Nguyễn Duy Chỉnh, Phân chia tuyến biển và giao quyền quản lý tuyến biển ven bờ cho các cộng đồng ngư dân
PHÂN CHIA TUYẾN BIỂN VÀ GIAO QUYỀN QUẢN LÝ
TUYẾN BIỂN VEN BỜ CHO CÁC CỘNG ĐỒNG NGƯ DÂN
Nguyễn Duy Chỉnh
Tóm tắt
Biển và tài ngun biển có vai trị vơ cùng quan trọng trong đời sống kinh tế và an ninh quốc
phịng ở nước ta. Tài ngun biển hàng năm góp phần ni sống hàng chục triệu người dân
vùng ven bờ có đời sống phụ thuộc hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp vào nghề cá. Tuy nhiên,
hiện nay cơ chế tiếp cận tự do là một trong những nguyên nhân làm suy giảm nguồn lợi
thủy sản . Quan niệm “điền tư, ngư chung” đã ăn sâu vào tiềm thức của mọi người dân Việt
Nam, trong khi trên thế giới việc phân chia vùng biển và giao quyền quản lý cho cấp địa
phương đã được áp dụng khá phổ biến đồng thời, nhiều dân liệu khoa học cho thấy tính
hiệu quả của việc phân chia này trên các phương diện: phục hồi nguồn lợi, sử dụng hợp lý
mặt nước và cải thiện đời sống cho dân. Bài viết này tập trung phân tích sự cần thiết phải
phân chia tuyến biển ở Việt Nam, kinh nghiệm phân chia tuyến biển của các nước trên thế
giới, và đề xuất một số định hướng để phân chia tuyền biển trong điều kiện ở Việt Nam
cũng như đề xuất các cơ chế, về tổ chức thực hiện, chủ yếu thông qua việc áp dụng tiếp cận
đồng quản lý và phân cấp quản lý các tuyến biển.
1. Sự cần thiết phải phân chia tuyến biển
Khoảng 35% dân số Việt Nam đang sinh sống và phụ thuộc vào mơi trường ven biển. Sự q
phụ thuộc của người dân vào tài ngun biển để mưu sinh là một trong những ngun nhân
gây suy thối các hệ sinh thái và mơi trường ven biển.
Ở nước ta, dưới các triều đại phong kiến trước đây, nhà vua ban cho các làng xã ven biển,
hoặc cá nhân quan lại có cơng với triều đình được làm chủ một vùng biển nhất định, có
quyền tự khai thác hoặc cho người khác khai thác với một mức lệ phí theo thơng lệ. Khi đó
ngư dân đánh cá biển rất ít, họ chỉ khai thác bằng nghề thủ cơng gần bờ.
Ngày nay, trong ngư dân đang tồn tại quan niệm “điền tư, ngư chung“. Từ nhận thức trên,
tại vùng biển của nước ta đang diễn ra tình trạng “tự do khai thác hải sản”. Ai cũng có
quyền sắm thuyền, lưới để ra biển khai thác. Trong vòng 10 năm từ 1995 đến 2005 số tàu
thuyền máy đã tăng từ 68.000 chiếc lên 91.000 chiếc, tổng công suất tăng gấp 3 lần từ
1.700.000 CV lên 5.300.000 CV. Năng suất đánh bắt bình qn năm giảm từ 0,55 T/CV năm
1995 xuống cịn 0,34T/CV năm 2005. Tình trạng cạnh tranh giữa các loại nghề, giữa tàu cỡ lớn
và tàu cỡ nhỏ, giữa tàu của địa phương này với địa phương khác trong cùng một ngư trường
ngày càng gay gắt. Trình độ dân trí thấp, dân số tăng nhanh, để giải quyết việc làm cho số
lao động mới bổ sung, ngư dân lại sắm thêm thuyền, lưới để ra biển đánh cá. Nhưng do
thiếu vốn, họ chỉ sắm được tàu thuyền nhỏ, khai thác ở vùng biển ven bờ, làm gia tăng
cường độ khai thác ở vùng biển này, năng suất đánh bắt giảm, buộc lịng họ phải sử dụng
kết hợp chất nổ, xung điện, chất độc để đánh cá trên diện rộng, đe dọa từng ngày, từng giờ
nguồn lợi hải sản, đặc biệt là vùng biển gần bờ, 85% diện tích san hơ ở Việt Nam có nguy cơ
bị đe dọa phá huỷ. Các lực lượng bảo vệ nguồn lợi hải sản với số người và trang bị hạn chế
khơng có khả năng ngăn chặn tình trạng trên.
Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"
143
Nguyễn Duy Chỉnh, Phân chia tuyến biển và giao quyền quản lý tuyến biển ven bờ cho các cộng đồng ngư dân
Cặn dầu, nhớt, túi nylon đựng cá và các loại chất thải khác trên tàu đánh cá được xả một
cách thản nhiên xuống biển là việc thường thấy ở các bến cá. Nhiều làng cá khơng có nhà vệ
sinh hoặc do thói quen, ngư dân tự do đi vệ sinh ngồi bãi biển làm mơi trường vùng biển
gần bờ càng thêm ơ nhiễm.
Vì vậy, muốn bảo vệ nguồn lợi hải sản, bảo vệ an tồn các hệ sinh thái và mơi trường biển,
cần có hệ thống hoạt động nhịp nhàng giữa cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương và địa
phương cùng cộng đồng ngư dân trên cơ sở phân quyền quản lý và trách nhiệm rõ ràng.
2. Kinh nghiệm phân chia vùng biển của các nước trong vùng
Các nước có biển xung quanh nước ta đều đã lần lượt chia biển thành các tuyến và quy định
loại tàu và loại nghề được phép hoạt động trong mỗi tuyến biển.
Ví dụ: Inđơnêxia chia biển thành 4 tuyến: tuyến ven bờ từ 3 hải lý trở vào bờ chỉ cho thuyền
thủ cơng và thuyền gắn máy cơng suất nhỏ hoạt động. Từ 3 đến 20 hải lý cho tàu đánh cá
dưới 350 CV hoặc chiều dài tàu dưới 20 m.
Trên 20 hải lý cách bờ tới 200 hải lý là vùng hoạt động của tàu lớn hơn 350 CV hoặc chiều dài
lớn tàu hơn 20m.
Các nước Brunây và Malaixia chia biển thành 4 vùng: vùng I tính từ bờ tới 3‐5 hải lý, vùng II
tới 12‐ 20 hải lý, vùng III tới 30‐45 hải lý, vùng IV từ giới hạn vùng III tới hết vùng biển đặc
quyền kinh tế. Tàu hoạt động trong mỗi vùng biển được sơn màu khác nhau để ngư dân và
các đơn vị giám sát dễ nhận biết.
Thái Lan và Philippin phân chia biển thành 2 vùng: vùng biển gần bờ của Thái Lan được giới
hạn từ 12 hải lý trở vào bờ, của Philippin giới hạn từ 15 hải lý. Vùng biển xa bờ của hai nước
này là vùng biển đặc quyền kinh tế nằm ngồi vùng biển gần bờ.
Vùng biển gần bờ của Myanma ở phía bắc được tính từ 5 hải lý trở vào bờ, ở phía nam tính
từ 10 hải lý.
3. Phân chia tuyến biển và phân cấp quản lý ở Việt Nam
Vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam được chia thành 4 tuyến:
+ Tuyến liền bờ cách đường bờ biển 6 hải lý, đây là đới rừng ngập mặn và cỏ biển. Tuyến
này giao cho cộng đồng ngư dân quản lý, chính quyền kết hợp với cộng đồng ngư dân
để xác định ranh giới quản lý vùng biển cho từng cộng đồng
Tuyến liền bờ chia thành 2 phân tuyến:
‐ Phân tuyến I: cách 3 bờ hải lý, đó là giới hạn đới rừng ngập mặn, là nơi sinh trưởng cho
tơm cá nhỏ, cấm mọi hoạt động khai thác hải sản tự nhiên, được sử dụng để ni trồng
hải sản.
