Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Đề tài: PHÁP LUẬT VỀ BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.44 KB, 40 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
Bài Tiểu luận
Môn Luật Tài chính
ĐỀ TÀI:
PHÁP LUẬT VỀ BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC: THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
GVHD: ThS. Phan Phương Nam
Lớp: K09501
Danh sách sinh viên thực hiện:
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
LỜI MỞ ĐẦU 2
2.2.Thực trạng bội chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam giai đoạn từ khi Luật Ngân sách nhà nước
1996 được ban hành cho đến nay 13
KẾT LUẬN 36
TÀI LIỆU THAM KHẢO 37
LỜI MỞ ĐẦU
Trong suốt nhiều năm qua, ngân sách nhà nước đã thực hiện tốt vai trò của mình
trong việc giúp nhà nước hình thành và ổn định các quan hệ thị trường, góp phần kiểm
soát tình hình lạm phát, tỷ lệ lãi suất thích hợp, làm lành mạnh hóa nền tài chính quốc
gia, đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế… Song song với những mặt tích cực
ấy, ngân sách nhà nước trong quá trình sử dụng vẫn bộc lộ những mặt hạn chế nhất
định. Ví như yếu kém trong việc quản lý thu chi ngân sách nhà nước, sử dụng ngân
sách nhà nước chưa đúng cách…; dẫn đến tình trạng thâm hụt ngân sách hay còn gọi là
bội chi ngân sách nhà nước.
Tùy định hướng và thực tiễn tình hình phát triển kinh tế, xã hội của từng quốc gia
mà bội chi ngân sách nhà nước mang ý nghĩa tích cực hay tiêu cực. Đối với Việt Nam
trong hoàn cảnh hiện tại, vấn đề bội chi ngân sách luôn được đề đặt ra và tìm hướng
khắc phục hợp lý. Cùng với nhu cầu và hoàn cảnh này, Chính phủ nước ta đã thiết lập
cơ chế pháp lý thích hợp với hoàn cảnh kinh tế thời cuộc, tận dụng các công cụ của


mình để khắc phục tình trạng bội chi ngân sách nhà nước, ổn định nền kinh tế đất nước
hiện thời và làm nền tảng phát triển các lĩnh vực khác trong tương lai. Để tìm hiểu
2
thêm về vấn đề bội chi ngân sách nhà nước, mời các bạn cùng chúng tôi tìm hiểu thông
qua bài tiểu luận: Pháp luật về bội chi ngân sách nhà nước – Thực trạng và giải pháp.
Bài tiểu luận của nhóm chủ yếu phân tích và nhìn nhận vấn đề đang được đề cập
từ khía cạnh pháp lý, với những quy định của nhà nước về việc thực hiện đường lối,
chủ trương nhằm khắc phục tình trạng bội chi ngân sách nhà nước. Mong nhận được sự
nhận xét và góp ý của quý thầy cô và bạn đọc.
1. Khái quát cơ sở lý luận về bội chi ngân sách nhà nước theo quy định pháp
luật Việt Nam hiện hành
Như đã đề cập ở Lời mở đầu, bội chi ngân sách nhà nước đang luôn là vấn đề
được Nhà nước Việt Nam coi trọng và khắc phục trong nhiều năm qua. Qua thời gian,
hành lang pháp lý điều chỉnh vấn đề trên ngày càng được hoàn thiện, có thể kể đến sự
ra đời của nhiều Nghị quyết của Chính phủ qua từng thời kỳ. Qua đó, vấn đề sử dụng
và cân đối ngân sách nhà nước luôn được đề cao, làm cơ sở để xây dựng, củng cố và
phát triển các lĩnh vực khác trong xã hội. Bên cạnh đó là các nghị định bổ trợ cho việc
thực hiện, có thể kể đến Nghị định số 60/2003/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Ngân
sách nhà nước 2002; Nghị định số 01/2011/NĐ-CP quy định về việc Phát hành trái
phiếu Chính phủ, trái phiếu do chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương;
Quyết định số 958/QĐ-TTg về việc Phê duyệt Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài
của quốc gia giai đoạn 2011 – 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 của Thủ tướng Chính
phủ;…
Lấy cơ chế pháp lý được xây dựng theo quy định pháp luật Việt Nam hiện hành,
đồng thời kết hợp tìm hiểu trên phương diện kinh tế về vấn đề bội chi ngân sách nhà
nước; nhóm chúng tôi xin được tổng hợp phần cơ sở lý luận về bội chi ngân sách nhà
nước với các nội dung như sau:
1.1. Khái niệm bội chi ngân sách nhà nước
3
“Bội chi ngân sách nhà nước là bội chi ngân sách trung ương được xác định bằng

chênh lệch thiếu giữa tổng số chi ngân sách trung ương và tổng số thu ngân sách trung
ương của năm ngân sách
1
”.
Từ khái niệm trên cho thấy, bội chi ngân sách nhà nước được tính toán từ tổng số
chi và tổng số thu của ngân sách trung ương. Cụ thể:
• Tổng số chi của ngân sách trung ương bao gồm các khoản phải chi theo
nhiệm vụ, tức các khoản chi phát triển kinh tế,xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh;
bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của nhà nước; chi viện trợ và các
khoản chi khác theo quy định của pháp luật. Vấn đề này được quy định tại Điều 31
Luật ngân sách nhà nước 2002 và cụ thể hóa tại Điều 21 Nghị định số 60/2003/NĐ-CP
với nội dung như sau:
 Chi đầu tư phát triển về:
+ Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng
thu hồi vốn do trung ương quản lý;
+ Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, góp vốn cổ phần, liên
doanh vào các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước
theo quy định của pháp luật;
+ Chi hỗ trợ tài chính, bổ sung vốn, hỗ trợ và thưởng xuất khẩu cho các doanh nghiệp,
tổ chức kinh tế theo quy định của pháp luật;
+ Phần chi đầu tư phát triển trong các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án nhà nước
do các cơ quan trung ương thực hiện;
+ Chi hỗ trợ các tổ chức tài chính của Nhà nước do Trung ương quản lý;
+ Chi bổ sung dự trữ nhà nước;
+ Các khoản chi đầu tư phát triển khác theo quy định của pháp luật.
 Chi thường xuyên về:
+ Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, dạy nghề, y tế, xã hội, văn hóa thông tin
văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, môi trường, các sự
nghiệp khác do các cơ quan trung ương quản lý:
o Các trường phổ thông dân tộc nội trú;

