Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Giáo dục đạo đức cho thanh niên của đoàn thanh niên cộng sản hồ chí minh tỉnh bắc ninh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 114 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thanh niên là lực lượng đông đảo, chiếm trên 1/3 dân số và trên 1/2 lực
lượng lao động xã hội, có vai trị quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi đánh giá về vai
trị của thanh niên, đã nhấn mạnh: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước
nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các
thanh niên” [51, tr.185]. Chính vì lý do đó, việc bồi dưỡng, chăm lo giáo dục cho
tầng lớp này có tầm quan trọng đặc biệt. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã từng
căn dặn: “Đảng phải có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng họ thành những người kế
tục sự nghiệp cách mạng vừa hồng vừa chuyên. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau là một việc làm rất quan trọng và rất cần thiết” [53, tr.510].
Kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong Nghị quyết
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VII, khóa X về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta khẳng định: “Thanh niên là rường
cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại
của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây
dựng chủ nghĩa xã hội" [7, tr.7].
Trong những năm qua, nhận thức được tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà
nước ta cùng với các tổ chức chính trị - xã hội khác đã luôn chú trọng đến công
tác thanh niên, quan tâm, bồi dưỡng giáo dục thanh niên về đạo đức, lối sống,
bản lĩnh chính trị, hướng tới xây dựng lớp người kế tục mục tiêu, lý tưởng của
Đảng “Xây dựng nước Việt Nam độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội”.
Trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo, định hướng của Đảng và vai trò, trách nhiệm
của tổ chức đối với công tác giáo dục cho thanh niên, trong thời gian qua, Đồn
TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh đã phát huy vai trò, tổ chức tốt các hoạt động
1



tuyên truyền, giáo dục, rèn luyện cho thanh niên. Trong đó, cơng tác giáo dục
đạo đức là một trong những nội dung trọng tâm được thực hiện. Tuy nhiên, công
tác giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh
cịn có những hạn chế nhất định. Thực trạng này địi hỏi tổ chức Đồn TNCS Hồ
Chí Minh tỉnh Bắc Ninh cần đặc biệt chú trọng việc giáo dục đạo đức cho thanh
niên; qua đó, phát huy vai trò to lớn của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng
Việt Nam hiện nay. Chính vì lý do đó, tơi lựa chọn chủ đề Giáo dục đạo đức cho
thanh niên của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh hiện
nay làm đề tài luận văn thạc sĩ Quản lý cơng của mình
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục đạo đức cho thanh niên nói riêng
trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng ở nước ta là một yêu cầu, nhiệm vụ
quan trọng đặt ra thường xuyên, liên tục đối với tổ chức Đồn TNCS Hồ Chí
Minh. Do đó, vấn đề này thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa
học với nhiều cơng trình được cơng bố với những mức độ, cách tiếp cận khác
nhau.
Thứ nhất, những nghiên cứu về giáo dục đạo đức:
- Cơng trình “Giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi mới, chủ trương, thực
hiện, đánh giá” (Ban Khoa giáo Trung ương, Nxb Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội, 2002) bao gồm các văn kiện của Đảng, một số bài phát biểu của
các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước tập trung đánh giá những thành tựu
cũng như những hạn chế của ngành giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói
riêng; đồng thời, cơng trình chỉ ra phương hướng và nhiệm vụ trong thời gian tới
giúp chúng ta nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về cơng tác giáo dục và đào tạo ở nước ta trong thời kỳ đổi mới.
- Trong bài viết “Vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự phát triển nhân
cách trong cơ chế thị trường” (Trong cuốn: Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc
đồng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003), tác giả Nguyễn Văn Phúc
2



cho rằng, nền kinh tế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực, cịn có những ảnh
hưởng, tác động tiêu cực tới nhân cách mỗi người. Đó là sự vị kỷ, chỉ biết tới lợi
ích cá nhân mà bỏ qua lợi ích cộng đồng, xã hội; là sự vơ cảm, thờ ơ trong mối
quan hệ giữa người với người; là sự “lệch chuẩn”… Vì vậy, theo tác giả, giáo
dục đạo đức góp phần khơng nhỏ vào việc đánh thức lương tâm, đề kháng được
các chuẩn mực đạo đức xa lạ khơng phù hợp với dân tộc, hình thành và củng cố
trong con một niềm tin sâu sắc vào những giá trị đích thực và lâu bền của con
người…[77, tr.215-222].
Bên cạnh những cơng trình trên, những cơng trình đi sâu phân tích về đạo
đức truyền thống Việt Nam cũng có ý nghĩa quan trọng tạo ra một cái nhìn tồn
diện và sâu sắc trong quá trình giáo dục đạo đức ở Việt Nam hiện nay, trong đó
phải kể đến cơng trình Luận án “Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng
đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay” của tác giả Ngô Thị Thu Ngà
năm 2011 tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; “Xây dựng nhân cách
con người Việt Nam hiện nay dưới góc độ truyền thống” của tác giả Cao Thu
Hằng (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016)…
Thứ hai, những nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho thanh niên:
- Công trình “Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt Nam trong quá
trình đổi mới và hội nhập quốc tế” do Phạm Hồng Tung chủ biên tập trung làm
sáng tỏ những vấn đề cơ bản về thanh niên và lối sống của thanh niên; khảo sát
và phân tích tình hình thanh niên Việt Nam và lối sống của thanh niên trong hơn
hai thập kỷ đổi mới đất nước, thông qua đó chỉ ra những đặc trưng cơ bản của
thanh niên và đặc trưng lối sống của thanh niên; xu hướng biến đổi của thanh
niên trong hội nhập quốc tế, chỉ ra những yếu tố tác động cơ bản và đưa ra các
giải pháp nhằm xây dựng lối sống của thanh niên Việt Nam phù hợp với tiến
trình đổi mới của đất nước.
- Cơng trình“Giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trong điều kiện kinh tế
thị trường ở Việt Nam hiện nay” của Lương Gia Ban, Nguyễn Thế Kiệt, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013. Cuốn sách phân tích tầm quan trọng và nội
3


