Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Mối quan hệ của bội chi ngân sách nhà nước và lạm phát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.68 KB, 44 trang )

MỤC LỤC
Danh mục bảng biểu.
Bảng 1.1: Tóm tắt nội dung cân đối ngân sách nhà nước hằng năm.
Bảng 2.1 Chỉ tiêu dự toán năm 2008.
Bảng 2.2 Chỉ tiêu dự toán năm 2009.
Bảng 2.3 Chỉ tiêu dự toán năm 2010.
Bảng 2.4 Chỉ tiêu dự toán năm 2011.
Bảng 2.5 Chỉ tiêu dự toán năm 2012.
Bảng 2.6 Chỉ tiêu dự toán năm 2013.
Danh mục hình vẽ.
Hình 1.1 Lạm phát do cầu kéo.
Hình 1.2 Lạm phát do chi phí đẩy.
Hình 1.3 Tiền bù đắp thâm hụt Ngân sách Nhà nước từ năm 1984-1990.
Hình 2.1 CPI năm 2008(%).
Hình 2.2 CPI năm 2009(%).
Hình 2.3 CPI năm 2010(%).
Hình 2.4 CPI năm 2011(%)
Hình 2.5 CPI năm 2012(%)
Hình 2.6 CPI năm 2013(%)
Danh mục các từ viết tắt.
NSNN - Ngân sách Nhà nước.
CPI – Chỉ số giá tiêu dùng.
NHNN – Ngân hàng Nhà nước.
Lời mở đầu
Lạm phát ở Việt Nam hiện nay là một vấn đề mang tính thời sự hết sức nóng bỏng,
được sự quan tâm đặc biệt của tất cả mọi người.Bởi vì,lạm phát liên quan đến nhiều vấn
đề quan trọng như tài chính,tiền tệ,ngân hàng,liên quan đến điều hành nhiều bộ ngành,
liên
quan trực tiếp đến đời sống của người dân Kể từ năm 2004 đến nay,lạm phát đã trở
thành một hiện tượng kinh niên tức là ở mức cao trên 8%.Trong những năm gần đây
nhất,tình trạng lạm phát ở nước ta luôn ở mức rất cao.Thực sự,tình trạng lạm phát ở


nước ta trong những năm trở lại đây luôn ở mức báo động và đáng lo ngại.Nền kinh
tế mà nước ta lựa chọn là nền kinh tế thị trường định hướng dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng dân chủ và văn minh, tăng trưởng kinh tế phải gắn với phát triển xã hội,
với con người.
Lạm phát gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho người dân xã hội .Lạm phát trước
đây làm cho mọi người đều thiệt hại vì mọi người cùng nghèo, lạm phát bây giờ
sẽ làm cho người nghèo khổ hơn.
Chính vì vậy, tình trạng lạm phát ở nước ta hiện nay đã và đang đặt ra đòi hỏi làm
thế nào để kiểm soát được lạm phát, đưa tỷ lệ lạm phát xuống thấp ở mức có thể chấp
nhận được. Có nhiều nguyên nhân gây ra lạm phát, nhưng trong báo cáo này, tôi
chỉ tập trung vào phân tích mối quan hệ giữa bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) với
lạm phát ở nước ta hiện nay, nhằm tìm ra một số giải pháp ổn đinh kinh tế vĩ mô của
nền kinh tế.
Do kiến thức còn hạn hẹo nên bài viết còn nhiều sai sốt , mong thầy cô và các
bạn bỏ qua.
SVTH: Ngô Tấn Phú_12NH_Khoa Kinh Tế Page 3/43
Chương I : Một số lí luận cơ bản về bội chi Ngân sách Nhà
nước và lạm phát .
1.1 Những vấn đề cơ bản của bội chi Ngân sách Nhà nước.
1.1.1 Khái niệm Ngân sách Nhà nước và bội chi Ngân sách Nhà nước.
- Căn cứ luật ngân sách số 01/2002/QH11 ngày 16/12/2002, được sửa đổi và có
hiệu lực từ 01/01/2004 thì Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà
nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong
một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
- Như ta đã biết Ngân sách Nhà nước bao gồm thu Ngân sách Nhà nước và chi
Ngân sách Nhà nước người ta so sánh giữ thu và chi Ngân sách nhà nước để biết Ngân
sách nhà nước thâm hụt hay thăng dư. Bội chi Ngân sách Nhà nước trong một thời kỳ
(1 năm, 1 chu kỳ kinh tế) là khi chi Ngân sách Nhà nước lớn hơn thu Ngân sách Nhà
nước. Bội chi Ngân sách Nhà nước có thể do ngoài tầm kiểm soát nhưng cũng có thể
nằm trong chiến lược phát triển kinh tế của chính phủ nhằm thực hiện chính sách kinh