o Đào tạo sau đại học, đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, đào tạo nghề
và các hình thức đào tạo, bồi dưỡng khác;
o Phòng bệnh, chữa bệnh và các hoạt động sự nghiệp y tế khác;
1
Khoản 1, Điều 4 Nghị đinh số 60/2003/NĐ-CP
4
o Các cơ sở thương binh, người có công với cách mạng, trại xã hội, phòng chống
các tệ nạn xã hội và các hoạt động xã hội khác;
o Bảo tồn, bảo tàng, thư viện, trùng tu di tích lịch sử đã được xếp hạng, các hoạt
động sáng tạo văn học, nghệ thuật và các hoạt động văn hóa khác;
o Phát thanh, truyền hình và các hoạt động thông tin khác;
o Bồi dưỡng, huấn luyện huấn luyện viên, vận động viên các đội tuyển quốc gia;
các giải thi đấu quốc gia và quốc tế; quản lý các cơ sở thi đấu thể dục, thể thao và các
hoạt động thể dục, thể thao khác;
o Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ;
o Các sự nghiệp khác.
+ Các hoạt động sự nghiệp kinh tế do các cơ quan trung ương quản lý:
o Sự nghiệp giao thông: duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa cầu đường, các công trình
giao thông khác, lập biển báo và các biện pháp bảo đảm an toàn giao thông trên các
tuyến đường;
o Sự nghiệp nông nghiệp, thủy lợi, ngư nghiệp và lâm nghiệp: bảo dưỡng, sửa
chữa các tuyến đê, các công trình thủy lợi, các trạm trại nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm
nghiệp; công tác khuyến lâm, khuyến nông, khuyến ngư; công tác khoanh nuôi, bảo vệ,
phòng chống cháy rừng, bảo vệ nguồn lợi thủy sản;
o Điều tra cơ bản;
o Đo đạc địa giới hành chính;
o Đo vẽ bản đồ;
o Đo đạc biên giới, cắm mốc biên giới;
o Đo đạc, lập bản đồ và lưu trữ hồ sơ địa chính;
o Định canh, định cư và kinh tế mới;

o Các hoạt động sự nghiệp môi trường;
o Các sự nghiệp kinh tế khác.
+ Các nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội do ngân sách trung ương
bảo đảm theo quy định của Chính phủ;
+ Hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, hệ thống Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân;
+ Hoạt động của cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam;
+ Hoạt động của các cơ quan trung ương của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam; Liên đoàn Lao động Việt Nam; Hội Cựu chiến binh Việt Nam; Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam; Hội Nông dân Việt Nam; Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh;
5
+ Trợ giá theo chính sách của Nhà nước;
+ Phần chi thường xuyên trong các chương trình quốc gia, dự án nhà nước do các cơ
quan trung ương thực hiện;
+ Thực hiện chế độ đối với người về hưu, mất sức theo quy định của Bộ Luật Lao động
cho các đối tượng thuộc ngân sách trung ương bảo đảm; hỗ trợ Quỹ Bảo hiểm xã hội
theo quy định của Chính phủ;
+ Thực hiện các chính sách đối với thương binh, bệnh binh, liệt sỹ, thân nhân liệt sĩ,
gia đình có công với cách mạng và các đối tượng chính sách xã hội khác;
+ Hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội -
nghề nghiệp thuộc Trung ương theo quy định tại Điều 17 của Nghị định này;
+ Các khoản chi thường xuyên khác theo quy định của pháp luật.
- Trả nợ gốc và lãi các khoản tiền do Chính phủ vay.
- Chi viện trợ cho các Chính phủ và tổ chức nước ngoài.
- Chi cho vay theo quy định của pháp luật.
- Bổ sung Quỹ dự trữ tài chính của Trung ương.
- Bổ sung cho ngân sách địa phương.
- Chi chuyển nguồn từ ngân sách trung ương năm trước sang ngân sách trung
ương năm sau.

• Nguồn ngân sách để xác định tổng số chi vừa nêu trên cần dựa trên tổng
số thu mà nhà nước quy định theo dự toán năm ngân sách. Thu ngân sách nhà nước bao
gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà
nước; các khoản thu đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản thu khác theo quy
định của pháp luật. Cụ thể, nguồn thu ấy được dựa trên các khoản thu của ngân sách
trung ương được quy định tại Điều 30 Luật Ngân sách nhà nước 2002 và hướng dẫn
chi tiết tại Điều 20 Nghị định số 60/2003/NĐ-CP với nội dung như sau:
 Các khoản thu ngân sách trung ương hưởng 100%:
+ Thuế giá trị gia tăng hàng hoá nhập khẩu;
+ Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;
+ Thuế tiêu thụ đặc biệt hàng hoá nhập khẩu;
+ Thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành (Bộ trưởng Bộ Tài
chính công bố cụ thể các đơn vị hạch toán toàn ngành);
+ Các khoản thuế và thu khác từ các hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí, tiền thuê
mặt đất, mặt nước;
6
+ Tiền thu hồi vốn của ngân sách trung ương tại các cơ sở kinh tế, thu hồi tiền cho vay
của ngân sách trung ương (cả gốc và lãi), thu từ Quỹ dự trữ tài chính của Trung ương,
thu nhập từ vốn góp của ngân sách trung ương;
+ Viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước, các tổ chức khác, các cá nhân ở
nước ngoài cho Chính phủ Việt Nam;
+ Phần nộp ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật từ các khoản phí và lệ phí
do các cơ quan, đơn vị thuộc trung ương tổ chức thu, không kể phí xăng, dầu và lệ phí
trước bạ;
+ Phần nộp ngân sách theo quy định của pháp luật từ các khoản thu sự nghiệp của các
đơn vị do các cơ quan trung ương trực tiếp quản lý;
+ Chênh lệch thu lớn hơn chi của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
+ Thu kết dư ngân sách trung ương;
+ Thu chuyển nguồn ngân sách từ ngân sách trung ương năm trước chuyển sang;
+ Các khoản phạt, tịch thu và thu khác của ngân sách trung ương theo quy định của

pháp luật.
 Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách
trung ương và ngân sách địa phương:
+ Thuế giá trị gia tăng, không kể thuế giá trị gia tăng hàng hoá nhập khẩu quy định tại
Điểm a, Khoản 1 Điều này và thuế giá trị gia tăng thu từ hoạt động xổ số kiến thiết;
+ Thuế thu nhập doanh nghiệp, không kể thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị
hạch toán toàn ngành quy định tại điểm d Khoản 1 Điều này và thuế thu nhập doanh
nghiệp thu từ hoạt động xổ số kiến thiết;
+ Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, không kể thuế quy định tại Điểm đ
Khoản 1 Điều này;
+ Thuế tiêu thụ đặc biệt thu từ hàng hoá, dịch vụ trong nước không kể thuế tiêu thụ đặc
biệt thu từ hoạt động xổ số kiến thiết;
+ Phí xăng, dầu.
1.2. Đặc điểm của bội chi ngân sách nhà nước
• Bội chi của ngân sách nhà nước là bội chi của ngân sách trung ương:
Vấn đề trên được khẳng định bởi các lý do sau:
 Thứ nhất, xuất phát từ nguyên tắc Ngân sách địa phương được
phân cấp nguồn thu bảo đảm chủ động thực hiện những nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội, quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội trong phạm vi quản lý. Tại Khoản
3, Điều 8 Luật Ngân sách nhà nước 2002 quy định: “Về nguyên tắc, ngân sách địa
phương được cân đối với tổng số chi không vượt quá tổng số thu; trường hợp tỉnh,
7
thành phố trực thuộc trung ương có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng
thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5
năm đã được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định, nhưng vượt quá khả năng cân đối
của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán, thì được phép huy động vốn trong nước và phải
cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức dư nợ từ
nguồn vốn huy động không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước
hàng năm của ngân sách cấp tỉnh”. Việc quy định như trên nhằm mục đích kiểm soát
các khoản nợ của ngân sách cấp địa phương, tránh hậu quả nặng nề trong hoạt động

