Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

KINH tế VI mô nhóm 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.02 KB, 4 trang )

KINH TẾ VI MƠ
NHĨM 04
Nội dung trình bày: Trình bày khái niệm giá sàn và hệ quả khi chính phủ quy định
giá sàn? Liên hệ thực tiễn khi chính phủ quy định giá sàn đối với mức tiền lương
tối thiểu?

1.
a.
-

-

Khái niệm giá sàn khái niệm giá sàn và hệ quả khi chính phủ quy định giá
sàn
Khái niệm giá sàn:
Giá sàn (Price Floor – FL) là mức giá tối thiểu hay cịn gọi là dưới hạn dưới
của giá được Chính phủ quy định cho một loại hàng hóa dịch vụ nào đó khi
giá của thị trường tự do là quá thấp.
Trên thực tế giá sàn Chính phủ quy định thường cao hơn giá thị trường nên
hàm ý của nó là bảo vệ quyền lợi cho người sản xuất, tức là tăng giá cho họ.
Mặt khác, về mặt pháp lý thì những người mua khơng được phép mua thấp
hơn giá sàn Chính phủ đã quy định.

b.

Hệ quả khi Chính phủ quy định giá sàn:

-

Chính phủ áp giá sàn là khi chính phủ muốn bảo vệ nhà sản xuất; giá sàn sẽ
cao hơn giá cân bằng cung cầu.


Ví dụ khi các nhà sản xuất cạnh tranh nhau giảm giá quá nhiều hay trong thị
trường có nhà sản xuất khơng thể bán với giá sản lượng cân bằng do chi phí
sản xuất quá lớn; nếu cứ như vậy nhà sản xuất đó có thể bị phá sản.
Khi chính phủ áp giá sàn thì thặng dư của nhà sản xuất tăng lên vì họ có thể
bán giá trên giá cân bằng còn thặng dư của người tiêu dùng lại giảm xuống
vì họ phải mua với mức giá cao hơn giá cân bằng
Trên đồ thị hình 2.11 cho thấy, tại mức giá sàn PF cao hơn giá thị trường nên
lượng cung của người sản QSF thường vượt quá lượng cầu của người tiêu
dùng QDF tại mức giá này làm cho thị trường tồn tại trạng thái dư thừa (dư

-

-

-


cung) hàng hóa một lượng QSF – QDF. Ví dụ điển hình về giá sàn là mức tiền
cơng tối thiểu. Bằng cách quy định mức tiền cơng tối thiểu, Chính phủ muốn
duy trì một mức sống nhất định cho người làm thuê. Song trên thực tế, mức
tiền công tối thiểu cao hơn tiền công thị trường này sẽ nảy sinh tình trạng dư
thừa lao động và là nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp.

Hình 2.11

-

-

Để giá sàn có hiệu lực về mặt pháp lí, Chính phủ phải tham gia vào thị

trường như là một khách hàng để mua phần hàng hóa dư thừa do việc quy
định giá sàn tạo nên. Hành vi này sẽ làm cho đường cầu thị trường dịch
chuyển theo hướng tăng từ D sang D1 tạo nên điểm cân bằng mới E1 và giá
cân bằng PE1 đúng bằng giá sàn, lượng cân bằng mới vừa bằng lượng cung
mà các nhà sản xuất cần bán tại mức giá sàn.
Vận dụng kiểm sốt giá thơng qua quy định “giá sàn” có ý nghĩa lớn đối với
các nhà sản xuất nơng nghiệp khi được mùa, giá cả nơng sản phẩm (ví dụ giá
thóc) ở mức giá q thấp, Chính phủ sử dụng nguồn ngân sách của mình để


-

2.
-

-

mua sản phẩm cho nông dân với giá cao hơn giá thị trường. Đây chính là
hình thức trợ giá đầu ra nhằm khuyến khích nơng nghiệp phát triển.
Như vậy, việc can thiệp của chính phủ vào thị trường dưới các hình thức
kiểm sốt giá cả sẽ dẫn đến sự dư thừa hay thiếu hụt ở các mức giá quy định
và làm giảm tính hiệu quả của thị trường chứ khơng phải là một giải pháp
cho vấn đề phân bố tài nguyên. Tuy nhiên việc can thiệp của chính phủ vẫn
là cần thiết để đạt được những mục tiêu nhất định trong mỗi giai đoạn nào
đó như: đảm bảo an ninh lương thực thực phẩm, ổn định sản xuất, đời sống
của nhân dân khi lạm phát cao.

Liên hệ thực tiễn khi chính phủ quy định giá sàn đối với mức tiền lương tối
thiểu
Khi khơng được mua, bán hàng hố với mức giá thấp hơn giá sàn, trong

trường hợp này, những người bán hàng hố dường như sẽ có lợi. Nhờ việc
kiếm sốt giá của nhà nước, họ có khả năng bán hàng hoá với mức giá cao
hơn giá cân bằng thị trường.
Một biểu hiện của việc định giá sàn là chính sách tiền lương tối thiểu.


-

Khi qui định mức lương tối thiểu cao hơn mức lương cân bằng trên thị
trường (và chỉ trong trường hợp này, chính sách giá sàn mới có ý nghĩa)



Nhà nước kì vọng rằng những người lao động sẽ khấm khá hơn, nhờ có
được mức lương cao hơn.



Mặc dù chính sách tiền lương tối thiểu được thiết kế nhằm bảo vệ lợi ích
của những người lao động xong nó lại có thể làm nảy sinh nhiều vấn đề.
Những người được lợi nhờ chính sách này chỉ nằm trong số những người
lao động may mắn có được việc làm, và số lượng những người này ít hơn
trước. Khi đó số người thất nghiệp tăng lên dẫn đến dư thừa lao động.



Những người thuê mướn lao động sẽ có một vị thế tốt hơn để có thể đưa
ra những quy định bất lợi cho những người muốn xin việc.




Tóm lại ta thấy khi chính phủ đưa bàn tay hữu hình vào điều chỉnh thị
trường thì đều làm thiệt hại một khoản phúc lợi xã hội nhưng bù lại là
giúp phân chia thu nhập một cách cơng bằng hơn. Mục đích thì rất tốt
nhưng là con dao hai lưỡi vì tốt cho bên này thì sẽ tệ cho bên kia.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×