Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Địa vị pháp lý của kiểm sát viên trong tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (676.32 KB, 98 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN ĐÌNH PHAN ANH

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, 2022


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN ĐÌNH PHAN ANH

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật dân sự & Tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Bích Thảo

Hà Nội, 2022


LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận Văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Do đó tơi viết lời cam đoan này kính đề nghị Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội xem xét để tơi có thể bảo vệ Luận văn của mình.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Học Viên

Nguyễn Đình Phan Anh

i


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Bộ Luật Tố tụng Dân sự : BLTTDS
Bộ Luật dân sự

: BLDS

Tố tụng dân sự

: TTDS

Viện kiểm sát nhân dân : VKSND
Kiểm sát viên

: KSV

Xã hội chủ nghĩa


: XHCN

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ...................................................................... ii
MỤC LỤC ....................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
KIỂM SÁT VIÊN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆN NAM ....................... 9
1.1. Khái niệm địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự ............. 9
1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về địa vị pháp lý của
Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự. ................................................................ 11
1.2.1. Yêu cầu bảo đảm pháp chế XHCN và bảo đảm quyền con ngƣời trong
tố tụng dân sự. ................................................................................................. 11
1.2.2. Vị trí, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống tổ chức
quyền lực Nhà nƣớc ........................................................................................ 15
1.2.3. Đặc thù của hoạt động kiểm sát ............................................................ 21
1.2.4. Tính chất của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
dân sự. ............................................................................................................. 23
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định về địa vị pháp lý của kiểm
sát viên trong tố tụng dân sự Việt Nam .......................................................... 24
1.4. Mối quan hệ tố tụng giữa Kiểm sát viên và các chủ thể khác trong tố tụng
dân sự .............................................................................................................. 27
1.4.1. Quan hệ giữa Kiểm sát viên với Thẩm phán ........................................ 28
1.4.2. Quan hệ giữa Kiểm sát viên với Viện trƣởng VKS cùng cấp ............... 29
1.4.3. Quan hệ giữa Kiểm sát viên với những ngƣời tiến hành tố tụng khác

thuộc Tòa án .................................................................................................... 31
1.4.4. Quan hệ giữa Kiểm sát viên với những ngƣời tham gia tố tụng. .......... 33

iii


1.5. Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên/Công tố viên trong pháp luật tố tụng
dân sự một số nƣớc trên thế giới. .................................................................... 34
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 39
CHUƠNG 2. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ THEO CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT
NAM HIỆN HÀNH ....................................................................................... 40
2.1. Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên thể hiện qua các nguyên tắc cơ bản của
Bộ luật tố tụng dân sự. .................................................................................... 40
2.1.1. Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự ..... 41
2.1.2. Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành
tố tụng. ............................................................................................................. 42
2.1.3. Nguyên tắc bảo đảm sự vô tƣ, khách quan trong tố tụng dân sự. ......... 44
2.2. Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên thể hiện ở các quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn của Kiểm sát viên. ......................................................................... 45
2.2.1. Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu. ................................. 45
2.2.2. Kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự. ................................... 46
2.2.3. Nghiên cứu hồ sơ vụ việc; yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ
trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của BLTTDS; thu
thập tài liệu, chứng cứ theo quy định tại khoản 6 Điều 97 của BLTTDS ...... 47
2.2.4. Tham gia phiên tòa, phiên họp và phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về
việc giải quyết vụ việc theo quy định của BLTTDS. ...................................... 48
2.2.5. Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án ............................................... 51
2.2.6. Kiến nghị, yêu cầu Tòa án thực hiện đúng các hoạt động tố tụng theo
quy định của BLTTDS .................................................................................... 52

2.2.7. Đề nghị Viện trƣởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị bản án,
quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật................................................... 54
2.2.8. Kiểm sát hoạt động tố tụng của ngƣời tham gia tố tụng; yêu cầu kiến

iv


nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh ngƣời tham gia tố
tụng vi phạm pháp luật .................................................................................... 59
2.2.9. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng dân sự khác thuộc thẩm quyền
của Viện kiểm sát theo quy định của BLTTDS .............................................. 59
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 61
CHƢƠNG 3. THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG TỐ TỤNG DÂN
SỰ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ..................................................................... 62
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên
trong tố tụng dân sự. ........................................................................................ 62
3.1.1. Những kết quả đạt đƣợc trong thực tiễn thực hiện các quy định về địa vị
pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự .............................................. 62
3.1.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập .. 73
3.2. Một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về địa vị
pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự. ............................................. 81
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .............................................................................. 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 84

