Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

Các hình thức khai thác và chế biến hải sản trong cộng đồng ngư dân ven biển Cửa Lò, Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.41 MB, 167 trang )


1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







PHAN THỊ HOÀN






CÁC HÌNH THỨC KHAI THÁC VÀ CHẾ BIẾN HẢI SẢN TRONG
CỘNG ĐỒNG NGƯ DÂN
VEN BIỂN CỬA LÒ, NGHỆ AN






LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LỊCH SỬ









Hà Nội 2008




2
MỤC LỤC
TRANG


MỤC LỤC 2
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ SƠ ĐỒ 5
MỞ ĐẦU 6
1. Lý do và mục đích chọn đề tài 6
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 7
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu 11
3.1. Phạm vi 11
3.2. Đối tượng 13
4. Phương pháp nghiên cứu 13
5. Một số khái niệm như là công cụ nghiên cứu 14
6. Bố cục luận văn 16
CHƢƠNG I. CỬA LÕ – THIÊN NHIÊN VÀ CON NGƢỜI 17
1. Về điều kiện tự nhiên và nguồn lợi biển 17
1.1. Điều kiện địa hình, khí hậu 17

1.2. Nguồn lợi biển 19
1.3. Địa lý hành chính 20
2. Dân cư 21
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển 21
2.2. Về văn hóa 28
2.2.1. Đời sống vật chất 28
2.2.2. Tín ngưỡng, lễ hội 29
3. Về tình hình kinh tế - xã hội 34
Tiểu kết 37
CHƢƠNG II. CÁC HÌNH THỨC KHAI THÁC NGUỒN LỢI HẢI SẢN
CỦA CỘNG ĐỒNG NGƢ DÂN VEN BIỂN CỬA LÕ 38
1. Nhận thức của ngư dân về môi trường tự nhiên và nguồn lợi hải sản 38
1.2 Về chế độ thuỷ triều và sơ đồ nước mặt - nước đáy. 39
1.3. Về mùa cá và làn nước của các loại hải sản 41
1.4. Những thay đổi trong nhận thức của ngư dân về môi trường tự nhiên và
nguồn lợi 42

3
2. Các hình thức khai thác và hệ thống ngư cụ 43
2.1. Lưới rút 47
2.2. Câu 50
2.3. Dạ 52
2.3.1. Dạ bướm 52
2.3.2. Dạ ván 53
2.3.3. Dạ cào 54
2.3.4. Dạ luồi 54
2.3.5. Dạ va va 54
2.4. Vó ánh sáng, Mành 55
2.5. Te 57
2.6. Bóng ghẹ 57

3. Những thay đổi trong khai thác hải sản qua các thời kỳ 58
4. Các hình thức tổ chức khai thác hải sản 66
4.1. Phân công lao động theo giới 66
4.2. Tổ chức đánh bắt theo thuyền 68
4.3. Tổ chức đánh bắt theo nhóm 70
5. Các loại sản phẩm và mạng lưới phân phối sản phẩm 71
Tiểu kết 76
CHƢƠNG III. CÁC HÌNH THỨC CHẾ BIẾN HẢI SẢN CỦA CỘNG
ĐỒNG NGƢ DÂN VEN BIỂN CỬA LÕ 77
1. Tri thức về chế biến hải sản 77
2. Các hình thức chế biến hải sản 79
2.1. Các sản phẩm muối 79
2.1.1. Nước mắm 79
2.1.2. Các loại ruốc 83
2.2. Các sản phẩm chế biến qua lửa 86
2.2.1. Cá nướng 86
2.2.2. Cá luộc và hun khói, tôm luộc 87
2.3. Các sản phẩm chế biến không qua lửa 88
3. Những biến đổi trong nghề chế biến 90
3.1. Về dụng cụ 91
3.3. Về xây dựng và quảng bá thương hiệu 93

4
4. Tổ chức lao động trong chế biến hải sản 94
4.1. Các hình thức tổ chức lao động 94
4.1.1. Tổ chức lao động theo hộ gia đình 95
4.1.2. Tổ chức lao động theo nhóm 95
4.2. Vai trò của nữ giới trong nghề chế biến 98
5. Mạng lưới phân phối sản phẩm 103
6. Mối quan hệ giữa khai thác và chế biến hải sản 106

Tiểu kết 108
KẾT LUẬN 109
TÀI LIỆU THAM KHẢO 112
PHỤ LỤC 115
I. Một số định nghĩa về khai thác, chế biến hải sản và sản phẩm hải sản 115
II. Một số thông tin về hiện trạng khai thác hải sản ở Việt Nam 118
III. Đề án phát triển kinh tế thủy sản thị xã Cửa Lò giai đoạn 2007 - 2010 có
tính đến năm 2015 128
IV. Hình ảnh 140



















5


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ SƠ ĐỒ

Bảng biểu
Bảng1 (Mục I.2.1): Thống kê về lao động việc làm của UBND phường
Nghi Thủy (tính đến 6 tháng đầu năm năm 2008) Tr26
Bảng2 (Mục I.2.1): Thống kê chi tiết về các ngành nghề của phường
Nghi Thủy năm 2007 Tr27
Bảng 3 (Mục II.2): Bảng tổng hợp các chỉ tiêu về khai thác thuỷ sản
theo các nghề chính ở Cửa
Lò Tr43
Bảng 4 (Mục II.3): Thống kê về số lao động và tàu thuyền đánh bắt năm
2005 và 2007 ở Cửa
Lò Tr63
Bảng 5 (Mục II.3): Thống kê về sản lượng đánh bắt hải sản (phân chia
theo loại cụ thể) của thị xã Cửa Lò năm
2005 Tr66
Bảng 6 (Mục II.3): Sản lượng khai thác hải sản từ năm 2001 đến năm 2006
ở Cửa

Tr66
Bảng 7 (Mục III. 4.1.1): Thống kê số lượng cơ sở chế biến và lao động
chuyên chế biến hải sản trên địa bàn thị xã Cửa Lò năm 2005 và
200 Tr94

Sơ đồ
Sơ đồ 1 (Mục I.1.2): Sơ đồ các hướng gió và chiều nước mặt, nước
đáy Tr38
Sơ đồ 2 (Mục II. 5): Mạng lưới phân phối hải sản đánh bắt được thông
qua những người đánh bắt, người mua và
bán Tr75

Sơ đồ 3 (Mục III. 2.1.1): Quy trình sản xuất nước mắm vẩy cổ
truyền Tr83
Sơ đồ 4 (Mục III.5): Mạng lưới thông tin sản phẩm từ chế biến tới
người tiêu
dùng Tr106

6

MỞ ĐẦU

1. Lý do và mục đích chọn đề tài
Quản lý nguồn lợi hải sản để phát triển ngư nghiệp bền vững đang là
vấn đề bức thiết được đặt ra khi nguồn lợi này đang bị khai thác một cách quá
mức và có chiều hướng suy giảm nghiêm trọng
1
. Đây không chỉ là vấn đề cấp
bách của nước ta mà còn là của nhiều quốc gia có nguồn lợi biển trên thế giới.
Để quản lý một cách hiệu quả, điều quan trọng không phải là chỉ tìm hiểu bản
thân nguồn lợi, mà quan trọng là phải hiểu được chủ thể tiến hành các hoạt
động khai thác nguồn lợi đó – đó chính là ngư dân. Chính vì vậy, nghiên cứu
văn hoá của cộng đồng ngư dân đóng một vai trò quan trọng đối với nhận thức
chung của xã hội, đặc biệt là đối với những nhà quản lý – người đưa ra và triển
khai các chính sách và chiến lược phát triển.
Tuy cùng lấy biển làm đối tượng khai thác chính nhưng không phải ngư
dân nơi nào cũng có cách ứng biến giống nhau trước môi trường đó. Ngoài
những mẫu số chung, sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử,
kinh tế, xã hội,… tạo nên cách ứng xử khác nhau trước môi trường lớn là biển
cả. Cho nên, bức tranh về văn hoá của các cộng đồng ngư dân là vô cùng
phong phú và đa dạng, mang màu sắc địa phương, vùng miền.
Để thích ứng với điều kiện tự nhiên, con người phải tạo ra những cách

thức khác nhau trong những môi trường sinh thái khác nhau. Nhưng liệu
những cách thức đó có vừa đảm bảo điều kiện sống, vừa đảm bảo không tác
động xấu tới môi trường tự nhiên, đảm bảo cho sự phát triển bền vững? Đó là
một câu hỏi đáng được quan tâm và cần trả lời.
Chính vì vậy, nghiên cứu về các hình thức khai thác và chế biến hải sản
trong cộng đồng ngư dân cũng là nghiên cứu về cách ứng phó của cư dân đó
trước môi trường tự nhiên biển cả, góp phần vào tìm hiểu văn hoá của ngư dân.
Đồng thời, tìm hiểu các thói quen về đánh bắt và chế biến để thấy được những
ưu điểm và hạn chế của các hình thức đó đối với đời sống dân cư cũng như đối
với sự phát triển bền vững nguồn lợi hải sản.
Cửa Lò nằm trong vùng biển tiếp nối giữa vịnh Bắc Bộ với các vùng
biển phía nam, ẩn chứa nhiều thành tố văn hóa tiếp xúc giữa hai khu vực: từ
bắc vào và từ nam lên, điều này đã được một số nhà nghiên cứu quan tâm và
đã đặt ra một câu hỏi, phải chăng nơi đây đã từng có sự tiếp xúc với văn hóa

1
Xem thêm phụ lục số 2.

7
Malayo-pôlynêdiêng? Đây cũng là một điểm lý thú khi tìm hiểu và khám phá văn
hóa của vùng đất ven biển này.
Ngư dân Cửa Lò, cũng như ngư dân ven biển nhiều nơi khác ở Việt
Nam, mặc dù không có xuất xứ từ dân biển, nhưng do nhiều hoàn cảnh đã
cùng nhau dựng làng, qua bao đời sinh sống ở môi trường ven biển, họ đã biết
tận dụng môi trường tự nhiên đó và tạo ra các cách thích ứng, đảm bảo cho lẽ
sinh tồn. Cho nên, việc tìm hiểu các phương thức khai thác và chế biến, bảo
quản hải sản của ngư dân ven biển Cửa Lò cũng là tìm hiểu khả năng thích ứng
trước điều kiện tự nhiên của ngư dân nơi đây, và quá trình đó đã tạo nên những
nét văn hoá của ngư dân vùng biển này, góp phần tạo nên bức tranh văn hoá đa
dạng trong tiểu vùng văn hoá xứ Nghệ.