ngân sách của địa phương, ảnh hưởng đến chính sách phát triểnchung của đất nước.
 Thứ hai, ngân sách trung ương phải đảm nhận chủ yếu nhiệm vụ
chi đầu tư phát triển nhằm thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế xã hội , bảo đảm
sự phát triển cân đối hài hoà giữa các vùng miền, xoá dần sự cách biệt về kinh tế xã hội
do điều kiện khách quan mang lại giữa các địa phương trong phạm vi quốc gia.
 Thứ ba, nguồn bù đắp bội chi ngân sách nhà nước được thực hiện
từ việc vay trong nước và vay của nước ngoài. Bởi vậy để quản lý tốt việc vay vốn cho
đầu tư, tránh tình trạng địa phương thực hiện vay vốn đầu tư tuỳ tiện dẫn đến việc
không kiểm soát được khoản nợ vay của nhà nước, ngân sách trung ương sẽ thực hiện
việc đi vay và quản lý số nợ đối với số vốn vay từ nước ngoài.
• Xác định bằng chênh lệch thiếu giữa tổng số thu và tổng số chi ngân sách
trung ương của năm ngân sách: Chênh lệch thiếu là khoản thâm hụt mà tổng số chi
vượt quá tổng số thu trong năm ngân sách, dẫn đến tình trạng bội chi ngân sách nhà
nước.
• Về mặt nguyên tắc, số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển:
Nguyên tắc trên là một trong những phương thức quan trọng để đảm bảo sự cân bằng
thu, chi ngân sách. Chi đầu tư phát triển là các khoản chi được quy định chi tiết tại
Khoản 1, Điều 21 Nghị định số 60/2003/NĐ-CP, nhằm làm tăng điều kiện cơ sở vật
chất của quốc gia và thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế.
1.3. Nguyên nhân của bội chi ngân sách nhà nước
Có 2 nhóm nguyên nhân cơ bản gây ra bội chi ngân sách nhà nước:
• Nhóm nguyên nhân thứ nhất là tác động của chu kỳ kinh doanh: Khủng
hoảng làm cho các khoản thu của Nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng lên để
8
giải quyết những khó khăn mới về kinh tế và xã hội. Điều đó làm cho mức bội chi ngân
sách nhà nước tăng lên. Ở giai đoạn kinh tế phồn thịnh, các khoản thu của Nhà nước sẽ
tăng lên, trong khi chi không phải tăng tương ứng - điều đó làm giảm mức bội chi ngân
sách nhà nước. Mức bội chi do tác động của chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là bội
chi chu kỳ.
• Nhóm nguyên nhân thứ hai là tác động của chính sách cơ cấu thu chi của

Nhà nước: Khi Nhà nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng
sẽ làm tăng mức bội chi ngân sách nhà nước. Ngược lại, thực hiện chính sách giảm đầu
tư và tiêu dùng của Nhà nước thì mức bội chi ngân sách nhà nước sẽ giảm bớt. Mức
bội chi do tác động của chính sách cơ cấu thu chi gây ra được gọi là bội chi cơ cấu.
Trong điều kiện bình thường (không có chiến tranh, không có thiên tai lớn…),
tổng hợp của bội chi chu kỳ và bội chi cơ cấu sẽ là bội chi NSNS.
1.4. Nguyên tắc giải quyết bội chi ngân sách nhà nước
Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc
2
:
• Không sử dụng cho tiêu dùng: Đây được coi là nguyên tắc bất di bất dịch
trong việc giải quyết bội chi nhằm hạn chế các khoản chi từ hoạt động quản lý nhà
nước nói chung. Chi tiêu dùng là khoản chi căn cứ vào mục đích và nội dung, là những
khoản chi không tạo ra sản phẩm vật chất để tiêu dùng trong tương lai. Từ đặc điểm
của chi tiêu dùng, có thể nhìn nhận chi tiêu dùng giống như các khoản chi thường
xuyên
3
, bao gồm chi cho các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn
hóa thông tin, văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, các sự
nghiệp xã hôi khác;quốc phòng, an ninh, và trật tự an toàn xã hội; các hoạt động sự
nghiệp kinh tế; hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam… Nguyên tắc này được đặt ra
nhằm đảm bảo khả năng giải quyết tình trạng bội chi ngân sách của nhà nước, đảm
bảo yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả trong việc bố trí các khoản chi tiêu của ngân sách
nhà nước.
• Chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển: Trong quá trình giải quyết bội
chi ngân sách nhà nước, Chính phủ vẫn phải đề cao việc thực hiện tăng trưởng kinh tế
2
Khoản 2, Điều 8 Luật Ngân sách nhà nước 2002
3
Khoản 2, Điều 3 Luật Ngân sách nhà nước 2002

9
đất nước bằng cách sử dụng ngân sách cho các khoản chi đầu tư và phát triển nhằm
làm tăng cơ sở vật chất và tiềm lực cho nền kinh tế. Từ đó thu hồi vốn và kiếm thêm
lợi nhuận bổ sung vào nguồn ngân sách nhà nước đang trong tình trạng thâm hụt.
• Bảo đảm bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn: Nguyên tắc
này được đảm bảo thực hiện bởi hai nguyên tắc cụ thể phía trên. Tuy nhiên, việc thực
hiện nó phải dựa trên sự phối hợp, cân nhắc kỹ lưỡng và cẩn trọng của cơ quan chức
năng trong việc xác định rõ nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của các cấp theo quy
định của pháp luật và đường lối phát triển của đất nước; phối hợp chặt chẽ với khối
lượng tiền tệ, lãi suất, tỷ giá hối đoái đối với đồng ngoại tệ;… nhằm hướng đến mục
tiêu chung là giải quyết tình trạng bội chi ngân sách nhà nước.
1.5. Các giải pháp giải quyết bội chi ngân sách nhà nước
Bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng các biện pháp sau
4
:
• Tăng thu, giảm chi ngân sách nhà nước:
 Tăng thu: Tăng các khoản thu, đặc biệt là thuế. Việc tăng các
khoản thu, đặc biệt là thuế có thể sẽ bù đắp sự thâm hụt ngân sách nhà nước và giảm
bội chi ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, đây không phải là giải pháp cơ bản để xử lý bội
chi ngân sách nhà nước, bởi vì nếu tăng thuế không hợp lý sẽ dẫn đến làm giá cả hàng
hóa tăng gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống nhân dân, nghiêm trọng hơn sẽ
triệt tiêu động lực của các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất, kinh doanh và làm
mất đi khả năng cạnh tranh của nền kinh tế đối với các nước trong khu vực và trên thế
giới.
 Giảm chi: Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công và chi thường
xuyên từ ngân sách nhà nước. Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô
cùng quan trọng với mỗi quốc gia khi xảy ra bội chi ngân sách nhà nước và xuất hiện
lạm phát. Ở đây, triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công có nghĩa là chỉ đầu tư vào
những dự án mang tính chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo ra những đột phá cho sự phát triển
kinh tế - xã hội, đặc biệt những dự án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt giảm,