tế vĩ mô.
- Theo thông lệ quốc tế, có thể tóm tắt báo cáo về Ngân sách Nhà nước hằng năm
như sau:
Bảng1 : Tóm tắt nội dung cân đối ngân sách nhà nước hằng năm.
Tổng thu Tổng chi
A. Thu thường xuyên (thuế, phí, lệ phí).
B. Thu về vốn (bán tài sản nhà nước).
D. Chi thường xuyên.
E. Chi đầu tư.
F. Cho vay thuần (= cho vay mới - thu
nợ gốc).
C. Bù đắp thâm hụt
- Viện trợ.
- Lấy từ nguồn dự trữ.
- Vay thuần (= vay mới – trả nợ gốc).
SVTH: Ngô Tấn Phú_12NH_Khoa Kinh Tế Page 4/43
Nguyên tắc cân bằng ngân sách là: A + B +C = D + E + F
Công thức tính bội chi ngân sách của nhà nước trong một năm như sau :
Bội chi Ngân sách Nhà nước = Tổng chi - Tổng thu = (D + E + F) - (A + B) = C
(khoản bù đắp thâm hụt).
Nguyên nhân của bội chi ngân sách nhà nước .
- Có 2 nhóm nguyên nhân cơ bản gây ra bội chi Ngân sách Nhà nước :
+ Do tác động của chu kỳ kinh doanh .
Khủng hoảng làm cho thu nhập của Nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng lên
nhằm giải quyết những khó khăn mới về kinh tế và xã hội. Điều đó làm cho mức bội
chi ngân sách nhà nước tăng lên. Ở giai đoạn kinh tế phồn thịnh, thu của Nhà nước sẽ
tăng lên, trong khi chi không phải tăng tương ứng. Điều đó làm giảm mức bội chi ngân
sách nhà nước. Mức bội chi do tác động của chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là bội
chi chu kỳ.
+ Do tác động cơ cấu thu chi của Nhà nước

- Khi Nhà nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ làm
tăng mức bội chi ngân sách nhà nước. Ngược lại, thực hiện chính sách giảm đầu tư và
tiêu dùng của Nhà nước thì mức bội chi Ngân sách Nhà nước sẽ giảm bớt. Mức bội chi
do tác động của chính sách cơ cấu thu chi gây ra được gọi là bội chi cơ cấu. Trong
điều kiện bình thường (không có chiến tranh, không có thiên tai lớn, ), tổng hợp của
bội chi chu kỳ và bội chi cơ cấu sẽ là bội chi Ngân sách Nhà nước .
1.1.2. Phân loại Chi NSNN:
Việc phân loại Chi NSNN nhằm các mục đích sau
đây:
- Giúp cho chính phủ thiết lập được các chương trình hành
động.
- Tăng cường tính hiệu quả trong việc thi hành ngân sách nói chung và Chi
NSNN
nói riêng.
- Quy định tính trách nhiệm trong việc phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính
nhà
nước.
- Cho phép phân tích ảnh hưởng từ những hoạt động tài chính của chính phủ
đối với
nền
kinh
tế.
- Căn cứ vào chức năng vĩ mô của nhà nước, Chi NSNN được chi cho các hoạt
động:
SVTH: Ngô Tấn Phú_12NH_Khoa Kinh Tế Page 5/43
 Chi quản lý hành
chính
 Chi cho hệ thống quân đội và an ninh xã
hội
 Chi cho các chính sách đặc biệt: thương binh liệt sĩ, mẹ Việt Nam anh hùng,