v


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Ở Việt Nam hiện nay, Viện Kiểm sát nhân dân là một cơ quan đóng
vai trị rất quan trọng trong bộ máy Nhà nƣớc. Tiền thân của Viện Kiểm sát
nhân dân là Viện Công tố. Tên gọi, chức năng và hoạt động của Viện Cơng
tố đƣợc quy định chính thức trong Hiến pháp 1946 và đến Hiến pháp 1959
thì Viện Kiểm sát nhân dân ra đời, thay thế cho Viện Công tố. Tuy nhiên,
Hiến pháp 1992 đã thu hẹp phạm vi hoạt động của Viện Kiểm sát chỉ cịn
“thực hành quyền cơng tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”, Hiến pháp
2013 hiện nay cũng tiếp tục giữ nguyên phạm vi hoạt động này của Viện
Kiểm sát. Có thể thấy, việc sử dụng danh từ “Viện Kiểm sát” hay “Kiểm sát
viên” ở Việt Nam đang ở mức “lưng chừng”, tức là hoạt động kiểm sát vẫn
rộng hơn hoạt động cơng tố vì có thêm chức năng giám sát tƣ pháp, tuy
nhiên phạm vi ấy lại hẹp hơn so với nghĩa gốc ban đầu của từ “kiểm sát”.
Trải qua 60 năm tồn tại, thiết chế Viện Kiểm sát nhân dân đã trƣởng
thành, phát triển và thực hiện đƣợc nhiều nhiệm vụ quan trọng, trong đó có
nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự. Trong tố
tụng dân sự, nếu nhƣ vị trí, vai trị của Thẩm phán và các bên đƣơng sự đƣợc
xác định một cách rõ ràng thì vị trí, vai trị của Kiểm sát viên khơng phải lúc
nào cũng rõ ràng nhƣ vậy. Sở dĩ có tình trạng này là do quan niệm về quyền
lực Nhà nƣớc, nguyên tắc tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nƣớc ở mỗi
quốc gia khác nhau, từ đó có những quy định khác nhau về vị trí, vai trị của
kiểm sát viên trong tố tụng dân sự. Trong tố tụng hình sự, mặc dù quan niệm
về vị trí, vai trị của Kiểm sát viên cũng khơng hồn tồn đồng nhất nhƣng
về cơ bản, các nƣớc đều cho rằng cơ quan cơng tố giữ vai trị đặc biệt quan
trọng, là bên nhân danh Nhà nƣớc truy tố và buộc tội ngƣời phạm tội ra

1


trƣớc tồ án. Cịn trong tố tụng dân sự, phần lớn các quốc gia đều quan niệm
rằng vị trí vai trị của Viện cơng tố hạn chế hơn, do ảnh hƣởng từ nguyên tắc

quyền tự định đoạt của các bên trong quan hệ dân sự.
Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) 2015 ra đời thay thế BLTTDS 2004
và có hiệu lực từ ngày 01/7/2016 đã góp phần thúc đẩy và tiếp tục thực hiện
công cuộc cải cách tƣ pháp, tạo điều kiện để ngƣời dân tiếp cận cơng lý, trong
đó mấu chốt là đảm bảo các tranh chấp, yêu cầu về dân sự nói chung đƣợc thụ
lý nhanh chóng và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật. So với bộ luật trƣớc đó,
BLTTDS 2015 đã có những thay đổi căn bản, chức năng của Kiểm sát viên
trong tố tụng dân sự tiếp tục đƣợc khẳng định, điều đó đƣợc thể hiện cụ thể
nhƣ: phạm vi tham gia phiên toà đƣợc mở rộng, việc phát biểu ý kiến của Kiểm
sát viên tại phiên toà, phiên họp sơ thẩm giải quyết vụ việc dân sự cũng đổi
mới hơn: KSV không chỉ phát biểu về việc chấp hành pháp luật tố tụng của
Thẩm phán, Hội đồng xét xử nhƣ trƣớc đây mà còn phát biểu ý kiến về việc
giải quyết vụ án,…Tuy đƣợc thay đổi và đẩy mạnh nhƣng vị trí, vai trị của
kiểm sát viên trong các phiên toà xét xử dân sự vẫn chƣa thực sự khẳng định
đƣợc vị thế của mình mà chỉ tập trung vào việc kiểm sát các bản án, quyết định
xử lý vụ việc dân sự của Toà án và đây đƣợc xác định là nhiệm vụ trọng tâm
của các công tác kiểm sát trong giai đoạn này.
Trải qua hơn 5 năm thi hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cho
thấy, các quy định về vị trí, vai trị của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự
vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Mặc dù pháp luật vẫn quy định Kiểm sát
viên có đầy đủ các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị nhƣng thiếu cơ
chế, phƣơng thức, cơ sở pháp lý để thực hiện quyền của mình. Sau hơn 5
năm thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, chất lƣợng công tác kiểm
sát giải quyết các vụ việc dân sự của Kiểm sát viên vẫn còn nhiều hạn chế.
Việc phát hiện vi phạm để kiến nghị, kháng nghị cịn đƣợc ít, chất lƣợng

