơng tin bơi xấu, thì cách
xác định thơng tin bơi xấu, thì làm thế nào để xác định được phạm vi cải chính trong
khơng gian cũng như trong thời gian để có thể đẩy lùi được hiệu ứng của thông tin
xấu. (trang 261 sách thầy Điện). Do đó khơng phải ngẫu nghiên mà luật pháp các
nước coi tất cả các thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại thuộc nhóm
thiệt hại tinh thần và định lượng thiệt hại theo các nguyên tắc áp dụng cho các nhóm
thiệt hại tương ứng.
Thiệt hại tinh thần: Luật khơng có định nghĩa chính thức về thiệt hại tinh thần
trong khn khổ chế độ trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Vì người
làm luật muốn sử dụng khái niệm về thiệt hại về tinh thần đã được xây dựng theo

chế độ trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ. Theo ĐIều 361 Bộ luật dân sự khoản
3, thiệt hại về tinh thần là tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm và các lợi ích nhân thân khác có thể làm căn cứ tạo ra hai
nhóm thiệt hại – vật chất và tinh thần. Các chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi
dưỡng, phục hồi sức khỏe, chi phí mai táng, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm
sút, chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại,… được liệt kê ở khoản 1 của các
điều 590, 591, 592 Bộ luật dân sự là các thiệt hại về vật chất, còn thiệt hại về tinh
thần được gọi là tổn thất về tinh thần do hành vi xâm phạm các lợi ích đó, vẫn chưa
được quy định rõ ràng trong luật.
Dường như nhà làm luật chỉ muốn quy định sự hiện hữu cho thiệt hại về tinh thần
trong những trường hợp được luật dự kiến một khi có những hành vi xâm phạm đến
sức khỏe tính mạng danh dự nhân phẩm uy tín của một người thì ngồi thiệt hại về
vật chất ln có thiệt hại về tinh thần đi kèm. Luật không mô tả nội dung của thiệt
hại đó và Tịa án cũng khơng cần làm việc mô tả đặc điểm của thiệt hại tinh thần
mỗi khi xem xét việc bồi thường thiệt hại trong các trường hợp mà luật có ghi nhận
khả năng định tính thiệt hại tinh thần.


Đối với việc định lượng thiệt hại thì do Tịa án thực hiện tùy theo trường hợp.
Nhìn chung đây là những tổn thất liên quan đến các quyền khơng có tính chất tài sản
đến những lợi ích phi vật chất cần thiết cho cuộc sống như: danh tiếng, tình cảm….
Tổn thất về tinh thần không định giá được bằng tiền. Việc dùng tiền để bồi thường
về tổn thất về tinh thần mang tính chất của một hành phạt nhiều hơn là của một biện
pháp bồi thường ngang giá.
Thiệt hại tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Thiệt hại về tinh
thần do danh dự nhân phẩm uy tín bị xâm phạm được quy định tại Khoản 2 Điều
592 BLDS “Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân
phẩm uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại
khoản 1 điều này và một khoản tiền khác để bù đắp về tổn thất về tinh thần mà người
đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp về tinh thần do các bên tự thỏa thuận; nếu

không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự nhân phẩm uy tín
bị xâm phạm khơng q mười lần mức lương cơ sở do nhà nước quy định.
Thiệt hại tinh thần gắn với lợi ích nhân thân khác của chủ thể Bộ luật dân sự mới
chỉ dừng lại ở việc chính thức thừa nhận và có quy định chi tiết định lượng mức bồi
thường thiệt hại tinh thần trong các trường hợp xâm phạm sức khỏe tính mạng, danh
dự, nhân phẩm uy tín bị xâm phạm. Việc luật quy định “Thiệt hại tinh thần gắn với
lợi ích nhân thân khác của chủ thể” mặc dù được ghi nhận tại Điều 361 khoản 3 Bộ
luật dân sự nhưng chưa được cụ thể hóa. Hai vấn đề này được đặt ra để làm rõ tình
trạng pháp lý của thiệt hại này.
Thứ nhất, các lợi ích nhân thân khác là gì? Bộ luật dân sự thừa nhận các quyền
nhân thân theo một danh sách được liệt kê từ Điều 26 đến Điều 39, Tuy nhiên không
phải quyền nhân thân nào cũng có nguy cơ bị xâm phạm. Ví dụ như rất khó để xác
định quyền nhân thân về việc yêu cầu thay đổi họ tên, trong trường hợp một cá nhân
yêu cầu thay đổi họ và tên nhưng bị cơ quan cơng quyền từ chối mà khơng có lý do
thuyết phục có thể gây thiệt hại về tinh thần. Dù sao vẫn có rất nhiều quyền nhân
thân bị xâm phạm dẫn đến bị tổn thất về tinh thần, nhưng nhà làm luật lại không quy
định cụ thể như đối với các trường hợp xâm phạm về quyền của cá nhân đối với các


hình ảnh, hay xâm phạm đến đời tư của một người gây ảnh hưởng tiêu cực đối với
danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó. Một khi sự tổn thương đó được ghi nhận
thì vấn đề thiệt hại mới được đặt ra bên cạnh thiệt hại vật chất. Nếu do việc làm lộ
bí mật đời tư mà người này chỉ bị quấy nhiễu làm phiền phải mất thời gian cơng sức
để đối phó thì dường như pháp luật chưa thừa nhận cho người bị xâm phạm có quyền
được yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần (trang 264) sách thầy Điện.
Thứ hai thiệt hại tinh thần gắn với lợi ích nhân thân khác ấy được nhận dạng như
thế nào? Trong điều kiện chưa có câu trả lời rõ ràng của luật viết, cũng có thể thừa
nhận cách giải quyết cũng giống như đối với các trường hợp xâm phạm một lợi ích
gì đó mà thiệt hại tinh thần được mặc định. Nói rõ hơn, việc xâm phạm lợi ích nhân
thân, một khi ảnh hưởng đến danh dự nhân phẩm uy tín thì thiệt hại tinh thần cũng