Ngoài ra, Cửa Lò đang dần trở thành một đô thị du lịch biển, với nhiều
đổi thay về kinh tế, xã hội. Điều đó đã, đang và sẽ có những tác động không
nhỏ đối với đời sống của cư dân vùng này nói chung, đối với ngư dân nói
riêng. Sự phát triển đó đã và sẽ có những tác động gì tới sinh kế truyền thống
của ngư dân vùng này vốn là khai thác, buôn bán và chế biến, bảo quản hải
sản, nhằm phát huy tính tích cực và hạn chế những tiêu cực trước những tác
động của quá trình đô thị hoá đối với đời sống ngư dân – đây cũng là vấn đề
mà luận văn cố gắng tìm hiểu bước đầu.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nhìn chung, các nghiên cứu về ngư dân ở Việt Nam chưa nhiều, nội
dung chủ yếu được hướng đến là văn hóa dân gian, đặc biệt là tín ngưỡng, lễ
hội. Trong đó, phần nhiều là những công trình mang tính sưu tầm, hệ thống
hóa nguồn tư liệu dân gian, mà chưa có nhiều nghiên cứu sâu mang tính dân
tộc học. Các hình thức khai thác và chế biến, bảo quản hải sản cũng đã được
điểm qua ở một số công trình, tuy nhiên cũng chưa được khảo cứu kỹ lưỡng.
Với “Biển và người Việt cổ” [Trần Quốc Vượng, Cao Xuân Phổ; 1996],
hai tác giả đã dựa trên những cứ liệu của ngành khảo cổ học, những dấu tích
của người Việt cổ ở vùng ven biển trong các thời kỳ văn hóa từ tiền sơ sử,
chứng minh sự gắn bó của con người với biển cả ngay từ thời xa xưa. Tuy
nhiên, trong thuở nguyên sơ ấy, con người chỉ mới tiến tới vùng biển sát bờ
với các hình thức khai thác đơn giản và những sinh vật ven biển là một trong
những nguồn thức ăn quan trọng cho con người thời đó.
“Văn hóa dân gian làng ven biển” [Viện nghiên cứu văn hóa dân gian;
2000] được xuất bản vào năm 2000, là kết quả của đề tài “sưu tầm, nghiên cứu

8
văn hóa dân gian các làng ven biển ở Việt Nam”. Theo các tác giả, cộng đồng
người Việt không có nguồn gốc biển, mà cơ bản họ là cư dân sống ở vùng
trước núi tràn xuống khai thác đồng bằng lầy trũng rồi lấn biển và khai thác

biển. Cùng với quá trình phát triển cư dân và nam tiến, chất biển trong văn hóa
của người Việt ngày càng tăng lên. Trong phần giới thiệu ban đầu, công trình
này cũng giới thiệu về các dụng cụ đánh bắt và hình thức chế biến hải sản. Tuy
nhiên, đó chỉ là những khái lược chung chung ban đầu.
Tác giả Nguyễn Duy Thiệu với công trình “Cộng đồng ngư dân Việt
Nam” [Nguyễn Duy Thiệu; 2002] đã cho chúng ta một cái nhìn khái quát về sự
hình thành, cơ cấu tổ chức xã hội và tổ chức đời sống tín ngưỡng trong cộng
đồng ngư dân ở Việt Nam. Ngoài ra, với những tư liệu điền dã, tác giả đã tái
dựng nên thiết chế xã hội truyền thống của một số cộng đồng ngư dân ở vùng
Trung và Nam bộ. Tác giả cũng giới thiệu một số hình thức khai thác hải sản
của ngư dân ven cửa sông, cửa biển, nhưng, đây chỉ là một nội dung nhỏ được
tác giả đề cập tới trong cộng đồng ngư dân ở Cửa Sót (Hà Tĩnh). Tuy nhiên,
đây là một công trình mang tính khái quát, chủ yếu có đi sâu hơn vào những
địa bàn phía Bắc, vùng Nam trung bộ cũng có được đề cập qua, còn vùng Nam
bộ chưa được viết tới.
“Văn hóa tàu thuyền trong đời sống cư dân ở Việt Nam” [Đỗ Thị Thanh
Thủy; 2005] là đề tài cấp Viện năm 2005 của Viện Văn hóa – Thông tin. Dựa
trên những tài liệu lịch sử, những tư liệu khảo sát điền dã, báo cáo cho ta cái
nhìn tổng quát và khá chi tiết về các loại tàu thuyền của cư dân khai thác thủy
hải sải cũng như sự gắn bó giữa nước – tàu thuyền – phong tục, tập quán trong
văn hóa của cộng đồng dân cư. Trong tài liệu này, các phương tiện khai thác
hải sản, các hoạt động liên quan tới buôn bán hải sản cũng được tác giả đề cập
tới với cái nhìn chung chung, mang tính chất điểm qua mà không phải là nội
dung chính của đề tài.
Ngoài ra, còn nhiều bài viết trên các báo, tạp chí và một số nghiên cứu
về ngư dân trên các vùng miền trong cả nước, mang lại phông hiểu biết chung
về văn hóa biển trong đời sống cư dân. Trong đó, hầu hết các tác giả đều thống
nhất với quan điểm, cư dân gốc Việt lấy nông nghiệp làm kinh tế chủ đạo,
không có truyền thống khai thác nguồn lợi biển; càng lùi vào phía nam, tính
biển trong đời sống văn hóa dân cư càng được thể hiện đậm nét. Điều đó được

thể hiện rõ trong đời sống tín ngưỡng tâm linh, trong các cách thức khai thác
và sử dụng nguồn lợi tự nhiên. Đã có nhiều học giả nghiên cứu về các loại
hình tín ngưỡng, lễ hội của ngư dân. Tuy nhiên, về sự thích ứng với môi

9
trường ven biển thông qua các hình thức đánh bắt và tổ chức lao động cũng
như các hoạt động kinh tế kèm theo nó chưa được chú ý khai thác. Đây cũng là
một mảng đề tài thú vị để hiểu rõ hơn khả năng thích ứng với môi trường của
ngư dân và thấy được tính “biển” đạt tới mức độ nào trong đời sống của cộng
đồng đó.
Trên thế giới, có một lĩnh vực nghiên cứu được gọi là “nhân học về
nghề cá” (anthropology of fishing) nằm trong ngành “nhân học biển”
(maritime anthropology). Tiến sĩ James M. Acheson
2
đã có một bài tổng kết về
các công trình nghiên cứu liên quan tới lĩnh vực này, được trình bày dưới tiêu
đề “Anthropology of fishing”. Qua tổng lược từ 250 công trình nghiên cứu, tác
giả đã đưa ra cái nhìn tổng quan về các vấn đề mà nhân học về nghề cá quan
tâm. Đóng góp to lớn của các công trình đó là đã tìm hiểu những cách thức mà
con người thích ứng trước một môi trường đầy rủi ro để tồn tại. Để giảm thiểu
rủi ro, con người đã tạo ra các ngư cụ lao động phù hợp và tổ chức lao động
nhau theo nhiều cách thức, từ đó nảy sinh thêm nhiều vấn đề nghiên cứu như:
mối quan hệ họ hàng giữa thuyền viên, mối quan hệ giữa những người đánh
bắt và những người trung gian môi giới, hệ thống phân chia sản phẩm đánh bắt
được, Sự tổng kết của học giả nước ngoài mang lại cái nhìn về nghề cá dưới
những góc độ khác nhau, gợi ra những hướng nghiên cứu cần tiếp tục quan
tâm và tìm hiểu.
Lịch sử nghiên cứu vùng biển Cửa Lò
Trong những cuốn địa chí, vùng đất này được biết đến như một phần
của huyện Chân Lộc (sau đổi là Nghi Lộc) [Quốc sử quán triều Nguyễn, 1992,

tr121-122]. Các địa danh như núi Lò, đảo Song Ngư cũng được nhắc đến trong
phần núi, sông của vùng “núi Lò ở cách huyện Chân Lộc 11 dặm về phía đông
bắc, trên núi có chùa Phổ Am”[Quốc sử quán triều Nguyễn, 1992, tr159], “ở
cách huyện Chân Lộc 25 dặm về phía đông, ngoài cửa Hội nổi vọt lên 2 ngọn
núi đứng sững đối nhau, trông như hình hai con cá bơi lội giữa sóng nước, cho
nên gọi là Song Ngư”[Quốc sử quán triều Nguyễn, 1992, tr165].
Vùng đất này đã trở thành một trong những khu căn cứ quân sự trọng
yếu vùng cửa biển khi vào thế kỷ XV. Năm 1460, Nguyễn Sư Hồi được vua Lê
Thánh Tông cử giữ chức Thái uý Nhập nội quận công, đem thuỷ quân về Cửa
Lò xây dựng căn cứ hải quân. Sau đó, Nguyễn Sư Hồi được phong làm Trấn

2
Tiến sĩ tại đại học Rochester năm 1970, hiện là giảng viên khoa Nhân học, trường Đại học Maine,
Orono, Maine, Mỹ. Bài viết của ông được đăng trên tạp chí Annual Review of Anthropology
Vol. 10: 275-316 (Volume publication date October 1981) – Tà i liệ u củ a tác giả .