thậm chí không đầu tư. Mặt khác, bên cạnh việc triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư
4
sách nhà nước/xu-ly-
boi-chi-ngan-sach-nha-nuoc-nham-kiem-che-lam-phat-hien-nay.190.html
10
công, những khoản chi thường xuyên của các cơ quan nhà nước cũng phải cắt giảm nếu
những khoản chi này không hiệu quả và chưa thực sự cần thiết.
• Phát hành tiền mới để bù chi: Việc xử lý bội chi ngân sách nhà nước có
thể thông qua việc nhà nước phát hành thêm tiền và đưa vào lưu thông. Tuy nhiên, giải
pháp này sẽ gây ra lạm phát nếu nhà nước phát hành thêm quá nhiều tiền để bù đắp bội
chi ngân sách nhà nước. Đặc biệt, khi nguyên nhân bội chi ngân sách nhà nước là do
thiếu hụt các nguồn vốn đối ứng để đầu tư cho phát triển, gây “tăng trưởng nóng” và
không cân đối với khả năng tài chính của quốc gia.
• Vay trong nước và ngoài nước:
Biện pháp vay trong và ngoài nước là nguồn bù đắp bội chi ngân sách nhà nước
được quy định cụ thể tại Khoản 2, Điều 4 Nghị định số 60/2003/NĐ-CP. Thông qua
hoạt động vay, Chính phủ và chính quyền địa phương ghi nhận nợ đối với các trái chủ
về khoản nợ và bảo lãnh của mình cùng các thỏa thuận về lãi suất, hoàn lại Các biện
pháp này được thực hiện qua các hoạt động cụ thể là phát hành trái phiếu. Các loại trái
phiếu được phát hành gồm: Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Chính phủ bảo lãnh và
trái phiếu Chính quyền địa phương.
Theo quy định của Nghị định số 01/2011/NĐ-CP, ba loại trái phiếu kể trên được
phân loại theo phạm vi phát hành trong và ngoài nước như sau:
 Các khoản vay trong nước từ phát hành trái phiếu Chính phủ và các
nguồn tài chính khác trong nước gồm:
o Trái phiếu Chính phủ.
o Trái phiếu do Chính phủ bảo lãnh.
o Trái phiếu Chính quyền địa phương.
 Các khoản Chính phủ vay nước ngoài được đưa vào cân đối ngân sách:
o Trái phiếu Chính phủ.

o Trái phiếu do Chính phủ bảo lãnh.
Nghị định số 01/2011/NĐ-CP cũng quy định đối với các loại trái phiếu về Tổ
chức phát hành và mục đích sử dụng; Phương thức thanh toán; Đối tượng đấu thầu và
tham gia; Sử dụng và thanh toán; Lãi suất; Điều kiện phát hành… nhằm tạo cơ chế rõ
ràng, minh bạch cho hoạt động phát hành trái phiếu theo nhu cầu cần thiết của Nhà
nước và từng địa phương.
Ngoài ra, trong việc định hướng và sử dụng vốn vay từ các nguồn vay trong nước
và nước ngoài, Thủ tướng chính phủ cũng đã thông qua Quyết định số 958/QĐ-TTg về
11
việc Phê duyệt Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 –
2020 và tầm nhìn đến năm 2030 ngày 27 tháng 07 năm 2012. Điều này đã góp phần tạo
tiền đề cho hành lang pháp lý về vấn đề bội chi ngân sách nhà nước, qua đó giúp giải
quyết tình trạng bội chi mà ngân sách nhà nước đang phải đối diện.
2. Thực trạng bội chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay
2.1. Thực trạng bội chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam giai đoạn trước
khi Luật Ngân sách nhà nước 1996 được ban hành (giai đoạn 1991-1996)
Bước vào giai đoạn từ năm 1991-1996, tình hình đất nước đã có nhiều chuyển
biến tích cực, sản xuất và lưu thông hàng hoá đã có động lực mới, tình trạng thiếu
lương thực đã được giải quyết căn bản; đặc biệt, cơ cấu chi ngân sách nhà nước đã dần
dần thay đổi theo hướng tích cực hơn. Cụ thể, nguồn thu trong nước đã đủ cho chi
thường xuyên, tình trạng đi vay hoặc dựa vào phát hành tiền cho chi thường xuyên đã
chấm dứt. Trong giai đoạn này, vấn đề chi đúng đối tượng, có hiệu quả, thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội được đặt ra. Nhờ những giải pháp trên, số thâm hụt ngân sách nhà
nước đã giảm dần qua từng năm và được bù đắp bằng vay của dân và vay nước ngoài
(từ năm 1992 trở đi Nhà nước đã có những quy định về việc chấm dứt phát hành tiền
trực tiếp để bù đắp bội chi).
Thực vậy, trong giai đoạn từ năm 1991-1996, tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước so
với GDP chỉ ở mức 1,4% đến 4,17% (1991: 1,4%, 1992:1,5%, 1993: 3,9%, 1994:
2,2%, 1995: 4,17% và 1996 là 3%)
5

. Như vậy, có thể thấy rằng bội chi NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC trong những năm 1991-1995 là rất thấp, được khống chế ở mức chấp
nhận được là 2,63% - việc này đã thể hiện chính sách thắt chặt chi tiêu của Chính phủ
trong thời kỳ trên.
Nhìn chung, thực trang bội chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn
này đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể, Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc
đổi mới chính sách quản lý và cân đối ngân sách nhà nước để cải thiện vấn đề khai thác
nguồn thu và phân bổ nguồn lực quốc gia, qua đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. So
với giai đoạn trước, bội chi ngân sách nhà nước ở giai đoạn này giảm và duy trì ở mức
5
Xem: Lê Quốc Lý, “Bội chi ngân sách nhà nước trong mối quan hệ với lạm phát ở Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí Tài Chính số 10/2008
12
chấp nhận được. Tuy vậy, cân đối ngân sách nhà nước trong giai đoạn này vẫn còn
nhiều hạn chế như cải cách thuế vẫn còn nhiều bất cập; hệ thống thuế chồng chéo,
phức tạp gây khó khăn cho công tác hành thu và quản lý thuế; vay bù đắp bội chi ngân
sách nhà nước chỉ chú trọng giải quyết nhu cầu chi; các nguồn thu và nhiệm vụ chi
phân cấp cho chính quyền địa phương không ổn định, hạn chế khả năng chủ động của
ngân sách địa phương khi cân đối ngân sách cấp mình; Nhà nước vẫn chưa xóa bỏ hết
các khoản chi bao cấp dẫn đến lãng phí nguồn lực tài chính của đất nước…
2.2. Thực trạng bội chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam giai đoạn từ khi
Luật Ngân sách nhà nước 1996 được ban hành cho đến nay
Với những thay đổi mạnh mẽ trong thời kỳ đầu chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị
trường, nước ta đã đạt được không ít kết quả khả quan. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều
khuyết điểm tồn đọng trong quá trình cân đối ngân sách nhà nước. Lúc này, yêu cầu đặt
ra là cần có một hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh, quy định rỏ ràng hơn nhằm
đảm bảo tính hiệu quả và minh bạch khi thực hiện cân đối ngân sách nhà nước, thúc
đẩy kinh tế xã hội phát triển bền vững. Vì vậy, ngày 20-03-1996 Quốc hội khóa 9, kỳ
họp thứ 9 đã thông qua Luật Ngân sách nhà nước và văn bản này có hiệu lực thi hành
từ ngày 01-01-1997. Cùng thời điểm đó, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Ngân