dung giáo dục đạo đức mới cho sinh viên; khái quát thực trạng và những vấn đề
đặt ra trong việc giáo dục đạo đức mới cho sinh viên; từ đó, đề xuất một số
phương pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức mới cho sinh
viên trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngoài các cuốn sách, các luận án, luận văn trên, liên quan đến chủ đề này
cũng có có thể kể đến một số bài viết, như “Giáo dục truyền thống cách mạng
cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Lại Quốc Khánh, Phan Duy
An, Tạp chí Tuyên giáo, số 9 (2013). Trong bài viết này, theo các tác giả, để
nâng cao hơn nữa chất lượng hiệu quả công tác giáo dục lý tưởng và đạo đức
cách mạng cho thanh niên cần phải thực hiện một số giải pháp cơ bản và các giải
pháp cần phải được thực hiện đồng bộ.
Thứ ba, những nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho thanh niên của
Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh:
- Cơng trình “Tổng quan tình hình thanh niên, cơng tác Đồn và phong
trào thanh thiếu niên giai đoạn 2007-2012” do tác giả Nguyễn Đắc Vinh làm
chủ biên được xuất bản năm 2012. Cuốn sách tiếp cận các vấn đề liên quan đến
thanh niên và đặt nó trong tương quan chung của xã hội, so sánh với các giai
đoạn trước để chỉ ra những biến đổi, chiều hướng biến đổi của các vấn đề; những
yếu tố tác động đến sự biến đổi đó; tổng kết, xác định những vấn đề nổi bật về
tình hình thanh niên trong giai đoạn 5 năm (2007 – 2012); đánh giá hiệu quả
cơng tác, tác động của hoạt động Đồn đến thanh niên nói chung và sinh viên
nói riêng. Đồng thời, cơng trình cũng nghiên cứu những cơ sở lý luận, thực tiễn,
từ đó đề xuất mục tiêu, phương hướng, giải pháp cơng tác Đồn trong nhiệm kỳ
tới.
- Cơng trình“Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh – Những chặng
đường phát triển” do tác giả Vũ Quang Hiển chủ biên (Nxb Chính trị quốc gia

– sự thật, Hà Nội, 2014), đã tổng hợp nhiều bài viết của các tác giả khác nhau
với các nội dung: tái hiện những trang sử vàng của các thế hệ thanh niên Việt
Nam, khẳng định vai trò của lực lượng thanh niên Việt Nam trong quá trình hội
4


nhập và phát triển đất nước hiện nay; nêu ra nhiều quan điểm, đường lối của
Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với thanh niên và công tác thanh niên trong
thời kỳ đổi mới; vai trị của Đồn TNCS Hồ Chí Minh trong cơng tác vận động
thanh niên giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, trong giao lưu văn hóa
quốc tế,…
Thứ tư, quản lý nhà nước về giáo dục đạo đức thanh niên:
Nguyễn Thị Ngọc Huyền (2017) Quản lý giáo dục đạo đức cho thanh niên
thành phố Hà Nội trong bối cảnh đổi mới”. Nghiên cứu đã hệ thống hóa cơ sở
lý luận và kinh nghiệm quốc tế về giáo dục đạo đức và quản lý giáo dục đạo đức
cho thanh niên .Khảo sát và đánh giá thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho
thanh niên tại thành phố Hà Nội. Đề xuất các giải pháp quản lý giáo dục đạo đức
cho thanh niên trên địa bàn thành phố Hà Nội trong bối cảnh đổi mới hiện nay.
Tổ chức khảo nghiệm và thử nghiệm các giải pháp quản lý đã đề xuất.
Phạm Văn thành (2009), Giáo dục đạo đức cho đoàn viên - thanh niên ở
nước ta hiện nay – Thực trạng và giải pháp. Ở nghiên cứu này, tác giả cho rằng,
yếu tố quyết định là ý thức tự giáo dục thực sự nghiêm khắc – sự phấn đấu hướng
thiện của từng cá nhân, nhất là của đoàn viên – thanh niên…kết hợp chặt chẽ
giáo dục đạo đức trong nhà trường với gia đình và ngoài xã hội, GDĐĐ cho tuổi
trẻ, đặc biệt là đoàn viên – thanh niên đã và đang trở thành nhiệm vụ cấp bách,
nhiệm vụ hàng đầu của các gia đình, nhà trường và tồn xã hội”. Nghiên cứu đã
chỉ rõ, việc giáo dục đạo đức cho đoàn viên- thanh niên là một vấn đề nổi cộm
và cấp thiết trong xã hội hiện nay.
Lê Thị Hồng Duyên (2015), “Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới” đã phần nào cụ thể hóa được mục tiêu giáo dục đạo đức

cho thanh niên và đã cụ thể hóa được các hoạch định chiến lược giáo dục toàn
diện cho thanh niên trong việc thực hiện nhiệm vụ đào tạo con người phát triển
tồn diện để phục vụ cho cơng cuộc xây dựng CNH và HĐH đất nước và giúp
cho nước ta trở thành một nước phát triển bền vững. Tác giả đã nêu ra các định
hướng giá trị đạo đức của thanh niên Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH. Từ
5


thực trạng đạo đức của thanh niên hiện nay, công trình nghiên cứu này đã nêu ra
một số giải pháp ở tầm vĩ mô về giáo dục và đào tạo với các yêu cầu đặt ra như:
tiếp tục đổi mới hình thức, nội dung, hình thức giáo dục đạo đức trong các trường
học; củng cố ý tưởng giáo dục đạo đức ở gia đình và cộng đồng, kết hợp chặt
chẽ giáo dục nhà trường trong việc GDĐĐ cho mọi người,…
Thành cơng ở cơng trình nghiên cứu này là đã đưa ra một hệ thống giải pháp
quản lý giáo dục đạo đức. Trong đó có giải pháp “Tổ chức phong trào thi đua
yêu nước và các phong trào rèn luyện đạo đức và lối sống cho toàn dân trước hết
là đoàn viên, thanh niên, cán bộ, đảng viên,”. Cơng trình này cũng khẳng định
để đạt được hiệu quả trong việc quản lý giáo dục đạo đức thì điều kiện then chốt,
quyết định là cơ chế chỉ đạo thống nhất. Muốn vậy phải có một tổ chức phụ trách
từ Trung ương tới cơ sở, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, cần thiết phải thành
lập một ủy ban quốc gia giáo dục đạo đức để chỉ đạo, quản lý hoạt động giáo dục
đạo đức cho toàn xã hội với các nhiệm vụ cụ thể như: Thứ nhất, xây dựng chương
trình, kế hoạch giáo dục đạo đức, quán triệt tư tưởng cho toàn xã hội; Thứ hai,
thiết kế các hoạt động giáo dục đạo đức chung; Thứ ba, soạn thảo các các chế
độ, chính sách, các chuẩn mực đạo đức, quy trình tổ chức giáo dục đạo đức; Thứ
tư, thanh kiểm tra, đánh giá thi đua khen thưởng, đề xuất các phong trào thi đua
khen thưởng, rèn luyện đạo đức
Nguyễn Thị Hoàng Anh (2011) ,Xây dựng mơ hình quản lý cơng tác giáo
dục đạo đức cho sinh viên các trường ĐH trong giai đoạn hiện nay” . Cơng trình
này đã nghiên cứu lý luận, thực trạng và đề xuất các giải pháp quản lý công tác

giáo dục đạo đức cho sinh viên sư phạm trong các trường đại, nhằm đề xuất mơ
hình mới về quản lý công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên và các giải pháp
thực hiện mơ hình
Thứ năm, những nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho thanh niên của
Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh:
Về cơ bản, việc giáo dục đạo đức cho thanh niên tỉnh Bắc Ninh cũng đã
6