10
thủ Nghệ An, quản lý 12 cửa lạch từ Sầm Sơn (Thanh Hoá) đến Cửa Tùng
(Quảng Trị). Và ông đã có công chiêu dân, lập ấp hình thành nên làng Vạn Lộc
(Nghi Tân) – hiện tại vẫn có đền thờ ông ở làng Vạn Lộc – nơi diễn ra lễ hội
cầu ngư, cầu yên của dân làng hàng năm. Sau đó, vua Lê Thánh Tông đã cho
lập tân nhất xã với tên là xã Hải Ngung, còn gọi là Hải Giang. Hải Giang chính
là dòng sông Cấm. Sông Cấm chảy ra biển tạo thành Cửa Xá, còn gọi là Lô
tấn, Xá tấn, thuộc tổng Thượng xá, huyện Chân Lộc sau đổi gọi là huyện Nghi
Lộc và hiện nay thì thuộc thị xã Cửa Lò. Vào các giai đoạn sau, dân cư từ các
nơi khác cũng kéo đến đây sinh sống, bám biển làm ăn như dân từ vùng Cửa
Sót (Hà Tĩnh), Hưng Nguyên (Nghệ An),
Các công trình nghiên cứu về văn hóa biển Cửa Lò nói chung, về cách
thức khai thác và chế biến hải sản của ngư dân ở đây nói riêng hầu như chưa
có, mà chủ yếu là các bài viết ngắn của các tác giả nằm rải rác trong những tạp

chí chuyên ngành giới thiệu một vài nét văn hóa của dân cư ven biển Cửa Lò.
Với yêu cầu của phát triển du lịch, phòng văn hóa và thông tin Cửa Lò từng
cho xuất bản cuốn “Du lịch Cửa Lò” vào năm 2007. Chính vì đáp ứng nhu cầu
tìm hiểu thông tin du lịch, cuốn sách nhỏ này chỉ mang tính giới thiệu một số
nét văn hóa tiêu biểu như về truyền thống hiếu học, về lễ hội, ; về các địa
danh du lịch và một số đặc sản của vùng biển này trong đó có nước mắm Cửa
Lò, nước mắm Cửa Hội.
Một hội thảo đáng được chú ý đã được tổ chức tại Cửa Lò năm 2006 có
chủ đề “Sự hình thành và mục tiêu, giải pháp phát triển bền vững du lịch Cửa
Lò” với hai nội dung lớn là lịch sử và định hướng, giải pháp phát triển bền
vững du lịch Cửa Lò. Trong phần lịch sử, các đại biểu tham gia hội thảo tập
trung trình bày về thời điểm hình thành bãi tắm du lịch Cửa Lò dựa trên những
tài liệu lưu trữ của người Pháp. Và cuối cùng đã đi đến thống nhất, lấy ngày 05
– 06 – 1907 làm ngày ra đời của du lịch biển Cửa Lò – đây là ngày Toàn
quyền Đông Dương ký văn bản cho phép sử dụng đất Cửa Lò với mục đích
xây dựng nhà nghỉ, trồng rừng phi lao ven biển, Và cũng vào năm này, đã có
một khu biệt thự được bắt đầu xây dựng. Trong phần hai, các đại biểu tập
trung vào bàn bạc các giải pháp cho sự phát triển bền vững du lịch Cửa Lò
dưới góc độ văn hóa và môi trường tự nhiên.
Hai cuốn “Lịch sử đảng bộ thị xã Cửa Lò” [Đảng bộ Thị xã Cửa Lò,
2004] và “Lịch sử đảng bộ phường Nghi Thủy” [Đảng ủy phường Nghi Thủy,
2006] mang lại cái nhìn khái quát về điều kiện tự nhiên, dân cư và đặc biệt là
về tiến trình lịch sử của vùng đất này gắn với lịch sử đảng bộ của thị xã và của

11
phường. Trong hai tài liệu đó, khai thác và chế biến hải sản được xem như hai
bộ phận nhỏ thuộc ngành kinh tế ngư nghiệp, cũng được điểm qua về thành
tựu cùng với sự phát triển kinh tế chung của cả thị xã, đặc biệt là từ thời kỳ
hợp tác hóa đầu năm 1960 cho tới hiện nay. Đây là tài liệu hữu ích để thu thập
những số liệu thống kê và phần nào cho thấy sự biến chuyển của nghề nằm

trong chính sách phát triển kinh tế chung của thị xã.
Ngoài ra, là những bài viết về một số nét văn hóa biển Cửa Lò được
đăng rải rác trong các tạp chí chuyên ngành, như “Vài nét văn hóa sông biển
Cửa Lò” của tác giả Đào Tam Tỉnh, “Về địa danh Cửa Lò” của Trần Trí Dõi,
Niên giám thống kê hàng năm của Phòng Thống kê, thị xã Cửa Lò và
các báo cáo tình hình kinh tế - xã hội hàng năm của Thị xã, của phường cũng
mang lại những thông tin bổ ích, đặc biệt là số liệu thống kê về tàu thuyền, các
ngành nghề, lực lượng lao động,
Về cơ bản, những tư liệu và nghiên cứu về vùng Cửa Lò mang lại cái
nhìn tổng quát về lịch sử, tình hình đời sống, kinh tế, xã hội và văn hóa của
dân cư. Đồng thời cũng cho thấy những đổi thay của thị xã du lịch biển, kể từ
ngày có chính sách đẩy mạnh phát triển du lịch. Tuy nhiên, chưa có một công
trình nghiên cứu sâu nào về ngư dân vùng ven biển Cửa Lò, nghiên cứu về các
hình thức khai thác, chế biến và bảo quản hải sản và đặc biệt là sự tác động của
bối cảnh phát triển kinh tế lên những nghề nghiệp đó của ngư dân.

3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Phạm vi
Cửa Lò là nơi sông Cấm (dân gian còn gọi là Lạch Lò) đổ ra biển, cùng
với Cửa Hội là nơi sông Lam ở phía nam đổ ra biển, phù sa của hai con sông
này bồi đắp qua năm tháng tạo nên vùng đất thị xã Cửa Lò ngày nay – được
người nhiều nơi biết tới với tư cách là một địa chỉ nghỉ mát mùa hè, đồng thời
cũng là một vùng đất in đậm những nét riêng của một tiểu vùng văn hóa nằm trong
vùng văn hóa chung “xứ Nghệ”.
Về địa danh “Cửa Lò”, trước đây mới chỉ là tên riêng của một con sông
đổ ra biển như bao cửa sông khác ở nước ta. Cửa sông này là nơi sông Cấm đổ
ra biển Đông với dãy núi xã Nghi Thiết nhấp nhô bên tả ngạn và xã Nghi Thủy
ngày nay bên hữu ngạn. Từ tháng 4 – 1986, Cửa Lò trở thành tên một thị trấn
cảng và du lịch thuộc huyện Nghi Lộc gồm diện tích và dân số hai xã Nghi
Tân, Nghi Thủy và một phần đất của hai xã Nghi Thu, Nghi Hợp. Sau đó, từ