144
Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"
Nguyễn Duy Chỉnh, Phân chia tuyến biển và giao quyền quản lý tuyến biển ven bờ cho các cộng đồng ngư dân
‐ Phân tuyến II: cách bờ từ 3 đến 6 hải lý. Trong phân tuyến này, mỗi cộng đồng ngư dân
tự xác định số lượng tàu, chủng loại nghề và số lượng lao động đánh cá nhằm khai thác
bền vững nguồn lợi hải sản của vùng biển do cộng đồng mình quản lý.
+ Tuyến gần bờ giới hạn từ 6 đến 24 hải lý. Tuyến này do tỉnh có biển quản lý. Trên cơ sở
điều tra nguồn lợi hải sản, mỗi tỉnh xác định số lượng tàu, chủng loại nghề, số lượng lao
động đánh cá cho vùng biển thuộc tỉnh quản lý. Sở Thuỷ sản là cơ quan nhà nước có
trách nhiệm tổ chức và giám sát việc thực hiện.
+ Tuyến xa bờ được tính từ đường cách bờ 24 hải lý đến hết vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam, tuyến này do nhà nước trung ương quản lý. Bộ Thuỷ sản là cơ quan nhà nước
có trách nhiệm tổ chức điều tra nguồn lợi hải sản, để định ra số lượng tàu, chủng loại
nghề và số lượng lao động đánh cá trong tồn tuyến biển, trong đó tập trung vào các ngư
trường trọng điểm.
Do đặc điểm cá biển Việt Nam đa lồi và sản lượng mỗi lồi khơng lớn nên Việt Nam khơng
nên áp dụng giải pháp cấp “hạn ngạch” như một số nước. Bộ Thuỷ sản dựa vào quy hoạch
khai thác hải sản, để cấp giấy phép cho các tàu khai thác hải sản tuyến xa bờ. Tàu khai thác
hải sản xa bờ khơng được phép vào khai thác ở tuyến gần bờ và liền bờ.
+ Tuyến viễn dương nằm ngồi vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam phải theo thơng
lệ quốc tế và các hiệp định, hợp đồng do Việt Nam ký kết với các nước. Các tàu cá Việt
Nam khai thác ở vùng biển này chịu sự quản lý của Bộ Thuỷ sản.
4. Cộng đồng ngư dân và hướng quản lý vùng biển ven bờ
Việt Nam có 28 tỉnh, thành phố ven biển, trong đó có 115 huyện, thị xã có bờ biển và có tham
gia khai thác hải sản, bao gồm 628 xã, thị trấn phân bố theo các vùng như sau:
‐ Vùng Bắc Bộ gồm 5 tỉnh từ Quảng Ninh đến Ninh Bình gồm 20 huyện, thị xã với 100 xã,
phường.
‐ Vùng Bắc Trung Bộ gồm 6 tỉnh từ Thanh Hố đến Thừa Thiên Huế có 30 huyện, thị xã
với 187 xã, phường.
‐ Vùng Nam Trung Bộ gồm 7 tỉnh từ thành phố Đà Nẵng đến Ninh Thuận có 32 huyện, thị
xã với 160 xã, phường.
‐ Vùng Đơng Nam Bộ gồm 3 tỉnh, thành phố: Bình Thuận, Bà Rịa Vũng Tàu, thành phố Hồ
Chí Minh, có 9 huyện, thị xã với 62 xã, phường.
‐ Vùng đồng bằng sơng Cửu Long gồm 7 tỉnh từ Tiền Giang đến Kiên Giang có 24 huyện,
thị xã với 119 xã, phường.