sách nhà nước 1996 cũng được Chính phủ và Bộ tài chính đưa ra để vận dụng thực
hiện. Qua một thời gian Luật Ngân sách nhà nước 1996 được áp dụng thi hành, để phù
hợp hơn với thực tế và các văn bản pháp luật thuế hiện hành ( Luật Thuế thu nhập
doanh nghiệp, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật Thuế gía trị gia tăng), ngày 20-5-1998
Luật Ngân sách nhà nước 1996 đã được sữa đổi, bổ sung. Đến năm 2002, đất nước
bước vào giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế và tiến tới gia nhập WTO nên Luật Ngân
sách nhà nước cần phải sửa đổi theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế hơn, với các
cam kết quốc tế về thuế quan; đồng thời, phải đảm bảo được nguồn thu ngân sách nhà
nước để có thể chủ động và linh hoạt hơn trong quá trình cân đối ngân sách nhà nước.
Do vậy, taị kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa 11 đã thông qua Luật Ngân sách nhà nước sửa
đổi, bổ sung ngày 16-12-2002 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2004.
13
Có thể khẳng định rằng Luật Ngân sách nhà nước hiện hành đã xử lý một cách
căn bản quan hệ tài chính giữa các cấp chính quyền, quan hệ giữa ngân sách trung
ương và ngân sách địa phương. Đặc biệt, việc phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi khá
cụ thể, rõ ràng (trong đó, ngân sách trung ương giử vai trò chủ đạo, đảm bảo các nhiệm
vụ chiến lược, có quy mô trên toàn quốc; còn ngân sách địa phương ngày càng được
mở rộng quyền tự chủ hơn trong vấn đề khai thác các nguồn thu tại chỗ và chủ động bố
trí chi tiêu hợp lý). Thực tế, từ những chính sách đúng đắn được thể chế bằng các văn
bản pháp luật mà nguồn thu ngân sách ở các tỉnh, thành đã tăng lên một cách bền vững.
Cụ thể, ngân sách địa phương từ chỗ chiếm 34% tổng chi ngân sách nhà nước giai đoạn
1991-1996 đã tăng lên 45% giai đoạn 1997-2006. Điều này tạo nền tảng cơ bản cho các
địa phương chủ động nhằm cân đối ngân sách một cách tích cực hơn. Hơn nữa, qua
việc phân cấp ngân sách nhà nước, nguồn thu của các địa phương đã được tăng lên
đáng kể. Nếu trước đây thu ngân sách địa phương chỉ chiếm 20%-22%/tổng thu ngân
sách nhà nước thì nay đã chiếm ở mức 42%-44%/tổng thu ngân sách nhà nước
6
- đây là
cả một sự nỗ lực về việc cân đối nguồn lực phù hợp nhằm phục vụ cho mục tiêu phát
triển kinh tế- xã hội của đất nước. Ngoài ra, việc sửa đổi, bổ sung Luật Ngân sách nhà

nước đã đánh dấu một bước tiến đáng kể trong việc tăng cường năng lực khai thác, huy
động các nguồn lực tài chính thông qua ngân sách nhà nước. Cụ thể, với việc sửa đổi
hệ thống phân cấp ngân sách nhà nước, theo đó trao quyền tự chủ nhiều hơn cho chính
quyền địa phương, nguồn thu ngân sách nhà nước đã được các cấp chính quyền địa
phương quan tâm nhiều hơn so với trước; quy định về ổn định ngân sách địa phương
theo tỷ lệ % phân chia các khoản thu và số bổ sung cân đối từ ngân sách cấp trên cho
ngân sách cấp dưới được ổn định từ 3-5 năm đã tạo điều kiện cho các địa phương yên
tâm và tích cực trong việc huy động các nguồn thu trên địa bàn; quy định cho phép địa
phương được huy động các nguồn vốn tín dụng trong nước cho đầu tư với mức tối đa
30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh đã giúp
nhiều địa phương chủ động hơn trong việc huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách để
6
Xem: Lê Quốc Lý, “Phân cấp tài chính cho chính quyền địa phương trong nền kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tê”, Tạp chí nghiên cứu tài chính kế toán số 12/2008, Trang 8
14
tham gia đầu tư cho các mục tiêu đã đề ra. Kết quả đạt được là ngân sách địa phương
ngày càng được hưởng nhiều nguồn thu hơn như các khoản thu từ thuế tài nguyên môi
trường, các khoản thu điều tiết từ thuế tiêu thụ đặc biệt Đặc biệt, nếu như từ năm
2003 trở về trước, cả nước chỉ có khoảng 5 địa phương có khả năng thu vượt chi và có
điều tiết về ngân sách trung ương, thì sau khi sửa đổi, bổ sung Luật Ngân sách nhà
nước đến năm 2009 đã có 11 địa phương tự đảm bảo được ngân sách chi của mình mà
không cần sự hỗ trợ của ngân sách trung ương. Những kết quả nêu trên đã góp phần
quan trọng vào việc cân đối ngân sách nhà nước.
Trước hết, nhằm làm rõ hơn phần thực trạng bội chi ngân sách nhà nước giai đoạn
sau khi Luật Ngân sách nhà nước 1996 được ban hành, nhóm chúng tôi xin được phân
tích thực tiễn bội chi ngân sách nhà nước trong một số năm gần đây thông qua các số
liệu về Quyết toán Thu, Chi cân đối ngân sách nhà nước
7
.
STT Chỉ tiêu Quyết toán

năm 2008
Quyết toán
năm 2009
Dự toán
năm 2010
Dự toán
năm 2011
1 Thu cân đối ngân sách
nhà nước
548,529 468,795 461,500 595,000
2 Chi cân đối ngân sách
nhà nước
590,714 584,695 582,200 725,600
3 Cân đối ngân sách nhà
nước
-67,677 -115,900 -119,700 -120,600
Tỷ lệ bội chi ngân
sách so với GDP
4.58% 6.9% 6.2% 5.3%
4 Nguồn bù đắp bội chi
ngân sách nhà nước
67,677 115,900 119,700 120,600
Vay trong nước 48,009 88,520 98,700 92,600
7
Các số liệu được tổng hợp từ các nguồn sau đây:
/>p_pers_id=2177068&p_recurrent_news_id=17183923
/>p_folder_id=2201720&p_recurrent_news_id=15264008
/>6330/15237206?p_folder_id=15237279&p_recurrent_news_id=15240150
15
Vay nước ngoài 19,688 27,380 21,000 28,000

Qua bảng thống kê trên, có thể thấy rằng, tình hình bội chi ngân sách nhà nước
trong những năm gần đây xấp xỉ 5% - tỷ lệ này vẫn ở trong mức giới hạn bội chi cho
phép. Sau đây sẽ là đánh giá chi tiết cho từng năm:
• Năm 2008:

STT
Chỉ tiêu
Dự toán
(Tỷ đồng)
A Tổng thu cân đối ngân sách nhà nước 323,000
1 Thu nội địa (không kể thu từ dầu thô) 189,300
2 Thu dầu thô 65,600
3 Thu cân đối từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu 64,500
4 Thu viện trợ không hoàn lại 3,600
B Thu kết chuyển từ năm trước sang 9,080
C Tổng chi cân đối ngân sách nhà nước 398,980
1 Chi đầu tư phát triển 99,730
2 Chi trả nợ và viện trợ 51,200
3
Chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh,
quản lý hành chính nhà nước, đảng, đoàn thể
208,850
4 Chi cải cách tiền lương 28,400
5 Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính 100
6 Dự phòng 10,700
D Bội chi ngân sách nhà nước 66,900
Tỷ lệ bội chi so GDP 5%
Nguồn bù đắp bội chi
16
1 Vay trong nước 51,900

2 Vay ngoài nước 15,000
Bảng cân đối dự toán ngân sách nhà nước năm 2008
Theo bảng số liệu trên, dự toán thu cân đối ngân sách nhà nước năm 2008 là
323000 tỉ đồng phấn đấu cả năm đạt 399000 tỉ đồng, vượt 23,5% (76000 tỉ đồng so với
dự toán, tăng 26,3% so với thực hiện năm 2007, đạt tỉ lệ động viên 26,8% GDP, trong
đó từ thuế và phí đạt 24,9% GDP, ;loại trừ yếu tố tăng thu do tăng giá dầu thô thì đạt tỉ
lệ động viên 23,5% GDP (thuế và phí đạt 21,6% GDP) chính phủ tập trung chỉ đạo
tăng cường công tác quản lý thu ngân sách năm 2008. Dự toán chi cân đối ngân sách
nhà nước Quốc hội quyết định là 398900 tỉ đồng ước thực hiện cả năm đạt 474280 tỉ
đồng vượt 18,9% so với dự toán, tăng 22,3% so với thực hiện năm 2007. Cũng theo đó,
bội chi ngân sách nhà nước năm 2008 Quốc hội quyết định là 66900 tỉ đồng. Ước cả
năm bộ chi ngân sách thực hiện là 66200 tỉ đồng bằng 4,95% GDP khi xây dựng kiểm
toán. Đến ngày 31/12/2008 dư nợ chính phủ (bao gồm cả nợ trái phiếu chính phủ) bằng
33,5% GDP dư nợ ngoài nước của quốc gia bằng 27,2% GDP trong giới hạn đảm bảo
an ninh tài chính quốc gia và ổn định các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô.
Tuy nhiên, công tác tài chính ngân sách năm 2008 còn những khó khăn tồn tại:
 Thu ngân sách tăng nhưng chưa vững chắc chủ yếu là do giá dầu thô và thuế
xuất nhập khẩu .Thu ngân sách những tháng cuối năm có chiều hướng giảm do sản
xuất kinh doanh gặp khó khăn .
 Các bộ ,ngành ,địa phương đã bám sát điều hành dự toán ngân sách nhà nước
được giao nhưng triển khai vốn đầu tư xây dựng cơ bản cả từ nguồn ngân sách nhà
nước và nguồn trái phiếu chính phủ còn chậm .
 Quản lý chi tiêu ngân sách đã được tăng cường nhưng vẫn còn tình trạng lãng
phí ,kém hiệu quả ,một số nơi chưa thật sự quán triệt để tiết kiệm chi ngân sách nhà
nước .
• Năm 2009:
STT Chỉ tiêu
Dự toán
17
(Tỷ đồng)

A Tổng thu cân đối ngân sách nhà nước 389,900
1 Thu nội địa 233,000
2 Thu từ dầu thô 63,700
3 Thu cân đối từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu 88,200
4 Thu viện trợ không hoàn lại 5,000
B Thu kết chuyển từ năm trước sang 14,100
C Tổng chi cân đối ngân sách nhà nước 491,300
1 Chi đầu tư phát triển 112,800
2 Chi trả nợ và viện trợ 58,800
3
Chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh, quản lý hành chính
269,300
4 Chi cải cách tiền lương 36,600
5 Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính 100
6 Dự phòng 13,700
D Bội chi ngân sách nhà nước 87,300
Tỷ lệ bội chi so GDP 4.82%
E Nguồn bù đắp bội chi ngân sách nhà nước 87,300
1 Vay trong nước 71,300
2 Vay ngoài nước 16,000
Bảng cân đối dự toán ngân sách nhà nước nước năm 2009
Theo bảng số liệu trên, dự toán thu ngân sách nhà nước: Dự toán tổng thu cân đối
ngân sách nhà nước năm 2009 là 389,900 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 23% GDP; trong đó, từ
thuế, phí và lệ phí là 21,5% GDP. Về cơ cấu thu năm 2009, dự toán thu nội địa chiếm
59,8% tổng thu ngân sách nhà nước, thu dầu thô chiếm 16,3%, thu cân đối từ hoạt
động xuất khẩu, nhập khẩu chiếm 22,6% tổng thu cân đối ngân sách nhà nước. Và dự
toán chi ngân sách nhà nước năm 2009 được xây dựng trên cơ sở cơ cấu lại chi ngân
sách với mục tiêu góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô, đảm bảo các nguyên tắc
sau đây:

 Tiếp tục cơ cấu lại ngân sách, đảm bảo kinh phí thực hiện các chính sách an sinh
xã hội và điều chỉnh tiền lương, các khoản tăng chi theo tiền lương.
 Bố trí tăng chi dự phòng, dự trữ quốc gia để đảm bảo an ninh lương thực và chủ
động phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, bố trí đảm bảo việc chi trả
nợ theo đúng cam kết.
18
 Bố trí kinh phí cho các lĩnh vực giáo dục - đào tạo - dạy nghề - y tế, khoa học
-công nghệ, văn hoá thông tin, bảo vệ môi trường, nông nghiệp nông thôn … theo Nghị
quyết của Đảng, Quốc hội.
 Đáp ứng nhu cầu chi cho các nhiệm vụ khác trên tinh thần triệt để tiết kiệm, tiếp
tục rà soát việc thắt chặt chi xây dựng, bố trí dự toán chi thường xuyên cho các Bộ, các
cơ quan trung ương và các địa phương cơ bản không tăng so với năm 2008, giảm mức
bội chi ngân sách nhà nước dưới 5%GDP.
Cũng theo bảng số liệu trên, dự toán chi ngân sách nhà nước năm 2009 là 491,300
tỷ đồng, tăng 23,1% so với dự toán ngân sách nhà nước năm 2008. Số tăng chi này tập
trung cho các nhiệm vụ chính. Đặc biệt, bội chi ngân sách nhà nước ở mức 4,82% GDP
(giảm 3,700 tỷ đồng so với tính bội chi ở mức 5% GDP) để góp phần kiềm chế lạm
phát. Tuy nhiên, còn tồn tại nhiều vấn đề khác cần có giải pháp khắc phục trong việc tổ
chức thực hiện:
 Về thu ngân sách nhà nước: Dự toán xây dựng vẫn còn chứa đựng các
yếu tố rủi ro, chưa lường hết, trong đó: Thu nội địa từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu
phụ thuộc nhiều vào khả năng kiểm soát lạm phát, bình ổn kinh tế vĩ mô và phát triển
sản xuất kinh doanh. Thu dầu thô phụ thuộc vào yếu tố sản lượng và đặc biệt là yếu tố
giá cả biến động khó lường.
 Dự toán chi ngân sách nhà nước: Thực hiện cơ cấu lại để tăng cường an
sinh xã hội, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn như dự toán chi đầu tư phát triển ngân sách
trung ương bố trí tăng 10,1% so với dự toán năm 2008, nhưng vẫn còn thấp so với nhu
cầu, đòi hỏi phải rà soát, lựa chọn công trình, dự án quan trọng để triển khai thực hiện.
Đồng thời phải tăng cường huy động nguồn lực đầu tư từ các thành phần kinh tế khác
để phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế.