viện trợ
nước
ngoài, ngoại giao, chính
trị,
 Chi giáo dục y
tế
 Chi xây dựng hạ
tầng
 Chi
khác
- Căn cứ vào tính chất kinh tế, Chi NSNN được chia ra
thành:
 Chi thường xuyên: đây là nhóm chi phát sinh thường xuyên, cần thiết cho
hoạt động
của
các đơn vị khu vực công. Nó bao gồm các khoản chi lương, chi
nghiệp vụ, chi quản lý cho
các
hoạt
động:
• Sự nghiệp kinh tế, giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học và công nghệ, y
tế, văn
hoá,
nghệ thuật, thể dục thể
thao.
• Chi hành chính: bao gồm các khoản chi lương cho đội ngũ công chức nhà
nước; các
khoản
chi lương cho đội ngũ công chức nhà nước, các khoản chi hàng hoá
để đáp ứng nhu cầu hoạt

động
của bộ máy nhà
nước.
• Chi chuyển giao: bao gồm các khoản chi cứu tế xã hội, an sinh xã hội, bảo
hiểm xã hôi,
các
khoản trợ
cấp.
• An ninh, quốc
phòng,…
 Chi đầu tư phát triển: đây là nhóm các khoản chi gắn liền với chức năng kinh tế
của
nhà
nước. Bao
gồm:
• Chi xây dựng các công trình thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, ưu tiên cho
những
công
trình không có khả năng thu hồi
vốn.
• Đầu tư, hỗ trợ cho các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực cần có sự tham gia
quản lý và
điều
tiết của nhà
nước.
• Chi hỗ trợ cho các quỹ hỗ trợ tài chính của chính
phủ.
• Chi dự trữ nhà
nước.
Công dụng của phân loại theo tính chất kinh tế là cung cấp những thông tin hữu

ích về
ảnh
hưởng của chính sách Chi NSNN đối với mọi hoạt động của nền kinh tế -
xã hội. Cách phân
loại
này là điều kiện tất yếu giúp cho chính phủ thiết lập các
chương trình chi tiêu và kết hợp hài
hoà
giữa các nhóm chi đầu tư và chi thường
SVTH: Ngô Tấn Phú_12NH_Khoa Kinh Tế Page 6/43
xuyên nhằm nâng cao hiệu quả Chi NSNN
.
- Căn cứ vào quy trình lập ngân sách: Chi NSNN được phân chia ra
thành:
 Chi NSNN theo các yếu tố đầu vào: cách phân chia này sẽ dựa vào sự liệt kê
các
khoản
mục mua sắm các phương tiện cần thiết cho hoạt động của các cơ quan,
đơn vị để qua đó
chính
phủ xác lập mức kinh phí tài trợ. Thông thường có các
khoản mục cơ bản như là: chi mua tài
sản
cố định; chi mua tài sản lưu động, chi tiền
lương và các khoản phụ cấp, chi bằng tiền
khác.
 Chi NSNN theo các yếu tố đầu ra: mức kinh phí phân bổ cho một cơ quan, đơn
vị
không
căn cứ vào các yếu tố đầu vào mà dựa vào khối lượng công việc kết quả

đầu ra và kết quả
tác
động đến mục tiêu hoạt động của đơn
vị.
1.1.3. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến Chi NSNN:
Sự gia tăng Chi NSNN được đặt trên hai nền tảng
sau:
- Sự phát triển về vai trò của chính phủ trong nền kinh
tế.
Sở dĩ Chi NSNN có sự tăng lên nhanh chóng là vì vai trò của chính phủ ngày
càng
được
mở rộng. Sự mở rộng này là do chính phủ phải gánh vác thêm những
nhiệm vụ mới. Thật là
khó
tin rằng khu vực tư nhân sẽ cung cấp những hàng hoá
công cho xã hội với cơ chế “ người
hưởng
tự do không phải trả tiền”. Thêm vào đó,
sự phát triển của nền kinh tế sẽ có nhu cầu mới xuất
hiện
mà khu vực tư sẽ không thể
tham gia vì không có lời hoặc không đủ nguồn lực để thực hiện
hoạt
động sản xuất.
Vì vậy, chính phủ cần có sự can thiệp và tham gia vào việc sản xuất những
loại
hàng hoá
đó.
Sự gia tăng Chi NSNN còn bắt nguồn từ sự thay đổi phong tục và tư tưởng mà