được chú ý, quan tâm. Tuy nhiên, sự quan tâm này mới chỉ dừng lại ở mức độ
trong các báo cáo hàng năm, thường kỳ. Cho đến nay, chưa có một cơng trình
nào nghiên cứu một cách có hệ thống công tác giáo dục đạo đức cho thanh niên
tỉnh Bắc Ninh nói chung và cơng tác giáo dục đạo đức cho thanh niên trong tỉnh
của Đồn TNCS Hồ Chí Minh nói riêng. Tuy nhiên, các báo cáo này cũng là tài
liệu tham khảo quý để học viên tham khảo trong quá trình triển khai nghiên cứu
đề tài. Trong các báo cáo đó, có thể kể đến Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Đồn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh khóa XIII trình tại Đại hội đại biểu
Đồn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2017 – 2022 và
Báo cáo tổng kết công tác giáo dục của Đồn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh
giai đoạn 2012 – 2017. Các báo cáo đã tổng kết, đánh giá thực tiễn 05 năm
(2012 – 2017) thực hiện chức năng giáo dục cho đoàn viên, thanh niên Bắc Ninh
của Đồn TNCS Hồ Chí Minh. Báo cáo cũng đã tổng kết thực tiễn, đưa ra các số
liệu phản ánh thực tế, rút ra những đánh giá khách quan về công tác giáo dục cho
thanh niên và những bài học kinh nghiệm sâu sắc cho nhiệm kỳ sau. Theo đó,
cơng tác giáo dục cho đồn viên, thanh niên Bắc Ninh do Đồn TNCS Hồ Chí
Minh tỉnh Bắc Ninh thực hiện đã đạt những kết quả rất quan trọng, được các cấp
ủy Đảng, chính quyền và tồn xã hội đánh giá cao, đồng tình, ủng hộ. Tuy nhiên,
với phạm vi của các báo cáo nên chưa đưa ra các nhóm giải pháp bài bản góp
phần nâng cao cơng tác giáo dục đạo đức cho đoàn viên, thanh niên Bắc Ninh
trong giai đoạn hiện nay.

Thứ sáu, Những nghiên cứu về giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức,
lối sống cho thanh niên, sinh viên về tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh đã có
nhiều cơng trình khoa học có giá trị được cơng bố như: Phạm Ngọc Anh – Bùi
Đình Phong (2009), Hồ Chí Minh – văn hóa và phát triển, Nxb Chính trị - hành
chính, Hà Nội. Phạm Ngọc Anh (2012), Triết lý phát triển Hồ Chí Minh – Gía trị
lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồng Chí Bảo (2009), Văn
hóa đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội… Trong các cuốn
sách, các bài viết trên, các tác giả bàn đến nguồn gốc, đặc điểm tư tưởng đạo đức
7


Hồ Chí Minh, các giá trị chuẩn mực của đạo đức mới, con đường tu dưỡng đạo
đức cách mạng, vai trị của thanh niên trong cách mạng Việt Nam.
Nhìn chung, các cuốn sách, các cơng trình nghiên cứu, bài viết trên đều rất
phong phú về nội dung và có hàm lượng khoa học cao, đã có đóng góp nhất định
trong việc nêu rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về yêu cầu của việc giáo dục
đạo đức nói chung, giáo dục đạo đức cho thanh niên ở nước ta hiện nay; đã làm
sáng tỏ ở mức độ nhất định tác động của các điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị
trong và ngồi nước tới sự biến đổi của đạo đức xã hội, đạo đức thanh niên, đề ra
một số phương hướng để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức. Tuy nhiên, một
mặt, sự tổng quan của các cơng trình nghiên cứu, bài viết nói trên phản ánh tầm
quan trọng và yêu cầu bức thiết của vấn đề giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ. Mặt
khác, cũng cho thấy, việc giáo dục đạo đức cho thanh niên tỉnh Bắc Ninh của
Đồn TNCS Hồ Chí Minh hiện nay cũng chưa được tập trung nghiên cứu một
cách có hệ thống, bài bản và chuyên sâu. Vì vậy, việc triển khai nghiên cứu đề
tài “Giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh tỉnh Bắc Ninh hiện nay” mang tính cấp thiết đối với thanh niên tỉnh Bắc
Ninh hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn

Trên cơ sở làm rõ vấn đề lý luận chung về tổ chức giáo dục đạo đức cho
thanh niên và đánh giá thực trạng tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh niên của
Đồn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh hiện nay, từ đó đề xuất một số phương
hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức giáo dục đạo đức
cho thanh niên của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:
Một là, làm rõ một số vấn đề lý luận chung về tổ chức giáo dục đạo đức
cho thanh niên của Đồn TNCS Hồ Chí Minh.
Hai là, phân tích thực trạng tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh niên của
8


Đồn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh hiện nay
Ba là, đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đồn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc
Ninh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài chỉ đi sâu vào nghiên cứu vấn đề tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh
niên của Đồn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về thời gian: Luận văn nghiên cứu từ năm 2014 đến nay.
- Phạm vi về không gian: địa bàn tỉnh Bắc Ninh
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước về tổ
chức giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đồn TNCS Hồ Chí Minh.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, cùng các phương pháp nghiên
cứu khoa học cụ thể như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hồn thiện cơ sở lý luận
chung về tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đồn TNCS Hồ Chí Minh
hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy, tổng kết thực tiễn và có ý nghĩa khuyến nghị trong việc
nâng cao vai trò tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đồn TNCS Hồ
Chí Minh nói chung, Đồn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh nói riêng trong
tình hình hiện nay.
9


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về tổ chức giáo dục đạo đức cho
thanh niên của Đồn TNCS Hồ Chí Minh.
Chương 2: Thực trạng tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
Chương 3: Một số phương hướng và giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng
tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đồn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc
Ninh.

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN CỦA ĐOÀN
THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH

10


1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm thanh niên
Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, là nguồn lực mạnh mẽ thúc đẩy sự
phát triển của xã hội ở hiện tại và là chủ thể sáng tạo của tương lai; thanh niên có
vị trí quan trọng trong suốt tiến trình lịch sử hình thành và phát triển của tất cả
các dân tộc và các quốc gia trên thế giới.
Hiện nay, khái niệm thanh niên được định nghĩa chưa có sự thống nhất,
tùy thuộc vào nội dung và góc độ tiếp cận mà người ta đưa ra các khái niệm khác
nhau về thanh niên. Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa thơng tin, năm
1999, định nghĩa “Thanh niên là người còn trẻ, đang ở độ tuổi trưởng thành” [33,
tr.871], khái niệm này nhìn nhận thanh niên dưới hai góc độ là độ tuổi – sinh học,
và sự phát triển đến một mức được cho là hoàn chỉnh, đầy đủ về mọi mặt – sự
trưởng thành.
Từ góc độ sinh học, thanh niên là giai đoạn được xác định khi mà quá trình
phát triển của cơ thể con người đã trải qua một khoảng thời gian nhất định, ở giai
đoạn này sự phát triển về mặt sinh học như tầm vóc, hệ các cơ quan bên trong và
các bộ phận bên ngoài của cơ thể đã dần hoàn thiện về mặt chức năng. Độ tuổi
thanh niên được quy định tùy thuộc vào quan điểm và nhận thức của mỗi quốc
gia, dao động từ 12 đến 35 tuổi, khái niệm độ tuổi có thể chỉ bao hàm về mặt thời
gian và mức độ phát triển sinh học của cơ thể con người hoặc phản ánh vị thế xã
hội và hoạt động đặc trưng nhất định của một bộ phận con người trong xã hội; để
xác định độ tuổi của một cá thể thanh niên có thể dựa vào tuổi sinh học, tuổi
xương, tuổi răng hoặc tuổi dậy thì,....
Từ góc độ sự trưởng thành, thanh niên được xem là giai đoạn phát triển
chuyển tiếp từ thiếu nhi sang giai đoạn hoạt động tương đối độc lập với tư cách
là một cơng dân có trách nhiệm. Theo đó, những cá nhân đạt đến một độ tuổi nhất
định về mặt pháp lý tùy theo từng quốc gia, thì được coi là đã đạt tới tuổi trưởng