tháng 8 – 1994, địa danh Cửa Lò trở thành tên riêng của thị xã trên cơ sở thị

12
trấn Cửa Lò trước, cộng thêm đất đai của một số xã khác của huyện Nghi Lộc.
Như vậy, từ tên riêng để chỉ một một cửa sông đổ ra biển, Cửa Lò đã trở thành
tên riêng để chỉ một đơn vị hành chính, thuộc tỉnh Nghệ An.
Theo cách giải thích của người dân địa phương hiện nay, “Cửa Lò” là do
cách nói chệch đi và gọn lại của tên gọi “Cửa Lùa” trước đây. Cửa biển này có
một bên là dãy núi xã Nghi Thiết (ở phía bắc) và một bên là núi Lô thuộc hai
xã Nghi Tân và Nghi Thủy (phía nam), nên khi gió từ ngoài biển thổi vào cũng
như gió từ hướng tây trong đất liền thổi ra tạo thành nơi đây như một cửa gió
lùa. Từ cửa gió lùa, người ta nói gọn thành cửa lùa rồi thành Cửa Lò như ngày
nay. Theo dân gian, cũng có một ý nghĩa nữa là do trước đây dân vùng này có
nghề đốt lò nấu muối, nên gọi cửa biển là Cửa Lò. Nhưng theo nghiên cứu của
các nhà khoa học, tên gọi này có nguồn gốc của ngư dân nói ngôn ngữ
Malayô- Pôlynêdiêng, có nghĩa là “cửa sông”. Trong ngôn ngữ của các cư dân
này, có từ Kuala để gọi tên nơi một con sông đổ ra biển hay nơi một con sông
nhỏ chảy ra một con sông lớn. Dần dần, danh từ Kuala chuyển thành danh từ
riêng Kuala/Kualo và cuối cùng là địa danh hóa thành Cửa Lò [Trần Trí Dõi,
2000; Nguyễn Duy Thiệu, 2004].
Trong luận văn này, Cửa Lò được sử dụng theo đúng với tên gọi hành
chính của thị xã biển này. Không gian nghiên cứu chính của luận văn là tiểu
vùng văn hóa Cửa Lò với những nét văn hóa của cư dân vùng biển, đặt trong
bối cảnh văn hóa chung của xứ Nghệ. Tuy nhiên, do điều kiện khách quan và
chủ quan, luận văn chỉ lấy điểm nghiên cứu là phường Nghi Thủy – dân hai
làng Mai Bảng, Yên Lương quanh năm gắn bó với nghề, qua bao thay đổi của
thời cuộc, hầu hết ngư dân nơi đây vẫn chỉ bám biển để sinh sống và hiện tại
còn lưu giữ được nhiều nét khai thác và chế biến thủ công truyền thống.
Không như các phường khác như Nghi Tân, Nghi Hải, đã từng có thời nhiều
ngư dân bỏ nghề chuyển sang làm nghề khác như bán hàng điện tử, đi xuất

khẩu lao động, đi thuyền viễn dương và hiện tại nhiều ngư dân đã quay trở về
với nghề nhưng đã mang nhiều sắc thái mới với sự trợ giúp của công nghệ.
Những nét chung và khác biệt liên quan tới cách thức đánh bắt và chế biến hải
sản của ngư dân cũng như sự thay đổi qua thời gian của các nghề đó ở những
địa phương này cũng sẽ được lý giải trong luận văn. Như vậy, không gian
trọng tâm để thực hiện đề tài là phường Nghi Thủy, bên cạnh đó, có sự so sánh
với các phường Nghi Tân và Nghi Hải, và trên tổng thể là đặt trong bối cảnh chung
của thị xã Cửa Lò.
Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, việc phân chia theo tên gọi địa lý hành

13
chính như trên chỉ mang tính chất tương đối để có thể dễ dàng hình dung về
địa bàn nghiên cứu, bởi vì nội dung của đề tài là tập trung tìm hiểu những tri
thức của ngư dân và cách thức họ vận dụng, phát triển tri thức đó vào thực tiễn
như thế nào, và những tri thức thì không bị hạn chế bởi giới hạn hành chính, và
là tài sản chung của một cộng đồng có cùng môi trường sinh sống.

3.2. Đối tƣợng
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tính “biển” trong đời sống của
cộng đồng ngư dân ven biển Cửa Lò, thể hiện qua khả năng thích ứng trước
điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái biển cả thông qua các hình thức
khai thác và chế biến hải sản. Với thời gian, các hình thức này chịu những tác
động gì và có biến đổi như thế nào? Khai thác và chế biến hải sản gắn với sự
phân công lao động theo giới trong cộng đồng ngư dân, tương ứng là lao động
nam và nữ. Mối quan hệ giữa hai loại hình công việc đó sẽ dẫn tới mối quan hệ
tương ứng giữa nam và nữ trong gia đình và trong cộng đồng ngư dân.
Dựa trên tổng thể đó, luận văn đi vào tìm hiểu hai nội dung chính là các
hình thức khai thác và chế biến hải sản.
Về nội dung hình thức khai thác, luận văn đi sâu tìm hiểu ngư dân đã sử
dụng cách thức đánh bắt phù hợp với đối tượng nào và tạo ra mối liên kết gì để

tăng hiệu quả lao động và giảm thiểu rủi ro trong môi trường biển. Và qua
nhiều đời gắn bó với nghề đánh bắt trên biển, ngư dân đã rút ra được những tri
thức về môi trường tự nhiên và nguồn lợi hải sản.
Tương tự, nội dung chế biến hải sản cũng sẽ được tìm hiểu dưới các góc
độ như: cách thức chế biến và những đổi thay của nghề qua thời gian, tổ chức
phân công lao động và vai trò của lao động nữ trong nghề chế biến. Luận văn
cũng đưa ra một vài so sánh nhỏ trong cách thức chế biến nước mắm của ngư
dân nơi đây với cách thức của ngư dân vùng khác, cụ thể là ở Phan Thiết (Bình
Thuận) để thấy được sự khác biệt trong điều kiện tự nhiên, văn hóa của các
vùng miền.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp phương pháp lịch sử và các phương pháp của
dân tộc học để vừa thấy được tiến trình phát triển của đối tượng nghiên cứu,
vừa có cái nhìn so sánh trong hiện tại.
Phương pháp nghiên cứu định lượng: xây dựng bộ câu hỏi mở theo cấu
trúc nội dung nhằm xây dựng hệ thống tư liệu về quy trình và cách thức tiến

14
hành các phương thức khai thác cũng như chế biến hải sản. Bên cạnh đó, còn
có bảng thông tin kinh tế xã hội của phường, thị xã để thu thập các số liệu
thống kê về thực trạng khai thác và chế biến hải sản của cộng đồng ngư dân
trên địa bàn nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu định tính: các thông tin định tính được thu
thập thông qua các hình thức khai thác thông tin:
- Các chủ đề phỏng vấn nhóm đối tượng: nhằm tìm hiểu thông tin ở mức
độ sâu, vừa có cái nhìn tổng quát vừa có cái nhìn cụ thể, chi tiết. Phỏng vấn
sâu những người giữ vai trò quan trọng trong quản lý nghề, đặc biệt từ thời kỳ
hợp tác xã cho tới hiện tại (cán bộ phụ trách hội ngư dân) kết hợp với phương
pháp hồi cố để thấy được tiến trình phát triển, sự thay đổi cũng như thực trạng

và định hướng phát triển của nghề. Bên cạnh đó là phỏng vấn các nhóm đối
tượng chuyên làm các nghề khác nhau để hiểu rõ hơn những khó khăn thuận
lợi của nghề mà họ tham gia.
- Phương pháp quan sát: quan sát cách thức và quy trình tiến hành các
phương thức khai thác và chế biến, quan sát các loại hình công việc gắn với
các nhóm đối tượng trong cộng đồng.
- Ảnh chụp: hỗ trợ việc mô tả những hoạt động diễn ra trong cộng đồng.

5. Một số khái niệm nhƣ là công cụ nghiên cứu
Điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái được coi là tác nhân cực kỳ
quan trọng đến sáng tạo văn hoá của con người. Sự tác động qua lại giữa tự
nhiên và con người là nhân tố chính tạo nên đặc trưng văn hoá.
Con người trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên: để thích nghi tồn
tại, con người vừa tận dụng, vừa tìm cách ứng phó với điều kiện tự nhiên nhằm
bảo đảm cho cái “lẽ sinh tồn” của mình. Cách thức ứng xử trong những môi
trường tự nhiên khác nhau tạo nên những đặc trưng của cộng đồng người sinh
sống trong môi trường đó.
Một trong những đặc trưng của cộng đồng ngư dân là chỉ khai thác tự
nhiên, nhưng không làm ra tự nhiên, họ không có kiến thức về tái sản xuất
nguồn tài nguyên, khác với những người làm nông nghiệp và chăn nuôi gia súc
có thể tái sản xuất lại nguồn tài nguyên thiên nhiên của mình. Những người
sống trên đất liền thì có nhiều cách để cải tạo môi trường như việc tưới nước,
làm vườn, bón phân, còn người đi biển thì không thể thay đổi địa hình và
không thể kiểm soát được biển cả, họ chỉ có thể căn cứ vào điều kiện môi
trường đó để tạo ra những công cụ phù hợp khai thác tự nhiên, nhằm mục đích

15
cho công cuộc mưu sinh.
Cư dân biển có thể đánh bắt cá liên tục trong năm với nhiều loại cá khác
nhau, trừ thời gian biển động, sóng to gió bão. Điều này cũng khác với nông