2


chƣa đảm bảo, trong khi đó vi phạm trong việc giải quyết án dân sự vẫn

chiếm tỷ lệ cao, tình trạng khiếu kiện của ngƣời dân về việc giải quyết án
dân sự ngày càng có chiều hƣớng gia tăng và diễn biến phức tạp. Án dân sự
ở cấp sơ thẩm bị cấp phúc thẩm cải sửa, huỷ án còn nhiều, dẫn đến quyền và
lợi ích hợp pháp của Nhà nƣớc, tập thể và công dân không đƣợc đảm bảo.
Nguyên nhân nêu trên là do hệ thống pháp luật về dân sự và tố tụng dân sự
hiện hành còn chƣa đầy đủ, đồng bộ và hoàn thiện, chất lƣợng giải quyết án
dân sự của Tòa án còn hạn chế, nhƣng một phần quan trọng cũng là do các
quy định của pháp luật về vị trí, vai trị cũng nhƣ chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của kiểm sát viên trong tố tụng dân sự vẫn còn bất cập. Mặt khác,
trong điều kiện Đề án “Chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện Nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hƣớng đến năm
2045” đang đƣợc thảo luận và hồn thiện để thơng qua, vị trí, vai trị của
Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự cần đƣợc tiếp tục nghiên cứu để có quy
định phù hợp với tình hình mới, bối cảnh mới.
Về trách nhiệm, quyền hạn của Kiểm sát viên, xét cả trên phƣơng diện
lý luận và thực tiễn vẫn bộc lộ những hạn chế nhất định, chƣa đáp ứng đƣợc
yêu cầu và tạo điều kiện để Kiểm sát viên thực hiện tốt hơn chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự. Việc hạn chế sự tham gia
của Kiểm sát viên tại phiên toà dẫn đến các thẩm quyền tố tụng liên quan
cũng bị loại bỏ hoặc hạn chế nên kiểm sát viên khơng có đủ các quyền hạn
tố tụng cần thiết khi thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tƣ pháp. Do
vậy, vấn đề chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, vị trí, vai trị và mơ hình hoạt
động của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự vẫn phải cần đƣợc làm rõ và
tiếp tục hoàn thiện cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt
Nam, tạo cơ sở pháp lý cho Kiểm sát viên thực hiện tốt nhiệm vụ , đáp ứng
với yêu cầu của tiến trình cải cách tƣ pháp, góp phần vào việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật chung.

3



Tác giả nhận thấy, xuất phát từ những thực tế nêu trên và từ việc nhận
thức về vị trí, vai trò của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự cần có sự quan
tâm, đổi mới hơn nữa cả về phƣơng diện lý luận và thực tiễn, để nâng cao
chất lƣợng và hiệu quả công tác kiểm sát của Kiểm sát viên trong hoạt động
tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay.
Là một cán bộ đang trực tiếp làm công tác kiểm sát, tác giả nhận thấy
việc nghiên cứu đề tài "Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân
sự Việt Nam" là cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Đồng thời
qua q trình nghiên cứu, cá nhân tác giả có điều kiện nâng cao trình độ,
năng lực nghiệp vụ và kinh nghiệm cơng tác của bản thân.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nếu nhƣ trong khoa học luật tố tụng hình sự đã có một số cơng trình
nghiên cứu sâu về vai trò, địa vị pháp lý của Kiểm sát viên, thì trong khoa học
luật tố tụng dân sự có rất ít cơng trình nghiên cứu về vấn đề này. Tuy đã có
một số cơng trình nghiên cứu về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự, nhƣng cụ thể về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong
tố tụng dân sự thì có thể nói, đến nay ở Việt Nam chƣa có cơng trình nghiên
cứu chun sâu nào.
Tuy nhiên, cũng đã có những cơng trình liên quan đến đề tài luận văn
ở các mức độ khác nhau, nhiều bài viết trên các luận văn thạc sĩ, tạp chí
chuyên ngành, sách chuyên khảo, chuyên đề tổng kết rút kinh nghiệm của
các ngành Kiểm sát, Tòa án… liên quan đến nội dung này nhƣ:
Luận văn thạc sỹ luật học “Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Lê Thị Thanh Loan năm 2007,
Luận văn thạc sỹ luật học “Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Phùng Thanh Hà năm 2014,
Luận văn thạc sĩ luật học "Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức của

4



Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam" của
tác giả Hoàng Thế Anh năm 2006; Luận văn thạc sĩ luật học “Sự tham gia tố
tụng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả
Võ Thị Phƣợng năm 2010; sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Tƣ pháp năm
2008 "Đổi mới vị trí, vai trị của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu
cầu cải cách tư pháp" của tác giả Nguyễn Minh Hằng, đề tài khoa học cấp
Bộ “Hoàn thiện chế định Viện kiểm sát nhân dân trong Bộ luật tố tụng dân
sự” của tiến sĩ Trần Văn Trung năm 2003; Luận án tiến sĩ “Quá trình hình
thành, phát triển và đổi mới Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách
tư pháp ở Việt Nam” của tác giả Trần Văn Nam năm 2010.
Ngồi ra cịn có một số bài viết đƣợc đăng tải trên các trang báo, tạp
chí hay cổng thơng tin điện tử nhƣ: tạp chí Kiểm sát số 09 năm 2004 "Vị trí,
vai trị của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành", “Nhận
thức đúng thẩm quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong Bộ
luật tố tụng dân sự” của tác giả Khuất Văn Nga; Bài viết trên cổng thông tin
điện tử Viện kiểm sát nhân dân tối cao “Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát
theo yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả TS. Hoàng Thị Quỳnh Chi năm
2014; Bài viết trên cổng thông tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi “Nâng cao vai trò của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự” tác
giả KSV. Hồ Thị Tiểu Quỳnh năm 2020; Bài viết "Những kiến nghị từ hoạt
động thực tiễn qua 1 năm thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2004" của Tịa soạn tạp chí Kiểm sát (Tạp chí Kiểm sát số 18 tháng
9/2006); Bài viết "Việc áp dụng một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự"
của Tồ soạn tạp chí Kiểm sát (Tạp chí Kiểm sát số 13 tháng 3/2006); bài
viết "Vị trí, vai trị Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách
tư pháp" của Nguyễn Ngọc Khánh (Tạp chí Kiểm sát số 14-16, tháng 7, 8
năm 2008);…