thành về tuổi tác, nhận thức và phải chịu trách nhiệm về các hành vi của mình.
Sự trưởng thành này là phép đo của sự trưởng thành về sinh lý, thể chất, cũng
11


như trong suy nghĩ, nhận thức, tích lũy về kinh nghiệm sống và trình độ học vấn
qua thời gian; khả năng giao tiếp, thấu hiểu, kết nối và duy trì các mối quan hệ
xã hội, bộc lộ năng lực hoạt động trong một mơi trường văn hóa, xã hội đặc thù.
Mức độ trưởng thành còn thể hiện qua khả năng đóng góp cho nền kinh tế – xã
hội từ góc độ kinh tế học, thanh niên được xem là một lực lượng to lớn và nguồn
bổ sung quan trọng hàng đầu cho lực lượng lao động trên tất cả các lĩnh vực,
quyết định đến sự phát triển có hiệu quả của cả nền kinh tế – xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, triết học Mác – Lênin
định nghĩa con người là khái niệm chỉ những cá thể người như một chỉnh thể
trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó. Con người vừa là
sản phẩm của sự tiến hoá lâu dài từ giới tự nhiên và giới sinh vật, vừa là sản phẩm
hoạt động của chính bản thân con người, “là thực thể thống nhất giữa các yếu tố
sinh vật và các yếu tố xã hội” [45, tr. 520]. Theo đó, thanh niên là một giai đoạn
phát triển nhất định của cơ thể con người, do đó, nó mang những bản chất đặc
trưng của con người, nó là một khái niệm dùng để chỉ một bộ phận người tồn tại
ở một độ tuổi nhất định trong một giai đoạn xác định, một khơng gian nhất định
có thể của một dân tộc, một quốc gia hoặc thậm chí là quy mơ của cả xã hội loài
người, với những đặc điểm sinh học, tâm lý và sự phát triển nhận thức ở một trình
độ nhất định.
Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25 tháng 7 năm 2008 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, Khóa X khẳng định “Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn,
một trong những nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc; là
lực lượng chủ yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm những cơng việc địi hỏi hy
sinh, gian khổ, sức khỏe và sáng tạo. Thanh niên là độ tuổi sung sức nhất về thể
chất và phát triển trí tuệ, ln năng động, sáng tạo, muốn tự khẳng định mình…”.

Để xác định độ tuổi thanh niên Việt Nam, trong q trình xây dựng Luật Thanh
niên, có rất nhiều ý kiến khác nhau của các chuyên gia và các nhà khoa học được
đưa ra bàn bạc, thảo luận để đi đến sự thống nhất khi ban hành:“Thanh niên quy

12


định trong Luật này là công dân Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi”
[99, Điều 1].
Từ các phân tích trên cho thấy, để nhìn nhận và đưa ra khái niệm thanh
niên, cần phải đánh giá thanh niên một cách tương đối tồn diện dưới nhiều góc
độ khác nhau, từ những đặc điểm sinh học, tâm lý,... cho đến sự phát triển của
nhận thức đến một mức độ nhất định; gắn thanh niên với mọi giai cấp, mọi tầng
lớp trong xã hội và trên mọi lĩnh vực hoạt động khác nhau của đời sống xã hội.
Với cách hiểu về thanh niên như vậy: Thanh niên là một lực lượng xã hội
đặc thù, ở độ tuổi từ 16 đến 30 tuổi, mang những đặc trưng tâm, sinh lý, sung sức
nhất về thể chất và phát triển trí tuệ; ln năng động, sáng tạo, muốn tự khẳng
định mình; có mặt trong tất cả các nhóm dân tộc, giai cấp, tầng lớp trong xã hội
và trên mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, là nguồn lực mạnh mẽ thúc
đẩy sự phát triển của xã hội hiện tại và tương lai.
Theo cách quản lý và phân loại đối tượng thanh niên của Trung ương Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, thanh niên Việt Nam được chia thành các
nhóm sau: thanh niên nơng thơn, thanh niên cơng nhân, thanh niên công chức và
viên chức, thanh niên đô thị, thanh niên học sinh và sinh viên, thanh niên trong
các lực lượng vũ trang. Các nhóm thanh niên đặc thù bao gồm: thanh niên dân
tộc thiểu số, thanh niên có đạo, thanh niên đang học tập, lao động ở nước ngồi.
Các nhóm thanh niên yếu thế bao gồm: thanh niên bị nhiễm HIV/AIDS, thanh
niên khuyết tật, thanh niên sau cai nghiện và sau cải tạo trở về tái hòa nhập với
cộng đồng.
1.1.2. Khái niệm Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh

Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930), Đảng đã thấy rõ tầm
quan trọng của việc xây dựng tổ chức Đoàn. Tại hội nghị Ban Chấp hành lần thứ
hai họp từ ngày 20 đến 26/3/1931, Trung ương Đảng đã giành 01 ngày trong thời
gian hội nghị để bàn và quyết định những vấn đề quan trọng về công tác vận
động thanh niên của Đảng. Xuất phát từ ý nghĩa đặc biệt ấy, được sự đồng ý của
Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ III (họp
13


từ ngày 22 đến 25/3/1961 tại Hà Nội) đã quyết định lấy ngày 26/3/1931 là ngày
thành lập Đoàn.
Đoàn bao gồm những thanh niên tiên tiến, phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng
của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh,
xã hội cơng bằng, văn minh. Điều lệ Đồn khẳng định: Đồn TNCS Hồ Chí Minh
là tổ chức chính trị-xã hội của thanh niên Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam
và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện” [22, tr.9]. Điều này
phản ánh đầy đủ Đoàn là một tổ chức thanh niên Cộng sản mang tính tiên tiến
của giai cấp cơng nhân và tính quần chúng rộng rãi của thanh niên Việt Nam
thông qua việc tổ chức các phong trào, hoạt động có tính chất xã hội, mỗi đoàn
viên và cơ sở Đoàn đều được thể hiện tinh thần xung kích cách mạng, thực hiện
mục tiêu, lý tưởng của Đảng.
Đồn có 3 đặc điểm cơ bản: là đội dự bị tin cậy của Đảng, thường xuyên
bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, Nhà nước và các ngành. Đồn ln ln xác
định nhiệm vụ của mình là đội quân xung kích cách mạng tích cực tham gia xây
dựng Đảng và là người kế tục trung thành sự nghiệp cách mạng vẻ vang của
Đảng và của Bác Hồ; là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên, tạo môi
trường đưa thanh niên vào các hoạt động giúp học tập rèn luyện và phát triển
nhân cách, năng lực của người lao động mới phù hợp với yêu cầu của xã hội hiện
nay; là người đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tuổi trẻ. Đặc
điểm này khẳng định rõ tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là tổ chức của thanh