 Dự phòng ngân sách nhà nước bố trí đạt 2,8% tổng chi ngân sách nhà nước,
trong đó dự phòng NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG bằng 3,5%, đảm bảo dự phòng của
địa phương ở mức 3 - 4%, dự phòng NGÂN SÁCH TRUNG ƯƠNG 2,4% tổng chi
ngân sách trung ương - mức bố trí này là rất mỏng so với yêu cầu chủ động phòng
chống thiên tai, dịch bệnh và xử lý các nhiệm vụ đột xuất khác phát sinh trong năm.
19
• Năm 2010:
STT Chỉ tiêu Dự toán
(Tỷ đồng)
A Tổng thu cân đối ngân sách nhà nước 461,500
1 Thu nội địa 294,700
2 Thu từ dầu thô 66,300
3 Thu từ xuất khẩu, nhập khẩu 95,500
4 Thu viện trợ không hoàn lại 5,000
B Thu kết chuyển từ năm trước sang 1,000
C Tổng chi cân đối ngân sách nhà nước 582,200
1 Chi đầu tư phát triển 125,500
2 Chi trả nợ và viện trợ 70,250
3
Chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh, quản lý hành chính
335,560
4 Chi cải cách tiền lương 35,490
5 Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính 100
6 Dự phòng 15,300
D Bội chi ngân sách nhà nước 119,700
Tỷ lệ bội chi so GDP 6.20%
E Nguồn bù đắp bội chi ngân sách nhà nước 119,700
1 Vay trong nước 98,700
2 Vay ngoài nước 21,000

Bảng cân đối dự toán ngân sách nhà nước nước năm 2010
Theo bảng số liệu trên:
 Quốc hội đã phê chuẩn tổng số thu cân đối ngân sách Nhà nước là 777,283 tỷ
đồng, bao gồm cả số thu chuyển nguồn từ năm 2009 sang năm 2010, thu kết dư ngân
sách địa phương năm 2009, thu huy động đầu tư của ngân sách địa phương theo quy
định của Luật Ngân sách nhà nước.
20
 Tổng số chi cân đối ngân sách Nhà nước là 850,874 tỷ đồng, bao gồm cả số chi
chuyển nguồn từ năm 2010 sang năm 2011.
 Bội chi ngân sách Nhà nước là 109,191 tỷ đồng, bằng 5,5% tổng sản phẩm trong
nước (GDP), không bao gồm số kết dư của ngân sách địa phương.
 Nguồn bù đắp bội chi ngân sách nhà nước: Vay trong nước 68.967 tỷ đồng; vay
ngoài nước 40.224 tỷ đồng.
Quốc hội giao Chính phủ chỉ đạo các cơ quan trung ương, địa phương và đơn vị
xem xét, khắc phục những tồn tại được nêu trong Báo cáo thẩm tra số 534/BC-
UBTCNS13 ngày 8-5-2012 của Ủy ban Tài chính - Ngân sách, kết luận, kiến nghị của
các cơ quan thanh tra, kiểm tra và của Kiểm toán Nhà nước tại Báo cáo kiểm toán số
93/BC-KTNN ngày 10-5-2012. Đồng thời giao Chính phủ kiểm điểm trách nhiệm, xử
lý nghiêm, kịp thời các sai phạm trong quản lý, điều hành ngân sách và báo cáo kết quả
với Quốc hội khi trình báo cáo quyết toán ngân sách Nhà nước năm 2011.
• Năm 2011:
STT Chỉ tiêu
Dự toán
(Tỷ đồng)
A TỔNG THU CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 595,000
1 Thu nội địa 382,000
2 Thu từ dầu thô 69,300
3 Thu từ xuất khẩu, nhập khẩu 138,700
4 Thu viện trợ không hoàn lại 5,000
B

THU CHUYỂN NGUỒN NGÂN SÁCH TRUNG ƯƠNG
NĂM 2010 CHUYỂN SANG NĂM 2011
10,000
C TỔNG CHI CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 725,600
1 Chi đầu tư phát triển 152,000
2 Chi trả nợ và viện trợ 86,000
3 Chi thường xuyên 442,100
4 Chi cải cách tiền lương 27,000
21
5 Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính 100
6 Dự phòng 18,400
D BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 120,600
Tỷ lệ bội chi so GDP 5.3%
E NGUỒN BÙ ĐẮP BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 120,600
1 Vay trong nước 92,600
2 Vay ngoài nước 28,000
Bảng cân đối dự toán ngân sách nhà nước năm 2011
Theo thông tin từ Bộ Tài Chính, sau khi thảo luận đánh giá thực hiện ngân sách
nhà nước năm 2010, dự toán ngân sách nhà nước năm 2011 với các Bộ, cơ quan Trung
ương và 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, dự toán ngân sách nhà nước năm
2011 như sau:
 Dự toán thu ngân sách nhà nước năm 2011: 595,000 tỷ đồng, tăng 12.7% so
với ước thực hiện năm 2010
o Thu nội địa từ hoạt động sản xuất - kinh doanh (không kể thu tiền sử dụng
đất): 352,000 tỷ đồng, tăng 19.3% so ước thực hiện năm 2010. Trong đó, dự toán thu
từ khu vực kinh tế quốc doanh tăng 19.9%; thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài tăng 19.8%; thu từ khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh tăng
22.2%; thu thuế thu nhập cá nhân tăng 23.7% so với ước thực hiện năm 2010.
o Thu tiền sử dụng đất: 30,000 tỷ đồng. Trong đó 11 địa phương thu trên 5,000
tỷ đồng, tăng 01 địa phương so với ước thực hiện năm 2010 (Khánh Hoà); 29 địa