nghiệp vì làm nông nghiệp thì chỉ thu hoạch vào thời gian nhất định trong
năm. Cũng chính vì thế, việc bảo quản hải sản sau khi đánh bắt được là một
vấn đề quan trọng trong đời sống ngư dân, vì những thứ họ đánh bắt được đều
tươi sống, và cũng không thể sử dụng hết ngay một lúc, muốn giữ được lâu dài
để làm thức ăn dự trữ hoặc để bán phải biết cách bảo quản, chế biến thích hợp.
Lâu dần, việc chế biến, bảo quản trở thành bí quyết, tạo thành một nghề trong
cộng đồng ngư dân để giúp họ ổn định thu nhập cho đời sống gia đình, cân
bằng lại tính thất thường trong nghề khai thác. Khai thác và chế biến, bảo quản
hải sản là những vấn đề quan trọng trong đời sống của cộng đồng ngư dân, đó
là hai sinh kế thích ứng trước môi trường tự nhiên biển cả.
Thủy sản là những sản vật sinh sống ở dưới nước nói chung, còn hải sản
là chỉ những sản vật sinh sống ở biển, đại dương.
Khai thác hải sản là hoạt động thu lấy những sản vật sinh sống ở biển,
đại dương. Do đặc điểm sinh học của đối tượng khai thác đó là vô cùng phong
phú và đa dạng, nên con người cũng đã tạo ra những dụng cụ đánh bắt thích
hợp từ đó tạo ra những hình thức khai thác khác nhau.
Chế biến hải sản là cách thức xử lí nguyên liệu từ khai thác hải sản
thành các mặt hàng thực phẩm hay sản phẩm khác (thức ăn chăn nuôi, dược
phẩm, mĩ phẩm) dưới các dạng đông lạnh, làm khô, hun khói, ướp muối và đồ
hộp để phục vụ cho nhu cầu của con người.
Và gắn với môi trường lao động trên biển và tiến hành các sinh kế trên,
không thể không nói tới chủ thể của nó, đó là những ngư dân.
Căn cứ vào tập quán cư trú, nguồn lợi mà các nhóm hướng vào để khai
thác, kỹ thuật và công cụ để đánh bắt thủy hải sản, quan hệ xã hội, đời sống
tôn giáo và tín ngưỡng, của mỗi nhóm để có thể phân loại cộng đồng ngư
dân thành các nhóm khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, ngư
dân được hiểu theo nghĩa là những người lấy hoạt động ngư nghiệp làm nguồn
sống duy nhất hoặc chủ yếu cho gia đình mình. Họ chuyên hoạt động khai thác
thủy sản bằng các phương tiện tàu thuyền, nhưng cư trú trên đất liền ven biển,
hình thành nên những làng chài ven biển. Đối tượng mà luận văn nghiên cứu là

cộng đồng ngư dân bãi ngang ven biển Cửa Lò (cụ thể là tại địa bàn phường
Nghi Thủy)
Ngư dân bãi ngang là những ngư dân sống trên bờ biển dọc theo ven

16
biển và không ở vùng cửa sông. Mẫu số chung của ngư dân vùng bãi ngang là
họ không có nơi để giấu thuyền khi có bão hoặc mùa biển động, cho nên bộ
phận này chỉ đóng thuyền bé để khai thác hải sản trong vùng biển lộng.
Ngư dân bãi dọc là bộ phận ngư dân sống ở cửa biển. Mẫu số chung của
các nhóm ngư dân được xếp là ngư dân bãi dọc là họ có cửa sông để đưa
thuyền vào sâu trong đất liền, giấu thuyền tránh bão và khi biển động.
Ngư cụ là toàn bộ những dụng cụ mà ngư dân sử dụng để lao động trong
môi trường biển. Tuy nhiên, luận văn chỉ giới hạn tìm hiểu về các dụng cụ và
cách thức sử dụng chúng để đánh bắt hải sản, chứ không đi vào tìm hiểu các
phương tiện đi lại để lao động trong môi trường này như thuyền – nôốc, mủng,
bè,

6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, và kết luận, luận văn được chia làm ba chương
chính:
Chương I: Cửa Lò – thiên nhiên và con người (13 – 32 21 trang)
Chương II: Các hình thức khai thác nguồn lợi hải sản của cộng đồng
ngư dân ven biển Cửa Lò (33 - 40 trang)
Chương III: Các hình thức chế biến hải sản của cộng đồng ngư dân ven
biển Cửa Lò (33 trang)
Ngoài ra, luận văn còn có phần phụ lục gồm một số thuật ngữ liên quan
tới nghề khai thác và chế biến hải sản, về tình hình khai thác và hiện trạng khai
thác nguồn lợi hải sản ở Việt Nam, đề án phát triển thủy sản của thị xã Cửa Lò
và ảnh chụp hoạt động của ngư dân.














17
CHƢƠNG I. CỬA LÕ – THIÊN NHIÊN VÀ CON NGƢỜI

Vùng biển Cửa Lò là vùng biển ăn sâu vào đất liền, là eo lõm sâu trên
bản đồ đất nước cong cong hình chữ S, đây cũng là vùng chuyển tiếp giữa biển
Bắc Bộ và biển Trung Bộ, vùng đất được thiên nhiên ban cho nhiều ưu đãi
nhưng cũng không kém phần khắc nghiệt. Gắn bó với mảnh đất này là những
con người có gốc gác từ những nơi khác nhau với truyền thống hàng trăm năm
gây dựng xóm làng, đã tạo nên những nét văn hóa của cộng đồng ngư dân ven
biển.

1. Về điều kiện tự nhiên và nguồn lợi biển
1.1. Điều kiện địa hình, khí hậu
Thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An là vùng đất ven biển, nằm ở toạ độ từ
18
0
45’ đến 18
0

50’ vĩ độ bắc và từ 105
0
42’ đến 105
0
45’ độ kinh đông, cách
thành phố Vinh 20km về phía đông bắc, phía bắc và phía tây giáp huyện Nghi
Lộc, phía nam giáp huyện Nghi Xuân (tỉnh Hà Tĩnh) và phía đông giáp biển
Đông.
Thị xã được chắn bởi hai con sông ở hai đầu bắc nam đổ ra hai cửa biển
lớn. Sông Cấm ở phía bắc đổ ra Cửa Lò; sông Lam ở phía nam đổ ra Cửa Hội.
Hai cửa biển này đều có vị trí chiến lược quan trọng cả về quân sự và kinh tế
của quốc gia.
Thị xã Cửa Lò có bờ biển dài 10,2km, bãi biển rộng, cát trắng mịn, bằng
phẳng, lộng gió; nước biển có độ mặn vừa phải, trung bình 3,4-3,5%. Quanh
Cửa Lò có nhiều núi đá nhỏ, mỗi hòn núi có dáng vẻ riêng, gắn với những
truyền thuyết và chiến công hiển hách đã đi vào lịch sử dân tộc. Từ lâu, nhân
dân địa phương đã đặt tên cho các hòn núi đó theo hình dáng của chúng như:
núi Voi, núi Rồng, núi Gươm, núi Trống, núi Mão, núi Cờ, đảo Lan Châu
Cách bờ biển Cửa Lò khoảng 4km có đảo Ngư với độ cao 125m, ở vùng nước
sâu 12m, là chỗ dựa cho tàu viễn dương trước khi vào cảng Cửa Lò. Cách Cửa
Hội khoảng 30km có đảo Mắt (Quỳnh Nhai) nằm gần kinh tuyến đông 106
0

với độ cao 218m, dài 1,5km, biển sâu 24m, có nguồn nước ngọt, là chỗ dựa
cho ngư dân khi gặp sóng to gió lớn. Các hòn đảo này có vị trí chiến lược về
quốc phòng an ninh và cũng là điểm du lịch rất hấp dẫn.
Địa hình Cửa Lò có nhiều cồn cát cao, rộng, cách nhau khoảng 500m và
song song với bờ biển (do đất bồi biển lùi); xen giữa các cồn cát là lòng chảo
đầm bàu.


18
Khí hậu Cửa Lò nằm trong vùng tiểu khí hậu Bắc Trung Bộ. Mùa hè từ
tháng 4 đến tháng 8 có gió tây nam nóng nực; mùa thu từ tháng 9 đến tháng 11
thường mưa nhiều kéo theo lụt bão; mùa đông và đầu mùa xuân có gió mùa
đông bắc rét buốt kéo dài từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Tuy nhiên, khí hậu
nơi đây ấm hơn các huyện phía tây về mùa đông và mát mẻ trong lành hơn về
mùa hè, do vị trí nằm sát biển.
Thị xã Cửa Lò có diện tích tự nhiên 2812,18ha. Trừ diện tích sông suối
260,33ha, quỹ đất còn lại là 2551,85ha. Thổ nhưỡng gồm hai loại đất chính:
Đất phù sa gồm: cồn cát, đụn cát; đất cát biển; đất phù sa không được bồi,
chua, không glây hoặc glây yếu; đất phù sa cũ có nhiều sản phẩm pheralit. Đất
mặn gồm: đất lầy hoang; đất mặn nhiều; đất mặn trung bình; đất mặn ít; đất
chua mặn và mặn chua.
Nghi Thủy nằm sát với cảng Cửa Lò, ở khoảng tọa độ từ 18
0
49’10’’ đến
18
0
50’00’’ vĩ độ bắc và từ 102
0
42’45’’ đến 105
0
43’23’’ độ kinh đông, phía
bắc giáp xã Nghi Thiết, huyện Nghi Lộc, phía nam giáp phường Thu Thủy
(thuộc thị xã Cửa Lò) và xã Nghi Khánh huyện Nghi Lộc, phía đông giáp biển
đông, phía tây giáp lạch Lò và phường Nghi Tân.
Vùng đất Nghi Thủy được bao bọc bởi sông biển cả 3 phía: bắc, đông và
tây. Ở phía bắc, sông Cấm đổ ra cửa lạch Lò rồi ra biển Đông, gần cửa lạch Lò
có một nhánh sông chảy dọc phía tây phường Nghi Thủy, chảy lên xã Nghi
Khánh (Nghi Lộc) – gọi là sông Cửa Lò. Dọc bờ phía đông con sông này có

cầu cảng Cửa Lò. Dọc bờ phía bắc lạch Lò thuộc xã Nghi Thiết (Nghi Lộc) có
dãy núi chạy theo hướng tây – đông, vươn ra biển, điểm cuối gọi là mũi rồng.
Dãy núi này có chỗ thấp trũng tạo thành eo, ngay gần cảng Cửa Lò, biển ăn
lõm và đất liền, tạo nên cảng cá Nghi Thủy, là nơi thuyền đánh bắt đi về neo
đậu và vận chuyển cá lên bờ. Bến cá hình vòng cung, dài khoảng 0,5km. Hiện
tại, bến cảng đã được bê tông hóa, có bậc tam cấp để lên xuống sát mép nước.
Bờ biển thuộc địa phận phường Nghi Thủy dài 1km từ cửa biển Cửa Lò
tới đảo Lan Châu. Nước biển có độ mặn thích hợp, trung bình 3,4 – 3,5%, bãi
biển rộng. Biển rất giàu hải sản với nhiều loại như tôm, mực, cua, ghẹ, ốc
hương, cá thu, cá lưỡng, cá song, cá ngừ,
Nghi Thủy có bến cảng nên tàu các nơi có thể ra vào thuận lợi, từ Nghi
Thủy có thể đi thuyền theo sông Cấm để lên các xã phía tây huyện Nghi Lộc.
Nhờ có nhánh sông phía tây và biển phía đông nên vùng này không bao giờ bị
úng lụt, chỉ thỉnh thoảng, khi thủy triều dâng cao có thể bị ngập trong vòng
nửa giờ.