được mặc định.
Ta có thể so sánh với quy địn của pháp luật một số nước như pháp luật của nước
Pháp. Luật của nước Pháp chỉ xây dựng khái niệm thiệt hại tinh thần trong học
thuyết. Thiệt hại tinh thần là thiệt hại gây ra đối với các giá trị khơng tính thành tiền,
Bao gồm thiệt hại đối với danh dự (do bị làm nhục, vu khống), sự bình yên do bị
xâm phạm đời tư sử dụng trái phép hình ảnh, tình cảm (do hành vi ngoại tình…) mất
thú cung do một hoặc một tài sản có giá trị gắn bó lớn hơn với giá trị về kinh tế. và
nói chung, niềm vui niềm hứng thú với cuộc sống (mất khả năng thực hiện việc gì
đó như đi du ngoại, chơi thể thao, đi ăn uống, rơi vào sự trầm cảm…) với quan niệm
như thế thì dù bất kỳ hành vi nào tác động vào đối tượng nào cũng có thể là tác nhân
gây thiệt hại về tinh thần. Chắc chắn người bị xúc phạm danh dự nhân phẩm, uy tín
có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần. Chắc chắn người bị xúc phạm
danh dự nhân phẩm uy tín có quyền yêu cầu bồi thường yêu cầu bồi thường thiệt hại
về tinh thần, Người có tài sản bị xâm phạm cũng có quyển yêu cầu bồi thường thiệt
hại về tinh thần bên cạnh yêu cầu bồi thường thiệt hại về vật chất do tài sản bị mất
ngoài sự mất mát.
Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần chỉ mới được thừa nhận ở Pháp
từ thế kỷ 19 song song với việc xây dựng và hoàn thiện chế định quyền nhân thân.


Trong chừng mực nào đó có thể nói quyền nhân thân và thiệt hại về tinh thần là hai
khái niệm mà sự hình thành và phát triển hồn hiện dựa vào sự tương tác lẫn nhau.
Về định lượng thì thẩm phán xem xét từng trường hợp và tự minh quyết định con số
ấn định mức bồi thường được cho là thỏa đáng, luật không quy định mức khung bồi
thường với mức trần được xác định rõ.
Luật của các nước theo văn hóa của người Anh – Mỹ khơng xây dựng khái niệm
thiệt hại tinh thần mà có khái niệm thiệt hại khơng tính thành tiền như đối trọng của
khái niệm thiệt hai tính thành tiền. Thiệt hại khơng tính thành tiền được cho là để bù
đắp nỗi đau trong long, sự chịu đựng (khổ tâm) và sự mất hứng thú trong việc hưởng
thụ niềm vui sống. Việc bồi thường thiệt hại khơng tính thành tiền như là cách bù

đắp, đúng hơn nữa là sự an ủi đối với tổn thất phi vật chất mà nguyên đơn phải gánh
chịu và có tác dụng làm cho cuộc sống của người bị thiệt hại đỡ bị nặng nề hơn.
Cũng như luật của Pháp, luật của các nước theo văn hóa Anh – Mỹ cho rằng khơng
thể xây dựng được một mức bình thường một cách rõ ràng; mỗi trường hợp được
xem xét theo các yếu tố đặc thù và việc ấn định mức bồi thường chỉ mang tính đánh
giá ước định chứ khơng thể tính tốn con số theo Tốn học.
Chủ thể được cho là bị thiệt hại trên nguyên tắc là người chịu tác động của hành
vi gây thiệt hại vật chất: Người có sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm
phạm (Điều 590 khoản 2, Điểu 592 khoản 2). Theo quy định của Luật pháp các
nước, người chịu thiệt hại về tinh thần có thể là người mà trái pháp luật trực tiếp
nhắm tới nhưng cũng có thể là người chịu thiệt hại qua trung gian của nạn nhân trực
tiếp của hành vi đó. Thậm chí người được cho là bị thiệt hại về tinh thần là người
khơng có liên quan gì với sự kiện mà chỉ là người chứng kiến.
Trong trường hợp một người bị xúc phạm danh dự nhân phẩm uy tín mà luật quy
định chỉ người này mới được có quyền bồi thường thiệt hại về tinh thần thì khơng
hợp lý. Bởi vì trong thực tiễn có nhiều trường hợp mặc dù một cá nhân bị xúc phạm
danh dự uy tín có thể ảnh hưởng đến cả gia đình hoặc một nhóm người ví dụ người
cha khơng có hành vi trộm cắp nhưng bị vu oan là người trộm cắp thì có thể sẽ ảnh
hưởng đến danh dự của vợ con, dòng họ… Nếu người cha này được minh oan thì


×