niên, vì thanh niên.
Được xây dựng, rèn luyện và trưởng thành qua các thời kỳ đấu tranh cách
mạng, Đồn TNCS Hồ Chí Minh đã tập hợp đông đảo thanh niên phát huy chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, cống hiến xuất sắc cho sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bước vào thời kỳ mới, Đoàn
tiếp tục phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc và bản chất tốt đẹp của
mình, xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam giàu lòng yêu nước, tự cường dân
tộc; kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có đạo đức cách
14


mạng, ý thức chấp hành pháp luật, sống có văn hóa, vì cộng đồng; có năng lực,
bản lĩnh trong hội nhập quốc tế; có sức khỏe, tri thức, kỹ năng trong lao động tập
thể; xung kích, sáng tạo làm chủ khoa học công nghệ tiên tiến, vươn lên ngang
tầm thời đại. Đồn TNCS Hồ Chí Minh kế tục trung thành, xuất sắc sự nghiệp
cách mạng vẻ vang của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; thường xuyên bổ sung
lực lượng trẻ cho Đảng; tổ chức động viên đoàn viên, thanh niên cả nước đi đầu
trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa [15, tr.10-11].
1.1.3. Khái niệm đạo đức
Ở phương Tây, danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos, moris,
nghĩa là lề thói. Ngồi ra, còn một danh từ nữa cũng hay được sử dụng là ethicos,
có gốc từ chữ Hy Lạp cũng có nghĩa là lề thói, tập tục. Theo nghĩa đó, khi nói
đến đạo đức là nói đến những lề thói, tập tục biểu hiện mối quan hệ nhất định
giữa người với người trong giao tiếp với nhau hàng ngày.
Ở phương Đông, người Trung Quốc cổ đại sớm đưa ra các học thuyết về
đạo và đức của họ. Theo đó, Đạo có nghĩa là con đường, đường đi, về sau khái
niệm này được vận dụng trong triết học nhằm chỉ con đường của tự nhiên. Sau
đó, đạo khơng chỉ là con đường của tự nhiên, mà cịn có nghĩa là đường sống của
con người trong xã hội. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính, là biểu hiện

của đạo nghĩa, là nguyên tắc của luân lý. Như vậy, đạo đức được hiểu như những
nguyên tắc, các quy định, các chuẩn mực xã hội nhằm điều tiết hành vi của con
người mà mỗi người sống trong đó cần phải tuân theo.
Từ cách tiếp cận mácxít, có thể hiểu: Đạo đức là một hình thái ý thức xã
hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh
và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với
xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh
của dư luận xã hội [36, tr.8].
Đạo đức còn là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực điều tiết
hành vi trong mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên,
15


giữa cá nhân với xã hội. Nó được phát triển, bị ảnh hưởng nhiều bởi các chế độ
kinh tế - xã hội khác nhau. Trong q trình phát triển đó, cùng với sự vận động
biến đổi của tồn tại xã hội, đạo đức cũng có những biến đổi, như các nhà kinh
điển chủ nghĩa Mác đã từng nói rằng “Từ dân tộc này sang dân tộc khác, từ thời
đại này sang thời đại khác, những quan niệm về thiện và ác đã biến đổi nhiều
đến mức chúng thường trái ngược hẳn nhau”[41, tr.135].
Có thể thấy rằng, thứ nhất, với tư cách hình thái ý thức xã hội, phản ánh
tồn tại xã hội, đạo đức chịu ảnh hưởng của tồn tại xã hội. Tuy nhiên, ở đây, có
thể thấy rằng, quan hệ giữa kinh tế với đạo đức không phải là quan hệ đơn trị,
một chiều. Vì vậy, khơng phải mọi biến đổi nào đó trong cơ sở kinh tế cũng đều
nhất thiết và ngay lập tức dẫn đến sự biến đổi tương ứng trong đạo đức. Không
phải mọi sự phát triển kinh tế nào cũng dẫn đến sự tiến bộ đạo đức. Hơn nữa,
đạo đức còn bị ảnh hưởng bởi triết học, chính trị, khoa học, nghệ thuật, tơn
giáo,… nghĩa là của toàn bộ đời sống tinh thần. Thứ hai, với tư cách là những
nguyên tắc, chuẩn mực xã hội … điều tiết hành vi con người, người nào thực
hiện đúng những nguyên tắc, chuẩn mực đó được coi là có đạo đức, được xã hội
ủng hộ, biểu dương và ngược lại.

1.1.4. Khái niệm về giáo dục đạo đức
Có nhiều quan niệm khác nhau về giáo dục đạo đức, song có thể coi “giáo
dục đạo đức là q trình tác động có mục đích của chủ thể giáo dục đến đối
tượng giáo dục để hình thành trong họ những yếu tố, tình cảm, niềm tin, lý tưởng
và tất cả được thể hiện ở những hành vi đạo đức” [12, tr.45]. Như vậy, giáo dục
đạo đức không chỉ làm cho con người nhận thức đúng các chuẩn mực đạo đức,
các giá trị đạo đức mà cịn thơng qua đó để hình thành niềm tin và tình cảm đạo
đức.
Giáo dục đạo đức là một trong những hoạt động nhằm góp phần chuyển
đạo đức xã hội thành đạo đức cá nhân. Đây cũng là quá trình mang những tri
thức, kinh nghiệm, chuẩn mực đạo đức xã hội thành những phẩm chất đạo đức
cá nhân, làm phát triển ý thức cũng như năng lực đánh giá và thực hiện hành vi
16


đạo đức, năng lực tham gia vào các quan hệ đạo đức xã hội của cá nhân. Giáo
dục đạo đức góp phần hình thành những quan điểm cơ bản nhất, những nguyên
tắc, quy tắc và chuẩn mực đạo đức trong từng cá nhân cụ thể; giúp họ xác lập
khả năng lựa chọn, đánh giá các hiện tuợng xã hội.
Giáo dục đạo đức cũng góp phần tích cực trong việc kế thừa và phát huy
các giá trị đạo đức truyền thống. Những giá trị đạo đức truyền thống chỉ có thể
được các thế hệ sau tiếp nhận thông qua giáo dục đạo đức như: thơng qua giáo
dục tình u q hương đất nước, lòng tự hào dân tộc, thế hệ trẻ sẽ tiếp nhận
được những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc như lòng yêu nước,
yêu hòa bình, tơn trọng đạo lý, tinh thần đồn kết…Nhờ các hoạt động giáo dục
đạo đức mà các thế hệ sau luôn kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền
thống tốt đẹp của dân tộc và nhờ vậy, các giá trị đạo đức truyền thống của dân
tộc ta không bị mai một. Quan điểm này cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu
rõ trong Di chúc, theo Bác, tương lai của đất nước, của dân tộc nằm ngay trong
tay các thế hệ thanh niên: “Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ

thanh niên già, đồng thời là người dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai” [58,tr.488].
Nói đến giáo dục đạo đức là nói đến chủ thể, nội dung, phương pháp, hình
thức giáo dục.
Về chủ thể giáo dục: tùy theo phạm vi, quy mô, và những điều kiện lịch
sử cụ thể khác nhau, chủ thể giáo dục đạo đức là khác nhau. Song, về cơ bản,
một cách chung nhất, người ta thường cho rằng, các chủ thể giáo dục đạo đức là
gia đình, nhà trường và xã hội. Một cách cụ thể hơn, trong gia đình, chủ thể giáo
dục đạo đức là ơng bà, cha mẹ, anh chị… Trong nhà trường, đó là thầy cơ giáo,
các đoàn thể… Ở xã hội, chủ thể giáo dục có thể là các đồn thể, các tổ chức
chính trị - xã hội, truyền thông,…
Về nội dung giáo dục đạo đức: tùy theo mục tiêu của các chủ thể giáo dục,
nội dung giáo dục đạo đức có sự khác nhau giữa các quốc gia, dân tộc; giữa các
thời kỳ lịch sử khác nhau. Ví dụ, như ở phương Đơng thời kỳ phong kiến, nội
dung giáo dục đạo đức tập trung vào những nội dung như “nhân, lễ, nghĩa, trí,
17


tín”…
Về phương pháp và hình thức giáo dục đạo đức: phương pháp đàm thoại,
diễn giải, thi đua, nêu gương, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn…
Trong công tác giáo dục, đối tượng giáo dục cũng là một nhân tố quan
trọng trong giáo dục. Bởi các chủ thể giáo dục dù có nội dung, phương pháp giáo
dục hay đến thế nào đi chăng nữa mà đối tượng giáo dục không tiếp thu thì q
trình giáo dục cũng khó đạt hiệu quả như mong muốn. Đây chính là q trình tự
giáo dục của đối tượng giáo dục.
Như vậy: “Giáo dục đạo đức cho thanh niên là q trình tác động có mục
đích của chủ thể giáo dục (gia đình, nhà trường, xã hội…) đến đối tượng thanh
niên để hình thành trong họ những yếu tố, tình cảm, niềm tin, lý tưởng và tất cả
được thể hiện ở những hành vi đạo đức.
1.1.5. Khái niệm tổ chức giáo dục đạo đức

Tổ chức giáo dục đạo đức là quá trình tổ chức, điều khiển, điều chỉnh hệ
thống những quan điểm, quan niệm, những qui tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã
hội trong quan hệ giữa người với người; giữa cá nhân với tập thể, với xã hội
nhằm tác động và điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh
phúc của con người và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con người
với con người, giữa cá nhân với xã hội. [67, tr.44].
Tổ chức giáo dục đạo đức được xác định là nhiệm vụ quan trọng, lâu dài,
mang tính chiến lược trong phát triển giáo dục nói riêng và phát triển đất nước
nói chung. Qua đó góp phần định hình, phát huy những phẩm chất cần thiết, tốt
đẹp của nhân cách con người. Đạo đức là “thành phần cơ bản của nhân cách,
phản ánh bộ mặt nhân cách của cá nhân được xã hội hoá”, mọi hành vi ứng xử
của con người với xã hội, với tự nhiên đều phản ánh đạo đức của mỗi người; đạo
đức đó đều phản ánh những giá trị, những chuẩn mực mà người ta nhận thức.
Tổ chức giáo dục đạo đức nhằm tạo ra những sản phẩm, nhân cách của
con người, phản ánh ý thức, tình cảm, ý chí, hành vi, thói quen và cách ứng xử
của họ trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội, giữa bản
18


thân họ với người khác và với chính bản thân mình.
Một mặt, đạo đức là một hệ thống qui tắc mang tính chuẩn mực xã hội
trong ứng xử, mặt khác trong mối quan hệ văn hóa, tơn giáo, triết học, thì đạo
đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt. Bản chất đạo đức là những qui tắc,
những chuẩn mực xã hội, nó được hình thành, tồn tại và phát triển trong cuộc
sống, được xã hội thừa nhận và tự giác thực hiện. Đạo đức chính là văn hóa trong
cuộc sống, là biểu hiện của trình độ nhận thức của cá nhân và trình độ dân trí xã
hội.
Trong bối cảnh hiện nay do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường và sự
hội nhập quốc tế, đạo đức cũng có thay đổi theo tư duy nhận thức mới nhưng
khơng có nghĩa giá trị đạo đức cũ mất đi thay bằng các giá trị đạo đức mới mà

các giá trị đạo đức hiện nay là sự kết hợp sâu sắc giữa đạo đức truyền thống tốt
đẹp của dân tộc với xu hướng tiến bộ của thời đại và nhân loại.
1.2. Những vấn đề chung về nguyên tắc tổ chức, nội dung tổ chức giáo
dục đạo đức cho thanh niên của Đồn thanh niên cợng sản Hờ Chí Minh
1.2.1. Ngun tắc tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh niên
1.2.1.1. Đoàn thanh niên với tư cách là một bộ phận của hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội như: Tổng Liên đoàn lao
động Việt nam, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Nơng dân Việt nam, Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Trong hệ thống chính trị
ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam giữa vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội, là
hạt nhân của hệ thống chính trị.
Nghị quyết 25-NQ/TW, ngày 25-7-2008 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa X) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, khẳng định: Đảng lãnh đạo
cơng tác thanh niên và trực tiếp lãnh đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Xây dựng Đồn vững mạnh là nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng,
là xây dựng Đảng trước một bước.
19


Đồn là thành viên trong hệ thống chính trị, hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong
hệ thống này, Đảng là người lãnh đạo, Đoàn là một trong các tổ chức thành viên.
Về quan hệ giữa tổ chức Đoàn với Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể và
các tổ chức xã hội khác của thanh niên được quy định cụ thể: Đối với Đảng,
Đoàn là hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, là đội dự bị tin cậy của
Đảng, nguồn cung cấp cán bộ theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng. Đối với
Nhà nước, Đoàn là chỗ dựa vững chắc của Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng
và phát triển đất nước. Đoàn phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành, các đoàn

thể và tổ chức xã hội chăm lo giáo dục, đào tạo, tạo mọi điều kiện cho sự phát
triển của thanh thiếu nhi. Đối với các tổ chức xã hội của thanh niên và phong
trào thanh niên, Đoàn giữ vai trị làm nịng cốt chính trị trong việc xây dựng tổ
chức và hoạt động của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt
Nam, Hội Doanh nghiệp trẻ Việt Nam và các thành viên khác của Hội. Đối với
Đội TNTP Hồ Chí Minh, Đồn giữ vai trị là người phụ trách Đội và có trách
nhiệm xây dựng tổ chức Đội, lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác
thiếu nhi, tạo điều kiện về cơ sở vật chất và tài chính cho hoạt động của Đội.
Nghị quyết 25 ngày 25/7/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
X khẳng định: “Đảng lãnh đạo cơng tác thanh niên và trực tiếp lãnh đạo Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh. Xây dựng Đồn vững mạnh là nội dung quan trọng trong
công tác xây dựng Đảng, là xây dựng Đảng trước một bước. Đảng đề ra đường
lối, chủ trương định hướng cho thanh niên hành động, xác định các chuẩn mực
cho thanh niên phấn đấu; xây dựng các tấm gương điển hình tiêu biểu cho thanh
niên học tập và noi theo”. Đảng cịn có nhiệm vụ chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng
nguồn cán bộ trẻ có phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, có trình độ chun
mơn, nghiệp vụ cho Đảng. Đoàn tham mưu, đề xuất với Đảng về những vấn đề
liên quan đến thanh niên và công tác thanh thiếu nhi.