Tổng số dân của 115 huyện, thị xã ven biển trên 17 triệu người, chiếm khoảng 20% dân số
của cả nước. Dân số sinh sống bằng nghề khai thác hải sản khoảng gần 10%. Ngồi ra cịn rất
nhiều người sống bằng nghề ni trồng hải sản và các ngành nghề khác.
Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"
145
Nguyễn Duy Chỉnh, Phân chia tuyến biển và giao quyền quản lý tuyến biển ven bờ cho các cộng đồng ngư dân
Trong các cộng đồng ngư dân chỉ có khoảng 30% chun khai thác hải sản, cịn lại 70% cộng
đồng ngư dân kết hợp với ngành nghề khác như ni trồng, chế biến, thương mại thuỷ sản,
làm muối, nơng lâm nghiệp…
Tại mỗi cộng đồng ngư dân làm nghề khai thác hải sản, nên tổ chức thành tập thể như chi
hội nghề cá, tập đồn sản xuất, hợp tác xã… Chính quyền kết hợp với ngư dân tổ chức đại
hội bàn bạc dân chủ quyết định các vấn đề liên quan đến nghề khai thác hải sản trong phạm
vi vùng biển được giao, bầu ban quản lý có trách nhiệm tổ chức và giám sát mọi hoạt động
theo các tiêu chí đã bàn bạc thống nhất.
Đối với cộng đồng ngư dân làm nghề ni hải sản, phải tiến hành các thủ tục đăng ký, cấp
phép và quyền sử dụng mặt nước biển phục vụ ni trồng hải sản theo Nghị định
27/2004/NĐ‐CP của Chính phủ. Uỷ ban Nhân dân huyện phối hợp với Sở Thuỷ sản, Uỷ ban
Nhân dân xã, phường và cộng đồng ngư dân tổ chức việc giao mặt nước biển cho các đối
tượng được giao, hoặc th mặt nước biển theo giấy phép. Trường hợp mặt nước sử dụng
khơng đúng mục đích ghi trong giấy phép sẽ bị xử phạt hoặc thu hồi.
5. Kết luận
Việc phân chia tuyến biển và phân cấp quản lý để xác định từng vùng biển đều có người chủ
thực sự là địi hỏi cấp bách phải thực hiện nhằm đưa nghề khai thác và ni trồng hải sản
được quản lý chặt chẽ, nhằm đảm bảo sản xuất bền vững.
Vùng biển ven bờ đang diễn ra cạnh tranh gay gắt trong khai thác và ni trồng hải sản. Nếu
khơng tổ chức tốt sẽ dẫn đến suy kiệt nguồn lợi và nghèo đói. Cách làm có hiệu quả đang
được nhiều nước áp dụng là tổ chức quản lý theo hình thức cộng đồng.
COASTAL MARINE WATERS ZONING AND ITS DELEGATION FOR LOCAL
FISHERIES COMMUNITY
Abstract
The sea and its resources play very important role in socio‐economic development as well
as security and national defend in Viet Nam. The marine resources annually contribute to
feed million of people living along the coast who whether depended directly or indirectly
to fisheries resources. However, under the “open access” regime, the marine resources is
declining. The common conception “land is private, fish is common” has been dominated
in Viet Nam meanwhile the division of sea‐line area and decentralization of managing
fisheries resources in the designated area has been adopted in several countries. Many
scientific data has shown that the effectiveness of this division approach in term of
resource rehabilitation, wise utilization of seawater surface and enhance the livelihood of
local fisheries community. In this report we highlighted the rationale of the division of
sea‐line area in Viet Nam, some experiences of sea‐line division in other countries are
also analyzed, based on that we suggested the guidelines for division activities and its
schemes. Finally the recommendations for co‐ordination mechanism to carry out the
division are proposed, mainly through co‐management approach and decentralization to
manage sea designated area.
146
Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"