5


Qua nghiên cứu những cơng trình, bài viết nêu trên cho thấy có nhiều
quan điểm, lý luận tác giả có thể kế thừa và phát triển đƣợc khi nghiên cứu
và hồn thành đề tài. Tuy vậy, các cơng trình, bài viết trên chủ yếu đi sâu
vào nghiên cứu các lĩnh vực chung nhất về nguyên tắc tổ chức quyền lực
Nhà nƣớc; các vấn đề về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
trong tố tụng dân sự dƣới góc độ của Luật hiến pháp. Hoặc có cơng trình,
bài viết tuy có trực tiếp đề cập đến vấn đề này, nhƣng do thời điểm nghiên
cứu đã lâu nên không cập nhật đƣợc những vấn đề đang đặt ra trong lý luận
và thực tiễn hiện nay, nhất là trong điều kiện áp dụng Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015.
Mặt khác, các cơng trình, bài viết trên chƣa nghiên cứu toàn diện và đầy
đủ về “Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự Việt Nam”. Do
vậy, tác giả chƣa thấy có cơng trình, đề tài nào trùng lặp với đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
* Mục đích:
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận về địa vị pháp lý
của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự, từ đó đề xuất các giải pháp góp phần hoàn
thiện hơn các quy định của pháp luật cũng nhƣ nghiên cứu tình hình thực tiễn áp
dụng pháp luật về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự và trong
quá trình kiểm sát hoạt động tƣ pháp, nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp.
* Nhiệm vụ:
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu trên, cần thực hiện
- Phân tích cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc quy định địa vị
pháp lý Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự.
- Đánh giá các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về địa vị pháp lý
của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng các quy tắc đó.
- Đề ra một số kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp

luật về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự trƣớc yêu cầu
cải cách tƣ pháp hiện nay.

6


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về địa vị
pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự, các quy định của pháp luật
Việt Nam từ năm 1959 đến nay về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố
tụng dân sự. Bên cạnh đó, Luận văn cũng có nghiên cứu, so sánh, tham khảo
kinh nghiệm pháp luật tố tụng dân sự của một số nƣớc về địa vị pháp lý của
kiểm sát viên hay công tố viên trong tố tụng dân sự.
Trên cơ sở, mục đích, đối tƣợng nghiên cứu đã đƣợc xác định, phạm vi
nghiên cứu của đề tài chủ yếu tập trung vào nghiên cứu địa vị pháp lý của
Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phƣơng pháp luận
Để đạt đƣợc các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình
nghiên cứu luận văn đƣợc nghiên cứu trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng
cộng sản Việt Nam về cải cách tƣ pháp.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn, tác giả sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể là:
phƣơng pháp hệ thống, phƣơng pháp phân tích - tổng hợp, phƣơng pháp lịch
sử, phƣơng pháp luật học so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là một cơng trình khoa học ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học,
là cơng trình nghiên cứu sâu về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố

tụng dân sự. Luận văn đã đƣa ra đƣợc khái niệm địa vị pháp lý của Kiểm sát
viên trong tố tụng dân sự, chỉ ra và phân tích các yếu tố quy định và chi phối
việc xác định địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự.
Cụ thể trong luận văn đã luận giải và làm rõ đƣợc khái niệm về địa vị
pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự đƣợc quy định tại các văn

7


bản pháp luật Việt Nam hiện hành. Chỉ ra đƣợc những điểm tiến bộ so với
những quy định trƣớc đây và những điểm còn bất cập, đồng thời luận văn
cũng đƣa ra những đánh giá, nhận định khách quan về thực trạng áp dụng
các quy định pháp luật về địa vị của Kiểm sát viên trong thực tiễn, chỉ ra
những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành từ đó đƣa ra những kiến
nghị và giải pháp để hồn thiện.
Ngồi ra kết quả nghiên cứu của Luận văn có ý nghĩa cả về lý luận và
thực tiễn, làm sâu sắc hơn cơ sở của việc xây dựng và hoàn thiện các quy
định về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu luận văn sẽ là một trong những tài liệu tham khảo
cho việc nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề có liên quan tới địa vị pháp
lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự. Hơn nữa, luận văn cịn có thể là
tài liệu tham khảo cho những ngƣời làm công tác thực tiễn mà cụ thể là
Kiểm sát viên. Luận văn sẽ giúp cho Kiểm sát viên có nhận thức đúng dắn
về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình để từ đó thực hiện một
cách có hiệu quả.
7. Bố cục luận văn
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận văn gồm 3 chƣơng, cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên

trong tố tụng dân sự Việt Nam
Chương 2: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự theo
các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về địa vị pháp lý
của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự và một số kiến nghị.

8


CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
KIỂM SÁT VIÊN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆN NAM
1.1. Khái niệm địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự
Các quy định pháp luật về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự đã có từ rất sớm trong lịch sử lập pháp nƣớc ta, nhƣng
chƣa thực sự đi vào cuộc sống khi đất nƣớc đang còn trong thời kỳ chiến
tranh, bởi lẽ nhiệm vụ trọng tâm lúc bấy giờ của Viện kiểm sát là giải quyết
các vụ án hình sự. Do đó các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự chặt chẽ và đầy đủ hơn rất nhiều so
với tố tụng dân sự. Trong thời kỳ đất đƣớc đổi mới và phát triển mạnh mẽ nhƣ
ngày nay, các quan hệ dân sự ngày càng nhiều và đa dạng, địa vị pháp lý của
Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự từ đó cũng đƣợc quan tâm hơn và Viện
kiểm sát là một mắt xích quan trọng trong công cuộc cải cách tƣ pháp hiện
nay. Đối với lĩnh vực tố tụng dân sự, VKS chỉ có chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật chứ không thực hiện quyền công tố. Chức năng này của
VKS nhằm bảo đảm pháp luật đƣợc thực hiện, chấp hành một cách nghiêm
chỉnh và thống nhất. Để thực hiện điều này, KSV là ngƣời đại diện cho VKS
thực hiện công tác kiểm sát các hoạt động của những ngƣời tiến hành tố tụng và
những ngƣời tham gia tố tụng dân sự. Để làm rõ hơn vấn đề này chúng ta cần
hiểu đƣợc: Thế nào là địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự?
Khái niệm địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật nói chung đƣợc sử dụng