19
Khí hậu nơi đây cũng như khí hậu của thị xã, nhưng do có ba mặt là
nước bao bọc nên thường mát hơn các vùng khác về mùa hè và ấm hơn về mùa
đông.
Tổng diện tích tự nhiên của phường gồm 192ha. Đất đai các loại có
189ha (trong đó đất ở 20ha, đất đô thị 20ha, đất nông nghiệp 18ha, vườn tạp
18ha, đất chuyên dùng 44ha, đất chưa sử dụng 107ha)3.
Nhìn chung, điều kiện địa hình và khí hậu của nơi đây thuận lợi cho việc
phát triển nền kinh tế dựa vào các nguồn lợi từ biển, đặc biệt là khai thác hải
sản.

1.2. Nguồn lợi biển
Do điều kiện vị trí địa lý và địa hình, yếu tố biển nổi bật lên với tư cách
là một nguồn lợi tự nhiên đặc biệt quan trọng đối với ngư dân ven biển Cửa

Lò. Trước tiên, phải nói đến là nguồn lợi hải sản dồi dào và đa dạng ở vùng
biển Cửa Lò nói riêng, ở vùng biển Nghệ An nói chung.
Theo thống kê của Sở Thủy sản Nghệ An, tài nguyên hải sản nói chung
của tỉnh gồm có trên 267 loài cá thuộc 91 họ, trong đó có 62 loài có giá trị kinh
tế cao, có thể chia thành 2 nhóm sau: nhóm gần bờ có 121 loài chiếm 45,32%
(trong đó cá nổi có 20 loài bằng 7,5%, cá đáy và gần đáy 101 loài, tương ứng
37,82%); xa bờ 146 loài chiếm 54,68% (trong đó cá nổi 39 loài bằng 14,61%,
cá đáy và gần đáy 107 loài bằng 40,07%). Trữ lượng cá biển trên 80.000 tấn,
trong đó cá xa bờ khoảng 50.000 tấn chiếm gần 62%, cho phép khai thác từ
30.000-35.000 tấn, có nhiều loại cá có giá trị kinh tế cao như: cá chim; cá thu;
cá hồng, nục, Có 20 loài tôm thuộc 8 giống và 6 họ trong đó có tôm he, tôm
rảo, tôm bộp, tôm vàng, tôm sắt, tôm đất, tôm sú và tôm hùm; trữ lượng 610 -
680 tấn. Tôm hùm là loại tôm có giá trị xuất khẩu cao, có trữ lượng từ 20-25
tấn, tập trung tại các vùng rạn đá ven các đảo và các vùng có đá ngầm trong
vùng biển. Tài nguyên hải sản ở Nghệ An còn có một số loại hải sản quý khác,
đó là mực. Mực phân bố khắp vùng biển và có nhiều loài, nhưng qua thực tế
khai thác một số loài có sản lượng cao là mực cơm, mực ống và mực nang.
Ngoài ra, còn phải kể đến các loại hải sản khác như: khuyết, ghẹ, cua, ngao,
sò, ốc,
Sự phong phú về hải sản với các hệ nổi, hệ đáy ở gần bờ và xa bờ trong
vùng biển này đã giúp cho ngư dân bám biển sản xuất, tìm kế mưu sinh từ
hàng trăm năm trước. Họ đã biết khai thác nguồn lợi hải sản để phục vụ cho

3 Số liệu theo Niên giám thống kê, Phòng Thống kê, UBND Thị xã Cửa Lò, tháng 9 – 1999, tr23

20
cuộc sống của mình và tạo ra những phương thức khai thác phù hợp với đặc
trưng sinh sống của các loại hải sản để đạt hiệu quả tối ưu.
Đồng thời, cũng không thể không nói tới lợi thế của một vùng biển nên
thơ với nhiều nét đẹp văn hóa, là thuận lợi to lớn để phát triển du lịch.

Những năm đầu thế kỷ XX, cùng với việc phát hiện và xây dựng các
khu nghỉ dưỡng ở khu vực miền núi phía Bắc, đáp ứng nhu cầu của các nhà tư
bản Pháp, thực dân Pháp đã bắt đầu đầu tư xây dựng những nhà nghỉ ở khu
vực ven biển Cửa Lò cho các nhà tư bản Pháp ở thành phố Vinh. Tuy nhiên,
yếu tố biển được khai thác trên góc độ du lịch chỉ thực sự được chú ý và tập
trung đầu tư phát triển là kể từ khi thị xã Cửa Lò chính thức thành lập, tách
khỏi huyện Nghi Lộc vào năm 1995. Từ đó đến nay, du lịch biển là một trong
những thế mạnh phát triển kinh tế thị xã.
Nguồn lợi thứ ba từ biển và vị trí địa lý mang lại đó chính là hệ thống
cửa sông và cảng biển. Thị xã Cửa Lò được giới hạn ở hai phía nam bắc bởi
hai cửa sông Lam và sông Cấm. Đó là những con đường thủy từ biển vào sâu
trong đất liền trong lịch sử. Cảng Hội Thống từ xưa đã là nơi ra vào của nhiều
con thuyền trong nam ngoài bắc. Cho đến khi đất nước hoàn toàn thống nhất,
ngày 05/12/1979 Thủ tướng chính phủ cho phép xây dựng Cảng Cửa Lò (Cảng
quốc tế). Sau 5 năm xây dựng (1979-1984) cảng quốc tế Cửa Lò được hình
thành với kết cấu hạ tầng bao gồm 2 bến dài 320 m, diện tích bãi cảng rộng
36000 m2, 3 kho có diện tích 22.000 m2, độ sâu luồng -5.0 m đảm bảo cho tàu
<10.000 tấn ra vào thuận lợi. Thị xã Cửa Lò là cửa ngõ ra biể n Đông,
không chỉ củ a Nghệ An mà còn củ a vùng kinh tế bắ c miề n Trung qua
hai cả ng biể n Cửa Lò và Cửa Hộ i.
Ngoài ra, vùng biển Cửa Lò còn có đảo Ngư, đảo Lan Châu và đảo Mắt.
Riêng đảo Ngư cách bờ biển 4 Km có diện tích trên 100 ha, mớm nước quanh
đảo có độ sâu 8-12 m, có điều kiện xây dựng thành cảng nước sâu trong tương
lai, rất thuận lợi cho việc giao lưu hàng hoá giữa nước ta và các nước trong
khu vực.
Với những đ iề u kiệ n thuậ n lợi củ a yế u tố biể n như thế , Cửa Lò
có đầy đủ tiề m nă ng để phát triể n kinh tế hà ng hả i, du lị ch, dị ch vụ ,
khai thác và chế biế n hả i sả n…

1.3. Địa lý hành chính

Huyện Nghi Lộc thời xưa có 5 tổng (tổng là cấp trung gian giữa huyện
và xã). Vùng thị xã Cửa Lò hiện nay nằm trong tổng Thượng Xá với các làng

21
Tân Lộc, Vạn Lộc (Nghi Tân), Yên Lương, Mai Bảng, Mai Lĩnh, Yên Trạch
(Nghi Thuỷ), Thu Lũng (Nghi Thu), Văn Trung, Đồng Quan, Kim Ổ, Thiêm
Lộc (Nghi Hương) và một phần tổng Đặng Xá (làng Song Lộc, nay là Nghi
Hải, Nghi Hoà).
Sau Cách mạng tháng Tám – 1945, Chính phủ ra quyết định bãi bỏ cấp
tổng, các đơn vị hành chính là cấp phủ được đổi thành huyện. Từ tháng 2 –
1946, vùng thị xã Cửa Lò ngày nay nằm trong các xã Long Châu, Hiểu Hạp,
Thuận Hợp, Ngư Phong. Từ tháng 4 – 1947, vùng đất này nằm trong hai xã
Hợp Châu, Ngư Hải. Tháng 4 năm 1954, xã Hợp Châu được chia thành 5 xã:
Nghi Tân, Nghi Thu, Nghi Hương, Nghi Khánh, Nghi Thạch. Xã Ngư Hải
được chia thành 4 xã: Nghi Hải, Nghi Hoà, Nghi Phong, Nghi Xuân. Đến
tháng 9 – 1955, xã Nghi Thuỷ được thành lập (gồm hai thôn Yên Lương, Mai
Bảng của xã Nghi Tân được tách ra và hai thôn Yên Trạch, Mai Lĩnh của xã
Nghi Thu được tách ra).
Ngày 4 – 4 – 1986, Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định số 37 HĐBT
thành lập thị trấn Cửa Lò (thị trấn cảng và du lịch), trên cơ sở diện tích, dân số
của hai xã Nghi Tân và Nghi Thuỷ cùng 82ha diện tích tự nhiên của xã Nghi
Thu và 15ha diện tích tự nhiên của xã Nghi Hợp.
Ngày 29 – 8 – 1994, Chính phủ ra Nghị định số 113 – CP thành lậo thị
xã Cửa Lò trên cơ sở thị trấn Cửa Lò và các xã Nghi Thu, Nghi Hương, Nghi
Hoà, Nghi Hải; 50ha diện tích tự nhiên, 1.991 nhân khẩu của xã Nghi Quang
huyện Nghi Lộc.
Thời Pháp thuộc, vùng đất Nghi Thủy hiện nay là các làng Yên Lương,
Mai Bảng thuộc tổng Thượng Xá, huyện Nghi Lộc. Từ tháng 2 – 1946, làng
Mai Bảng nằm trong xã Long Châu, làng Yên Lương nằm trong xã Hiểu Hạp.
Đến tháng 4 – 1947, cả hai làng thuộc xã Hợp Châu. Tháng 4 – 1954, xã Hợp