phương thu đạt từ 1,000 – 3,000 tỷ đồng, tăng 04 địa phương so với ước thực hiện năm
2010 (Sơn La, Quảng Bình, Phú Yên, Kon Tum); 12 địa phương thu đạt từ 500 – 1,000
tỷ đồng; chỉ còn 05 địa phương thu dưới 500 tỷ đồng, giảm 01 địa phương (Ninh
Thuận) so với ước thực hiện năm 2010.
o Dự toán thu dầu thô: Dự kiến đạt 69,300 tỷ đồng, trên cơ sở dự kiến sản lượng
đạt 14.02 triệu tấn, giá bình quân đạt 77 USD/thùng.
22
o Thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu: 180,700 tỷ đồng, tăng 12.4% so với
ước thực hiện năm 2010
Trên cơ sở đó, dự toán thu ngân sách nhà nước năm 2011 từ hoạt động xuất nhập
khẩu là 180,700 tỷ đồng, tăng 12.4% so với ước thực hiện năm 2010, trong đó thu từ
thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu là 80,400 tỷ đồng, tăng
12%; dự toán thu từ thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu là 100,300 tỷ đồng, tăng
12.7% so với ước thực hiện năm 2010. Sau khi trừ đi số chi hoàn thuế theo chế độ năm
2011 dự kiến là 42,000 tỷ đồng, thì dự toán thu cân đối ngân sách nhà nước từ hoạt
động xuất nhập khẩu năm 2011 là 138,700 tỷ đồng, tăng 14% so với ước thực hiện năm
2010.
o Thu viện trợ không hoàn lại: 5,000 tỷ đồng, bằng dự toán năm 2010.
 Dự toán chi ngân sách nhà nước năm 2011: 725,600 tỷ đồng
o Dự toán chi đầu tư phát triển: 152,000 tỷ đồng, tăng 21.1% (26,500 tỷ
đồng) so dự toán năm 2010, chiếm 20.9% tổng chi ngân sách nhà nước để thực hiện
các nhiệm vụ đảm bảo an sinh xã hội và phát triển kinh tế.
o Dự toán chi trả nợ, viện trợ: Bố trí 86,000 tỷ đồng, tăng 22.4% so dự
toán năm 2010, chiếm 11.9% tổng chi ngân sách nhà nước để đảm bảo chi trả các
khoản nợ trong và ngoài nước đến hạn.
o Dự toán chi thường xuyên: 442,100 tỷ đồng, tăng 18.1% so với dự toán
năm 2010 (đã tính đủ tiền lương 12 tháng theo mức tiền lương tối thiểu 730,000
đồng/tháng), chiếm 60.9% tổng chi ngân sách nhà nước; kể cả chi điều chỉnh tiền
lương trong năm 2011 thì chiếm 64.6% tổng chi ngân sách nhà nước.
o Dự toán chi thực hiện cải cách tiền lương: 27,000 tỷ đồng, chiếm 3.7%

tổng chi ngân sách nhà nước để từ 01-5-2011 thực hiện điều chỉnh tiền lương tối thiểu
từ 730,000 đồng/tháng lên mức 830,000 đồng/tháng (tăng 13.7%), lương hưu và trợ
cấp ưu đãi người có công tăng bằng tốc độ tăng lương tối thiểu; thực hiện chế độ phụ
23
cấp công vụ với mức 10%; thực hiện phụ cấp thâm niên ngành giáo dục theo Nghị
quyết của Quốc hội.
o Dự toán chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính địa phương: 100 tỷ đồng.
o Dự phòng ngân sách nhà nước: Bố trí 18,400 tỷ đồng, bằng 2.6% tổng
chi ngân sách nhà nước.
 Để phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và khả năng trả nợ trong năm
tới, Chính phủ đã trình Quốc hội quyết định mức bội chi ngân sách nhà nước năm 2011
là 120,600 tỷ đồng, bằng 5.3% GDP.
Năm 2011, tình hình kinh tế nước ta diễn ra trong bối cảnh đầy biến động. Mặc
dù còn có những yếu kém, bất cập trong quản lý, điều hành, nhưng với sự nỗ lực phấn
đấu vượt bậc, nền kinh tế nước ta đã ứng phó có kết quả với diễn biến phức tạp của
tình hình, đạt được nhiều thành tựu quan trọng; đặc biệt là về tài chính, tiền tệ. Cụ thể,
tổng thu ngân sách nhà nước năm 2011 ước tính đạt 674.5 nghìn tỷ đồng, bằng 113.4%
dự toán năm và tăng 20.6% so với năm 2010 (vượt mục tiêu đề ra trong Nghị quyết số
11 của Chính phủ là tăng 7-8%). Tổng chi ngân sách nhà nước năm 2011 ước tính 796
nghìn tỷ đồng. Bội chi ngân sách nhà nước bằng 4.9% GDP (thấp hơn kế hoạch đề ra,
là 5.3%). Tổng phương tiện thanh toán năm 2011 ước tính tăng 10% so với tháng
12/2010 (kế hoạch là 15-16%); tổng dư nợ tín dụng tăng 12% (kế hoạch là dưới 20%).
• Năm 2012:
STT Chỉ tiêu Dự toán
(Tỷ đồng)
A TỔNG THU CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 740.500
1 Thu nội địa 494.600
2 Thu từ dầu thô 87.000
3 Thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu 153.900
4 Thu viện trợ 5.000

B
THU CHUYỂN NGUỒN NGÂN SÁCH TRUNG ƯƠNG
NĂM 2011 SANG NĂM 2012
22.400
24
C TỔNG CHI CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 903.100
1 Chi đầu tư phát triển 180.000
2 Chi trả nợ và viện trợ 100.000
3 Chi thường xuyên 542.000
4 Chi thực hiện cải cách tiền lương 59.300
5 Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính 100
6 Dự phòng 21.700
D BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 140.200
Tỷ lệ bội chi so GDP 4,8%
Bảng cân đối dự toán ngân sách nhà nước năm 2012
Theo thông tin từ Bộ Tài chính, bội chi ngân sách chín tháng năm 2012 là hơn
122,000 tỷ đồng, bằng hơn 87% dự toán cả năm. Cụ thể, theo báo cáo tại Hội nghị giao
ban trực tuyến của Bộ Tài chính về tình hình thực hiện chương trình công tác tháng 9
được tổ chức ngày 3-10-2012, tổng thu ngân sách tính tới hết tháng chín là hơn
498,000 tỷ đồng, bằng 67.3% dự toán cả năm. Nếu chỉ tính riêng tháng chín, con số
này là hơn 48,000 tỷ đồng. Tuy nhiên, báo cáo cũng cho thấy, tổng chi ngân sách trong
chín tháng năm nay đã là hơn 643,000 tỷ đồng, tăng 14.5% so với cùng kỳ năm 2011.
Nếu chỉ tính tháng chín, số chi ngân sách ước đạt hơn 73,000 tỷ đồng. Như vậy, bội chi
ngân sách Nhà nước lũy kế chín tháng là hơn 122,000 tỷ đồng; trong đó riêng tháng
chín, con số này khoảng gần 24,500 tỷ đồng.
Theo dự báo kinh tế thế giới năm 2012, tình hình kinh tế năm 2012 sẽ phải đối
mặt với không ít khó khăn, thách thức; đặc biệt là về tài chính, tiền tệ. Cụ thể, thâm hụt
ngân sách và nợ công tăng ở nhiều nước: EU, Mỹ, Nhật Bản đã đe dọa sự ổn định
của nền kinh tế thế giới. Cùng với những khó khăn đó, sự tăng trưởng chậm lại và lạm
phát gia tăng ở những nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ ; những bất ổn về

chính trị, xung đột khu vực, tranh chấp lãnh thổ sẽ trở thành rào cản cho sự phát triển
ấy. Trong bối cảnh đó, ở nước ta, các giải pháp, chính sách về kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô đã bước đầu phát huy hiệu quả; điển hình là bội chi ngân sách nhà
25

×