phổ biến trong các tài liệu, sách báo pháp lý, ngồi ra khái niệm này cũng
đƣợc xem xét, tìm hiểu và đƣợc cơng bố ở các giáo trình luật Nhà nƣớc pháp
luật, một số sách chuyên khảo,.... Theo quan điểm của tác giả, để nêu lên
đƣợc khái niệm địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự hay bất
kỳ một khái niệm về địa vị pháp lý của chủ thể nào chúng ta cần phải hiểu

9


đƣợc khái niệm về địa vị nói chung. Vậy địa vị là gì? Theo Từ điển Tiếng
Việt do GS. Hồng Phê chủ biên, xuất bản, năm 2020 đƣợc hiểu: 1. Vị trí cá
nhân trong quan hệ xã hội, do chức vụ, cấp bậc, quyền lực mà có, về mặt
đƣợc coi trọng nhiều hay ít; 2. Vị trí trong quan hệ xã hội, kinh tế, chính trị do
vai trị, tác dụng mà có, về mặt đƣợc coi trọng nhiều hay ít [49, tr398]. Nhƣ
vậy các chuyên gia ngôn ngữ học nƣớc ta quan niệm địa vị của một chủ thể
chính là vị trí của chủ thể đó trong quan hệ xã hội mà vị trí này có đƣợc do
vai trị, tác dụng của chủ thể đó đối với xã hội. Ngồi ra khái niệm địa vị pháp
lý cũng đƣợc đề cập đến trong các giáo trình Lý luận Nhà nƣớc và pháp luật
của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội và Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Các tác giả giáo trình Lý luận Nhà nƣớc và pháp luật của Trƣờng Đại học
Luật Hà Nội xem xét địa vị pháp lý của một chủ thể pháp luật trƣớc tiên và
chủ yếu thông qua các quyền và nghĩa vụ của chủ thể do pháp luật quy định.
Tác giả giáo trình Lý luận Nhà nƣớc và pháp luật Khoa Luật - Đại học Quốc
gia Hà Nội cũng đồng ý kiến với quan điểm này. Họ đều cho rằng nội dung
cơ bản cùa địa vị pháp lý của một chủ thể bao gồm tổng thể các quyền và
nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho chủ thể đó. Ví dụ: “Tổng thể những
quyền và nghĩa vụ của công dân theo quy định của pháp luật cấu thành nội
dung cơ bản của địa vị pháp lý của công dân trong xã hội”.
Từ những phân tích trên, khái niệm địa vị pháp lý đƣợc hiểu là vị trí
của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với những chủ thể pháp luật khác

dựa trên cơ sở các quy định pháp luật nhằm phân biệt với những chủ thể pháp
luật khác nhau. Ngồi ra ta có thể xem xét đƣợc tầm quan trọng cũng nhƣ vai
trò của các chủ thể pháp luật trong các mối quan hệ mà pháp luật quy định.
Quan niệm nhƣ vậy sẽ tiếp cận địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật một cách
toàn diện, đầy đủ hơn, đồng thời phản ánh đƣợc tính năng động của chủ thể
trong thực tiễn.

10


Tóm lại, địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự là “tổng
hợp các nhiệm vụ, quyền hạn của KSV do pháp luật quy định khi KSV tham
gia vào các hoạt động tố tụng dân sự, thể hiện vị trí của KSV trong mối quan
hệ với các chủ thể khác của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự”. Cụ thể hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự
là nhằm đảm bảo cho các hành vi xử sự của các chủ thể tiến hành, tham gia tố
tụng và văn bản áp dụng pháp luật giải quyết vụ việc dân sự đƣợc thực hiện
nghiêm chỉnh và thống nhất theo quy định của pháp luật; kịp thời phát hiện và
xử lý vi phạm của các cơ quan, ngƣời tiến hành tố tụng và ngƣời tham gia tố
tụng, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp
pháp của đƣơng sự.
1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về địa vị pháp lý của
Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự.
Bộ luật tố tụng dân sự đã ghi nhận vai trò của Viện kiểm sát trong
TTDS, quy định Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự, Kiểm sát
viên là ngƣời tiến hành tố tụng dân sự (theo khoản 1, khoản 2 Điều 46
BLTTDS). Do vậy, sự tham gia của Kiểm sát viên, đại diện cho Viện kiểm sát
trong TTDS nhằm bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật, sự cơng bằng,
bình đẳng và tn thủ pháp luật của các chủ thể là cần thiết. Việc quy định địa
vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự xuất phát từ những cơ sở

khoa học sau đây:
1.2.1. Yêu cầu bảo đảm pháp chế XHCN và bảo đảm quyền con người
trong tố tụng dân sự.
Khái niệm pháp chế XHCN có từ sau Cách mạng Tháng Mƣời Nga.
V.I.Lê-nin là ngƣời đƣa ra định nghĩa pháp chế và các nguyên tắc của nó đã
làm giàu thêm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nƣớc và pháp luật.
Khái niệm pháp chế đƣợc hiểu nhƣ sau: “Pháp chế XHCN là một chế độ đặc