Châu được chia thành 5 xã là Nghi Tân, Nghi Hương, Nghi Thu, Nghi Khánh
và Nghi Thạch. Đến tháng 9 – 1955, xã Nghi Thủy được thành lập (bao gồm
làng Yên Lương, Mai Bảng của xã Nghi Tân được tách ra và 2 làng Yên
Trạch, Mai Lĩnh của xã Nghi Thu được tách ra). Đến tháng 4 – 1986, xã Nghi
Thủy cùng với xã Nghi Tân, một phần xã Nghi Thu và Nghi Hợp trở thành Thị
trấn Cửa Lò, đến tháng 8 – 1994, thuộc thị xã Cửa Lò.

2. Dân cƣ
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Theo ý kiến của các nhà khảo cổ học và lịch sử, vùng đất Cửa Lò hiện

22
tại được tạo nên bởi hiện tượng biển lùi nên đây không phải là vùng đất cổ từ
thời khai thiên lập địa. Các làng xóm trên vùng cát bồi đều được xây dựng
song song với nhau trên các giồng cát chạy dài trên bờ biển, các cồn cát này
đều được phân cách nhau bởi các vùng ao trũng kéo dài, có một dòng nước rất
trong chảy vào, và chỉ tại các nơi này mới có ruộng đồng chuyên trồng các loại
cây trên cạn. Căn cứ vào các hoá thạch tìm được tại các đồi cát này, có thể
khẳng định rằng mỗi giồng cát đánh dấu một giai đoạn quá trình biển lùi, quá
trình này bắt đầu từ cuối Đệ tứ kỷ. Sự cổ kính, tính xa xưa của các làng trong
vùng cứ bớt dần độ cao khi đi từ quốc lộ 1 ngày nay ra phía bờ biển. Còn sự
bồi đắp vào thời kỳ sau này (từ thời kỳ cận đại) thì có thể căn cứ vào gia phả
các dòng họ lớn trong vùng như họ Nguyễn ở Thượng Xá (Cửa Lò) hay họ
Nguyễn ở Tiên Điền (Nghi Xuân – Hà Tĩnh) để biết được rằng vào hồi thế kỷ
XIV, bờ biển còn ở lùi sâu vào phía trong, cách bờ biển hiện nay 2km về phía
tây - một hiện tượng biển lùi, kết quả của quá trình bồi đắp phù sa của các con
sông Lam, sông Cấm.
Theo ý kiến của một học giả người Pháp là Le Breton
4
, tại khu vực Bắc

Trung kỳ, sau những lớp người của thời tiền sử, có lẽ những cư dân đầu tiên
trên đất này thuộc dòng giống người Chăm. “Những người tù binh Champa, từ
thế kỷ XI đến đầu thế kỷ VV, và những tù binh Trung Quốc, đầu thế kỷ XV đã
được đưa đến lập nghiệp ở vùng An – Tĩnh. Song những làng mới mà họ lập
ra, đều đã được xây dựng trên những mảnh đất bồi của biển mới nổi lên hay
trên những đất phù sa do sông Lam mới bồi đắp. Thành ra, lịch sử của những
cư dân ấy đều gắn liền với lịch sử của sự hình thành địa chất mới đây của một
vài miền trong xứ An – Tĩnh” [Le Breton, 2005, tr12].

4
Le Breton là một nhà giáo nhiều năm dạy ở trường Quốc học Vinh hồi đầu thế kỷ XX, có tình cảm
gắn bó với vùng đất An – Tĩnh, ông đã biên soạn cuốn địa chí của vùng này với tên gọi Le vieux An
– Tĩnh, đã được nhà xuất bản Nghệ An và Trung tâm văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây dịch ra tiếng Việt
với tiêu đề An – Tĩnh cổ lục. Cuốn địa chí ra đời trên cơ sở tìm hiểu kỹ lưỡng của tác giả dựa trên sự
kết hợp các tri thức của nhiều bộ môn khoa học như khảo cổ học, địa chất học, lịch sử và đặc biệt là
văn hóa dân gian của chính vùng đất này. Cuốn sách mang lại nhiều thông tin bổ ích về sự hình
thành địa chất và lịch sử của một số vùng trong xứ An Tĩnh. Một điểm đáng lưu ý là ông đã đặc biệt
chú trọng đến các gia phả, rồi các sự tích, các di chỉ, các tác phẩm của dòng họ, vùng miền để dựng
lên một diện mạo sinh động của xứ Nghệ. Cũng trong công trình này, ông có nhắc tới một tập san có
nhan đề “Sự hình thành của những đồng bằng duyên hải An – Tĩnh” sẽ được trình bày trước “Hội
đồng nghiên cứu khoa học Đông Dương”, lấy tên là “Khái luận về việc nghiên cứu những bờ biển
thuộc thời kỳ thứ tư ở xứ Nghệ và ba xứ Quảng miền bắc Đông Dương” – Đây chắc chắn sẽ là một
tài liệu vô cùng bổ ích và thú vị để tìm hiểu rõ hơn về lịch sử vùng đất ven biển Cửa Lò nói riêng,
vùng đất ven biển xứ Nghệ nói chung. Tuy nhiên, do nhiều lý do, tác giả luận văn chưa thể tìm hiểu
rõ hơn về sự tồn tại và nội dung của cuốn tập san này. Chắc chắn khi có điều kiện, tác giả sẽ không
bỏ qua việc tìm hiểu cuốn tập san trên để nghiên cứu kỹ hơn về lịch sử hình thành của cộng đồng
ngư dân vùng biển xứ Nghệ.


23

Cũng theo khảo cứu của tác giả này thì “Vào đầu thế kỷ XV, Cửa Lò
chưa có, ngọn núi nằm từ đường cái quan đến Cửa Lò hồi đó là một hòn đảo
mà hai dòng chảy của sông Cấm lượn quanh bắt đầu từ làng Đò Cấm ngày nay
(gần ga Đò Cấm). Nhánh bắc của sông vẫn giữ nguyên cho đến ngày nay.
Nhánh nam hình thành Cửa xá, ngày nay hầu như đã bị cát bồi lấp hoàn toàn.
Ngay từ hồi đó, ở Cửa Xá đã có những đầm phá do Lê Lợi ban cho Nguyễn
Hội và trên các vùng này, Nguyễn Hội lập làng Thái xá, ngày nay là Thượng
Xá. Trên đất đai của mình, Nguyễn Hội lập nhiều nại muối và trở nên giàu có.
Các nại muối, ngày nay không còn nữa, do đất phù sa bồi lấp dần vào, cho nên
nại muối nay lại cách hai cây số về phía đông. Nguyễn Xí được cấp lãnh địa cả
miền duyên hải nằm giữa Cửa Lò và Cửa Hội (Hội Thống) ngày nay. Trong số
các đầm phá này có Bàu Ó, cái bàu mà theo các sách Dư địa chí thì gọi là Hồ
Nước Biển. Dọc theo bờ Bàu Ó, Nguyễn Xí lập nên làng Bàu Ó mà đất đai thì
do một đám tù binh người Tàu mà Nguyễn Xí bắt được trong các cuộc chiến
tranh ở An – Tĩnh (1418 – 1428) khai khẩn. Trên những đầm phá khác,
Nguyễn Xí lập ra rất nhiều làng. Đất đai mới nổi lên đều do những người
Champa khai khẩn. Những người này do Nguyễn Xí bắt được trong cuộc đánh
nhau với nước Champa năm Thái Hòa thứ 3, đời Nhân Tông, tức là năm Ất
Sửu (1445). Các thủ lĩnh Champa bị bắt làm tù binh là Chế Hiệp, Chế Lâu và
Chế Đa. Nguyễn Xí bèn cử họ làm thủ chỉ “Hội đồng kỳ hào” của những làng
mới lập. Con trai của Nguyễn Xí là Nguyễn Sư Hồi được ban cấp đầm phá Cây
Bằng, trên miền đất đai mới bồi đắp này, các làng Vạn Lộc và Tân Lộc được
hình thành. Theo chiếu chỉ của nhà vua, tất cả các làng được thiết lập vào thế
kỷ XV bởi họ Nguyễn Thượng Xá đều được miễn thuế và mọi đảm phụ hành
chính hoặc quân sự (phu phen, tạp dịch, ). Những người thuộc họ Nguyễn
này đều là lãnh chúa tuyệt đối trên thái ấp của họ Việc nghiên cứu gia phả
của họ Nguyễn Thượng Xá và các sự tích của những làng xã ven biển của
Nghi Lộc cho chúng ta biết rằng đường bờ biển ngày nay cách đường bờ biển
ở thế kỷ XV gần hai cây số về phía đông”[Le Braton, 2005, tr98,99,102].
Hiện nay, chưa có một công trình khoa học nào sưu tầm, nghiên cứu về

sự hình thành các dòng họ, các thôn làng ở vùng đất này. Tuy nhiên, qua một
số tư liệu đã có như trên, chúng ta biết được ít nhiều về lai lịch một số làng xã
và một số dòng họ. Chẳng hạn, làng Vạn Lộc được hình thành vào năm 1493
với cái tên đầu tiên là xã Hải Ngung. Người có công lớn trong việc khai phá
đất đai, lập nên xã mới là Thái uý Nguyễn Sư Hồi (con trai cả của Thái sư
Cương quốc công Nguyễn Xí). Tại làng Vạn Lộc (Nghi Tân) hiện nay vẫn còn