20


Nhận thức rõ vai trị của Đồn, thực hiện sự lãnh đạo của Đảng về cơng
tác thanh niên nói chung, về đạo đức nói riêng, những năm qua, tổ chức Đồn
TNCS Hồ Chí Minh ln coi xây dựng Đồn là xây dựng Đảng trước một bước,
tập trung đẩy mạnh công tác củng cố tổ chức cơ sở Đoàn, giáo dục đạo đức, bồi
dưỡng tạo nguồn phát triển đảng viên trong đoàn viên, thanh niên, đây là nhiệm
vụ quan trọng nhằm bảo đảm sự kế thừa và phát triển của Đảng:
(1) Xây dựng Đoàn thật sự vững mạnh, trở thành bộ phận quan trọng trong
công tác xây dựng đảng.

Các cấp bộ đồn ln chú trọng đẩy mạnh giáo dục chính trị tư tưởng, đạo
đức, lối sống, truyền thống, lý tưởng cách mạng thông qua việc tuyên truyền, tổ
chức các phong trào thi đua rèn luyện, các phong trào “Sổ vàng, Nhật ký làm theo
lời Bác”, “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, chương trình “Khi
tơi 18”, “Học kỳ quân đội”, “Trải nghiệm quân ngũ”, các chương trình “Thắp
sáng ước mơ tuổi trẻ Việt Nam”, cuộc vận động “Xây dựng giá trị hình mẫu thanh
niên Việt Nam thời kỳ mới”... Tỉnh đoàn cũng đã phát động các phong trào lớn
như: “Thanh niên lập nghiệp”, “Tuổi trẻ giữ nước”, “Xung kích phát triển kinh
tế- xã hội và bảo vệ Tổ quốc”, “Đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp”,
“Tuổi trẻ sáng tạo”. “Tuổi trẻ xung kích bảo vệ Tổ quốc”, “Tuổi trẻ Bắc Giang
chung tay xây dựng nông thôn mới”… đã thu hút sự tham gia, hưởng ứng đông
đảo của đồn viên, thanh niên. Qua đó, hàng năm tổ chức Đoàn và đoàn viên,
thanh niên toàn tỉnh đã thực hiện hàng nghìn cơng trình, phần việc thanh niên tình
nguyện, đóng góp hàng chục tỷ đồng cho sự phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh
bằng các hoạt động tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng, vì an sinh xã hội, lập
thân, lập nghiệp xây dựng quê hương. Các phong trào, hành động cách mạng đã
thể hiện vai trị tích cực của Đoàn trong việc vận động, tập hợp, giáo dục đạo đức
cho đoàn viên, thanh niên nhằm xây dựng tổ chức Đoàn ngày càng vững mạnh.
Các cấp bộ đoàn luôn tập trung đổi mới phương thức giáo dục đạo đức của
Đồn thơng qua việc ứng dụng cơng nghệ thơng tin, rút ngắn thời gian, tăng tính
tương tác, quan tâm tới nhu cầu, sở thích của thanh niên; nhiều cuộc thi tìm hiểu,
21


đợt sinh hoạt chính trị và tuyên truyền được mềm, đáp ứng nhu cầu và dễ tiếp cận;
một số mô hình tham gia tuyên truyền, giáo dục đã mang lại những hiệu quả thiết
thực và thu hút đơng đảo đồn viên, thanh niên tham gia. Hệ thống báo chí và các
cơng cụ thơng tin của tổ chức Đồn đã được phát huy hiêu quả, rộng khắp.
(2) Tham gia xây dựng sự thống nhất tư tưởng trong toàn Đảng, toàn dân.
Hằng năm, các cấp bộ đoàn đã tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao

nhận thức cho đoàn viên, thanh niên về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, về Đảng thông qua các hội thi Olympic các môn khoa học Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh “Ánh sáng soi đường” , cuộc thi tìm hiểu trên internet,
triển khai học tập 6 bài lý luận chính trị cho đoàn viên, thanh niên; tuyên truyền,
vận động đoàn viên, thanh niên tích cực tham gia bảo vệ Đảng, trước hết là bảo
vệ chủ trương, đường lối của Đảng, đấu tranh chống lại những luận điểm xuyên
tạc, chống phá Đảng của các thế lực thù địch, nhất là trên không gian mạng; tổ
chức các diễn đàn “Thanh niên với Đảng và Bác Hồ”, “Đảng và Bác Hồ với
thanh niên”, triển khai Phong trào “Hai tốt”, đưa việc tìm hiểu, học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh trở thành thường xun trong
tồn đồn.
(3) Giáo dục đạo đức và bồi dưỡng đào tạo nguồn cán bộ trẻ cho Đảng
Các cấp bộ đồn ln quan tâm thực hiện tốt các khâu đào tạo, giáo dục
đạo đức, bồi dưỡng, quy hoạch, bố trí, sử dụng và các chính sách đối với cán bộ,
nhất là đối với cán bộ trẻ. Hàng năm các cấp bộ đoàn đều xây dựng quy hoạch các
chức danh chủ chốt của Đoàn, cử cán bộ đi học các lớp bồi dưỡng, nâng cao trình
độ, chuyên môn nghiệp vụ. Độ tuổi của đội ngũ cán bộ Đồn ngày càng được trẻ
hóa, nhiều cán bộ trẻ, có năng lực, trình độ được phân cơng, bổ nhiệm ở những vị
trí chủ chốt của Đồn, là nguồn cung cấp cán bộ trẻ cho Đảng. Trực tiếp tham gia
công tác phát triển đảng viên, đoàn triển khai Cuộc vận động “Đoàn viên phấn
đấu trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam”, giới thiệu đoàn viên ưu tú,
giáo dục và rèn luyện đảng viên trẻ, cung cấp cán bộ cho Đảng, góp phần xây
22


dựng Đảng về tổ chức. Hằng năm 70% tổng số đảng viên mới kết nạp từ tổ chức
Đồn, trong đó, đoàn chú trọng đoàn viên, thanh niên là sinh viên, công nhân,
thanh niên sản xuất giỏi, thanh niên dân tộc thiểu số. Cùng với đó, nhiều cán bộ
Đồn trưởng thành được Đảng tin tưởng giao nhiệm vụ, giữ cương vị quan trọng
trong tổ chức đảng, chính quyền các cấp. Đây là nguồn lực to lớn, hùng hậu, có