11


biệt của đời sống chính trị - xã hội, trong đó tất cả các cơ quan Nhà nước,
các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, nhân viên Nhà
nước và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến pháp, pháp luật
một cách nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác. Mọi hành động xâm phạm lợi ích
của Nhà nước, quyền, lợi ích của tập thể, của công dân đều bị xử lý theo pháp
luật” [48, tr54].
Theo GS.TS. Nguyễn Minh Đoan: “Pháp chế là sự hiện diện của một
hệ thống pháp luật hoàn thiện và sự tôn trọng, thực hiện pháp luật hiện hành
một cách chính xác, thường xuyên và thống nhất bởi Nhà nước và xã hội,
nhằm xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, bảo đảm cho hoạt động của
toàn xã hội thống nhất, đồng bộ, vì một xã hội công bằng, văn minh” [56,
tr476].
Một số quan điểm lại cho rằng khi nói tới “pháp chế”, ngƣời ta thƣờng
gắn liền nó với một loại cơ quan đặc biệt, đó là Viện kiểm sát, với một loại
quyền lực đặc biệt không có trong lí thuyết phân chia quyền lực của các Nhà
nƣớc tƣ sản, đó là quyền kiểm sát chung. Tại sao thứ quyền lực này lại xuất
hiện? Đó là do bối cảnh của nƣớc Nga sau khi giành cách mạng, chính quyền
địa phƣơng ln có xu hƣớng đi ngƣợc, khơng tn theo chính quyền trung
ƣơng, nói cách khác là tình trạng “địa phƣơng chủ nghĩa” lúc bấy giờ. Một

Nhà nƣớc kiểu mới XHCN, đại diện cho một quan hệ sở hữu mới là sở hữu
cơng, nó cần một sự thống nhất tuyệt đối từ phía trung ƣơng cho tới địa
phƣơng mới có thể đảm bảo cho điều đó, nên quyền lực kiểm sát chung ra đời
nhằm mục đích bảo đảm sự thống nhất, tuân thủ các văn bản luật do trung
ƣơng ban hành từ phía các địa phƣơng cũng nhƣ mọi tổ chức, cá nhân trong
xã hội. Nói đến pháp chế, có thể hiểu nó là sự thống nhất trên cơ sở quy định
của pháp luật trên toàn xã hội, là sự ràng buộc mọi chủ thể đối với các văn
bản luật mà công quyền trung ƣơng ban hành.

12


Do ý nghĩa, mục đích và tầm quan trọng của pháp chế XHCN, Đảng
Cộng sản Việt Nam cũng đã nhiều lần đề cập trong các nghị quyết, chỉ rõ
phƣơng hƣớng và biện pháp cần thiết để tăng cƣờng pháp chế XHCN. Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng đã kế thừa những phƣơng hƣớng, biện pháp
trong những Nghị quyết trƣớc đó và nhấn mạnh:“Hoàn thiện đồng bộ hệ
thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội
chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; cải cách tư pháp,
tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”
Nhƣng dù các quan điểm mới hay xƣa cũ về pháp chế thì nội hàm cơ bản
của pháp chế vẫn là sự tuân thủ pháp luật. Nguyên tắc này đã đƣợc BLTTDS
năm 2015 ghi nhận tại Điều 3 và trở thành một trong những nguyên tắc cơ bản
trong pháp luật TTDS: “Mọi hoạt động tố tụng dân sự của cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan phải tuân theo các quy định của Bộ luật này”.
Đảng và Nhà nƣớc ta tiếp tục giƣơng cao ngọn cờ bảo vệ quyền con
ngƣời, coi việc tôn trọng và bảo vệ quyền con ngƣời là một trong những sứ
mệnh hàng đầu của Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nền dân chủ và

pháp chế xã hội chủ nghĩa đều có mục tiêu tất cả vì con ngƣời. Quyền con
ngƣời, quyền công dân không chỉ đƣợc ghi nhận về mặt lập hiến và lập pháp,
đƣợc thực thi về mặt hành pháp, mà còn đƣợc bảo vệ về mặt tƣ pháp. Hiến
pháp năm 2013 ghi nhận: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người, quyền cơng dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội được cơng nhận, tơn trọng, bảo vệ, bao đảm theo Hiến pháp và pháp luật.
Quyền con người, quyền cơng dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của
luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự
an tồn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Điều 14). Việc

13


Hiến pháp ghi nhận các quyền con ngƣời là rất quan trọng bởi đây là cơ sở
pháp lý cao nhất để con ngƣời, công dân đƣợc thụ hƣởng các quyền của mình
cũng nhƣ bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp đó. Tuy nhiên, trong cơ chế thi
hành pháp luật hiện nay, nhiều quyền hiến định trong Hiến pháp có thể sẽ chỉ
là “quyền hình thức” nếu khơng đƣợc thể chế hóa trong các luật cụ thể. Vấn
đề này đặt ra trách nhiệm đối với cơ quan Nhà nƣớc, từ việc phổ biến, tuyên
truyền các nội dung mới của Hiến pháp đến việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật và thủ tục hành chính, tổ chức bộ máy để đảm bảo thực thi. Vì vậy, pháp
luật TTDS với vai trị là công cụ hữu hiệu bảo vệ các quyền dân sự của công
dân, một trong những nội dung quan trọng của quyền cịn ngƣời cần phải
thích nghi sao cho phù hợp với Hiến pháp nhằm thực hiện đƣợc mục tiêu cuối
cùng là bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Từ những vấn đề trên ta có thể thấy quyền con ngƣời rất phong phú, đa
dạng và không kém phần phức tạp, nó đƣợc điều chỉnh bởi các nguyên tắc,
quy tắc và cách thức khác nhau. Hay nói cách khác, mỗi cơ chế đảm bảo
quyền con ngƣời khác nhau lại có những biện pháp, nguyên tắc, quy tắc và
cách thức riêng, bởi chúng còn phụ thuộc vào các chủ thể khác nhau, góp