24
đền thờ Nguyễn Sư Hồi (khánh thành năm 1508, đã được Bộ Văn hoá – Thông
tin ra Quyết định số 1057 – QĐ ngày 14 – 6 – 1991, công nhận là di tích lịch
sử văn hoá quốc gia). Và lớp cư dân khi vùng đất này mới hình thành có nguồn
gốc từ người Champa, người Trung Quốc.
Cũng như các phường, xã ven biển khác trong thị xã, do đặc điểm địa lý,
vùng đất Nghi Thủy hiện nay được tạo nên bởi hiện tượng biển lùi. Do đó, dân
cư sống trên địa bàn này là từ các nơi khác chuyển đến, cùng nhau xây làng và
định cư lại nơi này. Trên cái gốc ban đầu các làng do Nguyễn Xí lập ra, dần
dần dân cư từ các nơi chuyển tới sinh sống ở vùng ven biển này. Chẳng hạn,
làng Mai Bảng (thuộc phường Nghi Thuỷ), cách đây khoảng 230 năm (cuối
thời Trịnh Nguyễn phân tranh) tại Cồn Mui có 6 gia đình từ vùng Cửa Sót
(Thạch Hà, Hà Tĩnh) ra cư trú và phát triển thành làng. Sáu gia đình đó gồm
các họ Võ, Trần, Nguyễn, Lê, Hoàng, Đặng. Cái tên Mai Bảng có xuất xứ từ
làng Mai Lâm ở huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh – quê hương của 6 gia đình ngụ cư
đầu tiên ở Mai Bảng. Hiện nay, làng Mai Bảng vẫn có ngôi đền thờ vọng Lê
Khôi
5
. Làng Yên Lương lúc đầu có tên là làng Hoa Duệ, rồi đổi thành Yên
Ngoại. Những họ đầu tiên đến cư trú trên đất làng Hoa Duệ gồm có họ Vũ, họ
Phùng, họ Hoàng, họ Trịnh, họ Dương, họ Nguyễn. Đền làng này có từ năm
1630 thờ Mẫu Đại Càn Tứ vị Thánh nương, rước từ cửa Cờn (Quỳnh Lưu) về
đây thờ vọng. Theo thống kê sơ bộ, Nghi Thủy có 45 dòng họ, có họ đông

nhân khẩu như họ Nguyễn Cảnh, họ Phùng; có họ ít người như họ Phạm.
Một đặc điểm của cư dân thị xã Cửa Lò là tỷ lệ giáo dân khá cao. 3/7
phường xã có giáo dân với 1.001 hộ, 4.976 tín đồ Thiên chúa giáo, chiếm 11%
tổng số dân toàn thị xã
6
.
Về nghề nghiệp, ngoài nghề đánh cá là chính, dân ở đây còn làm ruộng,
từ xưa, tại vùng Cửa Lò còn có nghề nấu muối (đốt lò đun nước biển cho đến
khô để thành muối). Tuy nhiên, từ khi diêm dân biết làm nại muối thì nghề nấu
muối cũng không còn nữa. Tại làng Thu Lũng (Nghi Thu) có nghề thợ mộc,
chuyên làm nhà và đình chùa. Nhiều thợ giỏi từng đi khắp nơi để hành nghề.
Tại làng Vạn Lộc có nghề thủ công đóng thuyền rất nổi tiếng. Nghề này có từ

5
Lê Khôi người làng Lam Sơn (nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa. Ông tham
gia khởi nghĩa Lam Sơn từ đầu và lập được rất nhiều công lao. Năm 1443, ông được làm Nhập Nội
Thiếu Úy, trấn thủ Nghệ An. Năm 1446 phụng mệnh vua Nhân Tông, cầm quân đi đánh Chiêm
Thành, trên đường trở về ông bị bệnh nặng, đoàn chiến thuyền đến Cửa Sót ( Hà Tĩnh) dưới chân
núi Nam Giới thì ông mất. Triều đình làm quốc tang thi hài ông an táng tại chóp núi Long Ngâm và
cho lập đền thờ tại đó hàng năm quốc tế truy phong. Năm 1487 được vua Lê Thánh Tông tặng
phong “ Chiêu Trưng đại vương”.
6
Theo số liệu khảo sát của UBND Thị xã Cửa Lò ngày 30 – 5 – 1996.

25
thời Lê, khi Thái uý Nguyễn Sư Hồi tuyển thợ đóng thuyền giỏi ở ngoài bắc
vào đóng mới và sửa chữa tàu thuyền để phục vụ cho quốc phòng an ninh và
phát triển kinh tế. Ngoài ra, nhiều nơi còn có nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa,
nghề làm nón, nghề chế biến nước mắm, nghề bện đay, đan lưới và đan lát đồ
dùng bằng tre. Ngày nay, tỷ lệ số dân làm các nghề tiểu thủ công nghiệp, dịch

vụ - thương mại ngày càng tăng lên.
Ở Nghi Thuỷ, ngư dân làng Mai Bảng thường đánh cá bằng câu te, dạ,
lưới rút, câu vàng, câu mực, đan lồng đánh mực, vào lộng ra khơi. Dân làng
Yên Lương thường đánh cá bãi ngang, rùng, lưới rợ, lưới chân; xóm Nại có
nghề làm muối. Khoảng thời gian từ 1945 đến 1958, có thêm một số ngư dân
từ Cửa Sót (Hà Tĩnh), từ huyện Hưng Nguyên và một số nơi khác đến đánh cá
ở Cửa Lò rồi định cư trên đất Nghi Thuỷ (số đông ở Mai Giang - Hợp tác xã
Phương Đông – Nghi Thuỷ và Vạn Giang – Nghi Tân).
Từ xa xưa, ngư dân ở đây có nghề làm muối và nghề đan lưới, đánh cá,
chế biến (thô chế) hải sản, làm nước mắm, ruốc, phơi cá khô. Khoảng từ năm
1960 trở đi có thêm nghề làm chiếu, đan đồ mỹ nghệ, nghề nề, mộc. Lao động
nam có 80% làm nghề đánh cá, số còn lại làm nghề thủ công và dịch vụ. Lao
động nữ phần đông làm nghề buôn bán dịch vụ, chủ yếu là buôn bán hải sản.
Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, công cuộc khai thác thuộc
địa của thực dân Pháp đã có tác động không nhỏ đối với xã hội Việt Nam, làm
thay đổi kết cấu cộng đồng cư dân ở một số vùng, trong đó có vùng Bắc miền
Trung. Người Pháp vốn có truyền thống và kinh nghiệm phát hiện lựa chọn và
xây dựng các khu du lịch, điểm du lịch. Với đất nước có khi hậu nhiệt đới ẩm,
gió mùa như Việt Nam, nhu cầu nghỉ mát, nghỉ dưỡng được người Pháp đặt ra
khá bức thiết. Vì vậy, ngay sau khi cuộc xâm lược kết thúc và chính sách khai
thác thuộc địa lần 1 đang dần ổn định và thu được kết quả bước đầu, cuộc tìm
kiếm và tiến hành xây dựng các khu du lịch đã diễn ra ở nhiều nơi trên đất
nước Việt Nam. Vào đầu thế kỷ XX, một loạt địa điểm được người Pháp lựa
chọn bắt đầu việc xây dựng hệ thống khách sạn, nhà nghỉ và xây dựng hệ
thống cơ sở hạ tầng như đường giao thông, điện, nước, trung thâm thương
mại, kèm theo. Cũng từ đó các điểm du lịch đã ra đời, như Sapa (1903), Tam
Đảo (1904), Mẫu Sơn (1906), Ba Vì (1906), Sầm Sơn (1097), và người Pháp
cũng bắt đầu cho khảo sát và xây dựng khu du lịch biển Cửa Lò vào năm 1907.
Toàn quyền Paul Dume cho xây dựng thêm đường Vinh đi Cửa Hội,
Cửa Lò. Đường Quán Bánh (tiếp giáp đường 1) đi Cửa Lò. Họ còn lập đồn

binh: đồn thương chánh thượng xá ở Cửa Lò, đồn trấn thủ ở Cửa Hội (cạnh

×