chất lượng vừa làm cho tổ chức đảng thêm vững mạnh, vừa trẻ hóa đội ngũ của
Đảng, tăng cường sức chiến đấu, bảo đảm sự kế thừa và phát triển liên tục của
Đảng.
(4). Tham mưu cho Đảng về công tác thanh niên, mở rộng mặt trận đoàn
kết tập hợp thanh niên.
Tiếp tục phát huy vai trị của mình trong xây dựng Đảng, các các cấp bộ
đồn trong tỉnh đã tích cực tham gia góp ý, xây dựng đường lối, chính sách của
Đảng, thực hiện công tác giám sát, phản biện xã hội thường xuyên, đặc biệt là
việc giám sát, phản biện xã hội trong thực hiện Luật Thanh niên, công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật, việc hỗ trợ xây dựng nông thôn mới, chính sách giảm
nghèo, thực hiện Luật trẻ em, cơng tác chăm sóc, giáo dục trẻ em và cơng tác
thanh niên… Phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt trong phong trào thanh niên,
các cấp bộ đoàn trong tỉnh chủ động, tích cực mở rộng mặt trận đồn kết, tập hợp
các lực lượng thanh niên thông qua tổ chức Hội LHTN, Hội Sinh viên, Hội Doanh
nhân trẻ, Hội Thầy thuốc trẻ, các câu lạc bộ, tổ, đội nhóm của thanh niên; triển
khai nhiều giải pháp nhằm củng cố, nâng cao chất lượng vận động các tầng lớp
thanh niên tham gia tích cực vào q trình phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng
Đảng, chính quyền tại các địa phương; động viên đoàn viên, thanh niên thực hiện
tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, từ
đó, nâng cao năng lực nhận thức, hiểu biết của mình về Đảng, về các mặt đời sống
xã hội, nhu cầu, tâm tư, nguyện vọng của thanh niên, quá trình đổi mới và phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Thanh niên muốn làm chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải
rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải làm việc để chuẩn bị cái tương lai
23


đó. Với niềm tin tưởng vững chắc vào đường lối đúng đắn, sự lãnh đạo, chỉ đạo
của Đảng, Đoàn Thanh niên đã, đang và sẽ tiếp tục làm tốt vai trò là đội dự bị tin
cậy của Đảng, là người kế tục trung thành sự nghiệp, lý tưởng cách mạng của

Đảng, xây dựng Đoàn vững mạnh là xây dựng Đảng trước một bước.
Tích cực tham gia đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh
phản bác quan điểm sai trái, thù địch chống phá hệ tư tưởng, Cương lĩnh, đường
lối chính trị của Đảng. Kịp thời giải quyết những phát sinh trong tư tưởng của
thanh niên, đặc biệt là trước những biến động trong khu vực và thế giới,... bảo
đảm tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả, phục vụ yêu cầu nhiệm vụ chính
trị, phù hợp với từng địa phương, đơn vị. Qua đó, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi
tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn
biến hịa bình” của các thế lực thù địch, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh.
Với vai trị trên, có thể khẳng định rằng: Đồn thanh niên với tư cách là
một bộ phận của hệ thống chính trị, có vai trị rất quan trọng trong cơng tác xây
dựng Đảng; xây dựng Đồn vững mạnh là nội dung quan trọng trong công tác
xây dựng Đảng, là xây dựng Đảng trước một bước, là quá trình xây dựng và
chuẩn bị đội dự bị tin cậy, bổ sung lực lượng cho Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2.1.2. Đoàn thanh niên với tư cách là một bộ phận hợp thành của các cơ
quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp cơng lập
Giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ ln được Đảng, Nhà
nước, gia đình, nhà trường và toàn xã hội quan tâm. Những năm qua, nhiều nghị
quyết, chỉ thị của Đảng về công tác thanh niên và giáo dục thế hệ trẻ đã được triển
khai, đạt nhiều kết quả. Hệ thống pháp luật, công tác quản lý nhà nước về thanh
thiếu nhi ngày càng được hoàn thiện. Giáo dục về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ không ngừng được tăng cường và
đổi mới. Thông qua các hoạt động giáo dục, các cuộc vận động, phong trào thi
đua yêu nước đã tạo môi trường lành mạnh để thế hệ trẻ rèn luyện, trưởng thành,
24


góp phần hình thành lý tưởng cách mạng, đạo đức cao đẹp, lối sống nghĩa tình,

tuân thủ pháp luật, từng bước hồn thiện nhân cách. Nhìn chung, thế hệ trẻ Việt
Nam được giáo dục, chăm sóc, ni dưỡng ngày một tốt hơn; phần lớn thanh thiếu
nhi tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường phát triển của đất nước,
sống có trách nhiệm với Tổ quốc, gia đình và bản thân, có ước mơ, hồi bão, kiến
thức, kỹ năng, sức khỏe tốt, tư duy năng động, sáng tạo, lạc quan, tự tin, dám nghĩ,
dám làm; có nhiều đóng góp quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, giáo dục đạo đức, lối sống văn hố cho thế hệ trẻ cịn nhiều hạn
chế, yếu kém. Nhiều tổ chức, cá nhân chưa nhận thức đúng và đầy đủ tầm quan
trọng của nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ, nhất là trong bối cảnh đất nước có nhiều
thay đổi. Việc cụ thể hố các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước về công tác giáo dục thế hệ trẻ chưa kịp thời và hiệu quả; nhiều mục tiêu,
chỉ tiêu chưa đạt yêu cầu. Vai trị, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn
xã hội trong chăm lo, giáo dục thế hệ trẻ chưa được như mong muốn, chưa đáp
ứng với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay. Một bộ phận giới
trẻ giảm sút niềm tin, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, sống thực dụng, thiếu lý
tưởng, xa rời truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Một số ít thanh niên bị các
thế lực thù địch lơi kéo, kích động chống sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân
tộc ta. Tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội trong giới trẻ diễn biến phức tạp.
Tình hình trên có nhiều ngun nhân, song, chủ yếu là do các cấp uỷ Đảng,
chính quyền, đồn thể, cán bộ, đảng viên chưa làm tốt trách nhiệm chăm lo, bồi
dưỡng, giáo dục và phát huy thế hệ trẻ; chưa giải quyết thoả đáng những vấn đề
của thực tiễn đặt ra trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố, đơ thị hố, hội
nhập quốc tế; nhận thức về tính cấp bách và tầm quan trọng của cơng tác giáo dục
thế hệ trẻ chưa đầy đủ. Sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường, Mặt trận Tổ quốc
và các đồn thể cịn thiếu chặt chẽ. Đạo đức xã hội có mặt xuống cấp, ảnh hưởng
đến sự hình thành nhân cách, đạo đức của thế hệ trẻ. Một bộ phận khơng nhỏ cán
bộ, đảng viên thối hố, biến chất, chưa là tấm gương để thế hệ trẻ học tập và noi
25



×