phần đảm bảo, thúc đẩy quyền con ngƣời ở mỗi phƣơng diện khác nhau. Cụ
thể nhƣ kiểm sát hoạt động tƣ pháp của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự là
hoạt động kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong hoạt động tƣ pháp, trong việc giải quyết vụ án hành
chính, vụ việc dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh thƣơng mại, lao
động,.. và các hoạt động tƣ pháp khác theo quy định của pháp luật. Kiểm sát
viên có thẩm quyền tham gia phiên tồ, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự
và phát biểu ý kiến, thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Toà án có
vi phạm pháp luật theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và xác
minh thu thập tài liệu, chứng cứ theo BLTTDS năm 2015. Những chức năng,

14


nhiệm vụ trên thể hiện rõ vai trò của KSV trong việc bảo vệ quyền con ngƣời,
quyền công dân trong lĩnh vực tố tụng dân sự.
Nhƣ vậy, việc pháp luật quy định các nhiệm vụ, quyền hạn của KSV
trong tố tụng dân sự xuất phát từ yêu cầu bảo đảm pháp chế XHCN, bảo vệ
quyền con ngƣời, quyền công dân trong tố tụng dân sự.
1.2.2. Vị trí, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống tổ chức
quyền lực Nhà nước
Hệ thống tổ chức quyền lực Nhà nƣớc là một nội dung quan trọng của
chế độ chính trị mỗi quốc gia. Mỗi mơ hình Nhà nƣớc có cách thức tổ chức
quyền lực khác nhau. Khoản 3, Điều 2 Hiến pháp Nƣớc cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định “Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có
sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan Nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Nguyên tắc hiến định
nêu trên đã trở thành nền tảng, cơ sở pháp lý quan trọng cho q trình tổ
chức, thực thi và kiểm sốt quyền lực Nhà nƣớc trong điều kiện xây dựng
Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân

dân, vì Nhân dân ở nƣớc ta hiện nay.
Theo Hiến pháp năm 2013, thì quyền lực Nhà nƣớc thống nhất là ở
nhân dân. Quan điểm thống nhất quyền lực Nhà nƣớc đƣợc thể hiện ở nguyên
tắc tất cả quyền lực Nhà nƣớc thuộc về nhân dân. Đồng thời Hiến pháp năm
2013 đã xác định rõ các chủ thể thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tƣ
pháp: Quốc hội thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành
pháp, TAND là cơ quan thực hiện quyền tƣ pháp.
Vậy Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng của Nhà nƣớc là thực
hiện chức năng lập pháp, hành pháp hay tƣ pháp? Trong tác phẩm Tinh thần
pháp luật của Montesquieu, đã giải thích: Quyền Lập pháp là quyền làm ra
luật… sửa đổi hay hủy bỏ luật (đã ban Hành), quyền Hành pháp là quyền

15


quyết định việc hòa hay chiến, gửi đại sứ đi các nƣớc, thiết lập an ninh, đề
phòng xâm lƣợc, còn quyền Tƣ pháp là quyền trừng trị tội phạm, phân xử
tranh chấp giữa các cá nhân [50, tr105-106].
Ở Việt Nam, theo một số nghiên cứu Quyền Lập pháp đƣợc hiểu là
“quyền đại diện cho nhân dân thể hiện ý chí chung của quốc gia. Thuộc
tính cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt động của quyền này là đại diện cho nhân
dân, bảo đảm cho ý chí chung của nhân dân và được thể hiện trong các
đạo luật mà mình là cơ quan duy nhất được nhân dân giao quyền biểu
quyết thông qua luật. Quyền Hành pháp là quyền lực trung tâm của bộ máy
Nhà nước, gắn liền với thực tiễn, đời sống xã hội. Quyền Hành pháp là
quyền khởi xướng, hoạch định, để xuất chính sách để cơ quan lập pháp
xem xét, phê chuẩn và thực hiện các chính sách pháp luật do cơ quan lập
pháp thông qua” [47, tr16-17].
Mặc dù cịn nhiều quan điểm và cách nhìn nhận khác nhau nhƣng phần
lớn quan điểm cho rằng Viện kiểm sát thực hiện chức năng Tƣ pháp trong bộ

máy Nhà nƣớc. Quyền Tƣ pháp cũng đƣợc hiểu và định nghĩa theo nhiều cách
khác nhau nhƣ: “quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hơn nhân gia đình,
kinh tế, lao động, hành chính” [71, tr657]; “xét xử các hành vi vi phạm hiến
pháp, vi phạm pháp luật từ phía cơng dân và các cơ quan Nhà nước; bảo vệ
pháp luật, công lý, tự do của công dân và trật tự an tồn xã hội” [57, tr60];
“phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi, các
quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa các
chủ thể pháp luật” [62, tr11]. Song nhận thức chung về quyền Tƣ pháp cốt lõi
vẫn là quyền xét xử, là việc nhân danh Nhà nƣớc giải quyết tranh chấp, giải
quyết xung đột xã hội trên cơ sở pháp luật và lẽ công bằng, thông qua xét xử,
theo các thủ tục tố tụng luật định. Quyền Tƣ pháp do đó mà phân biệt với
quyền Lập pháp (xây dựng chính sách, tạo Lập ra các quy tắc chung làm

16


khuôn mẫu cho các Hành vi) và quyền Hành pháp (quản lý Nhà nước, thực thi
pháp luật, tổ chức đời sống theo pháp luật).
Hiến pháp không quy định xét xử là hoạt động tƣ pháp duy nhất và Tịa
án khơng phải là cơ quan tƣ pháp duy nhất. Tại tiểu mục 1.5, mục 1, Phần I
của Nghị quyết số 48-NQ/TW nói về việc xây dựng và hồn thiện pháp luật
về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tƣ pháp, bên cạnh sự xuất hiện của
Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra cũng đƣợc coi là những cơ quan tƣ
pháp. Tiểu mục 2.2, mục 2, Phần II của Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ
Chính trị về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy
các cơ quan tƣ pháp, Viện kiểm sát cũng đƣợc nhắc đển với vai trò chức năng
“thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp”. Mặt khác, từ quy
định tại Điều 4, Luật tổ chức VKSND năm 2014 có thể hiểu rằng: “hoạt động
tư pháp là các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tiếp
nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, giải quyết

vụ án hình sự; tạm giữ, tạm giam; giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân
sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án,
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp ...”. Từ đó, có thể
kết luận rằng: Tuy TAND là chủ thể của quyền tƣ pháp, là cơ quan giữ vị trí
trung tâm trong hệ thống tƣ pháp, hoạt động xét xử và đóng vai trị trung tâm
trong hoạt động tƣ pháp nhƣng không phải là cơ quan duy nhất thực hiện
quyền này. Bên cạnh đó, Viện kiểm sát cũng đƣợc xác định nhƣ là một bộ
phận quan trọng của hoạt động tƣ pháp, thực hiện chức năng tƣ pháp cùng với
Toà án, Cơ quan điều tra và các hoạt động bổ trợ tƣ pháp khác nhằm bảo đảm
hiệu quả trong hoạt động xét xử.
Xét trên phƣơng diện tổng thể, trên thế giới hiện nay cơ bản tồn tại hai
mơ hình Nhà nƣớc chủ yếu là “tam quyền phân lập” (Mỹ, Anh, Pháp,..) và
“thống nhất quyền lực” (Trung Quốc, Việt Nam,…). Đối với mơ hình quyền

17


lực thống nhất không phân chia quyền lực nhƣ nƣớc ta do Đảng cộng sản duy
nhất lãnh đạo và tất cả quyền lực Nhà nƣớc thuộc về nhân dân, có nhiều ƣu
điểm nhƣng cũng có những hạn chế nhất định nhƣ việc lạm dụng quyền lực
nếu khơng có cơ chế, thiết chế kiểm sốt thích hợp, C. Mác gọi hiện tƣợng
này là “sự tha hoá quyền lực Nhà nước”, đƣợc biểu hiện dƣới nhiều dạng
thức khác nha, nhƣ lạm quyền , lộng quyền, tùy tiện, thiếu trách nhiêm, lợi
dụng quyền lực, tham quyền cố vị, quan liêu,... Do đó để khắc chế việc tha
hố quyền lực, địi hỏi pháp chế phải thống nhất, tổ chức quyền lực Nhà nƣớc
phải đƣợc thể chế hóa bằng hiến pháp, pháp luật, trong đó quy định rõ sự
phân công, phân cấp, trao quyền đi đơi với trách nhiệm và cơ chế giám sát,
kiểm sốt các quyền đó. Có thể nói, cơ chế kiểm sốt quyền lực Nhà nƣớc là
rất rộng, có nhiều cơ quan, thiết chế tham gia kiểm soát quyền lực Nhà nƣớc,
trong đó Viện kiểm sát nhân dân với tƣ cách là thiết chế kiểm soát quyền lực

Nhà nƣớc trong hoạt động tƣ pháp ở nƣớc ta hiện nay. Vì vậy để đấu tranh
chống lại một cách hiệu quả những hạn chế nêu trên và đảm bảo pháp luật
đƣợc thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất, Viện kiểm sát nhất thiết phải đƣợc
thành lập.
Chức năng kiểm sát các hoạt động tƣ pháp của VKSND theo Hiến pháp
năm 2013, là sự kế thừa Hiến pháp năm 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001. Tuy
nhiên so với các bản Hiến pháp trƣớc thì đó là sự thay đổi theo hƣớng thu hẹp
phạm vi chức năng kiểm sát. Theo quy định của Hiến pháp những năm 1959,
1980, 1992 thì phạm vi chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân rất
rộng. Để tránh việc chồng chéo, trùng lặp chức năng, nhiệm vụ giữa VKSND
và thanh tra Nhà nƣớc, Hiến pháp sửa đổi năm 2001 đã xoá bỏ chức năng
kiểm sát chung của VKSND. Với tinh thần đó, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục
xác định VKSND là cơ quan có chức năng kiểm sát các hoạt động tƣ pháp
đƣợc quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và khoản 1

18


×