các
nhà
kinh tế gọi đó là sự “xã hội hoá các rủi ro”. Đáng lý ra mỗi cá nhân trong xã
hội phải cố gắng
đối
phó với mọi rủi ro bằng cách phòng ngừa, lo xa của riêng
mình, nhưng do không đủ khả
năng
hoặc không nhận thức được đầy đủ trách nhiệm,
nên dần dần người ta đã chuyển sang vai của
nhà
nước. Nghĩa là, chính phủ phải
đứng ra bảo hiểm, phụ cấp lương và tái phân phối các gánh
nặng
đó cho toàn thể xã
hội để đảm bảo mức sống tối thiểu cho mỗi công
dân.
- Sự thay đổi quan niệm tổng quát về Ngân sách Nhà nước
Sự thay đổi quan niệm về Ngân sách Nhà nước đã làm thay đổi không nhỏ quy mô
Chi NSNN
.
Trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, theo quan điểm của các
SVTH: Ngô Tấn Phú_12NH_Khoa Kinh Tế Page 7/43
nhà kinh tế học cổ
điển
thì mục đích cơ bản nhất của Ngân sách Nhà nước là cung cấp
cho chính phủ đủ tiền để duy trì sự
hoạt
động của bộ máy quản lý hành chính, an ninh,
quân đội. Trái lại, trong nền kinh tế thị trường

hiện
đại, các nhà kinh tế cho rằng Ngân
sách Nhà nước là công cụ để chính phủ quản lý kinh tế, khắc
phục
những khuyết tật
của thị trường. Chi NSNN không chỉ đơn thuần tài trợ cho các hoạt động
hành
chính
mà còn tài trợ cho các hoạt động kinh tế, đảm bảo sự cân bằng kinh tế vĩ mô và ổn
định

hội. Sự gia tăng Chi NSNN có thể là một giải pháp hữu hiệu để vực dậy
một nền kinh tế
đang
suy
thoái.
Sự gia tăng Chi NSNN có ảnh hưởng đến sự tái phân phối nguồn lực giữa khu vực
công

khu vực tư. Vấn đề đặt ra là có nên giới hạn quy mô Chi NSNN hay
không?
Các nhà kinh tế cổ điển đưa ra chủ trương là cần đặt một giới hạn tối đa cho Chi
NSNN
.
Theo họ, bất kỳ một khoản phí nào nộp cho khu vực công cũng là một gánh
nặng cho quốc
gia.
Thật ra quan điểm này hoàn toàn không đúng. Người dân nộp thuế
cho nhà nước, đáp lại họ
được

hưởng thụ rất nhiều lợi ích mà Chi NSNN mang lại
như chăm sóc y tế, giáo dục, bảo hiểm

hội, các tiện ích từ cơ sở hạ tầng, đó là
còn chưa kể đến những khoản thu nhập mà chính
phủ
chuyển giao cho người
nghèo, góp phần cải thiện cuộc sống xã hội. Nói như vậy không có
nghĩa
là Chi
NSNN không giới hạn. Chính phủ cũng không thể mở rộng quy mô Chi NSNN
đến
100% GDP. Sự thất bại của cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây ở các nước
thuộc khối xã
hội
chủ nghĩa là một minh chứng điển hình. Lý thuyết kinh tế học hiện
đại cho rằng nền kinh tế
muốn
phát triển ổn định cần có sự phối hợp giữa bàn tay
chính phủ và bàn tay thị trường trong quá
trình
tái phân phối thu nhập. Điều đó có
nghĩa là, quy mô Chi NSNN nên có sự giới hạn nhất
định.
Nhưng giới hạn ở quy mô
nào thì cho đến nay các nhà kinh tế cũng chưa đưa ra câu trả lời
chính
xác. Thay vào
đó các nhà kinh tế thường nêu ra sự giới hạn Chi NSNN trên các khía cạnh:
trong

Chi
NSNN có một vài khoản chi cần phải được tiết kiệm và hạn chế như chi phí hành
chính
thuần tuý hoặc những hoạt động của khu vực công mà sự quản lý không hiệu
quả so với hoạt
động
của khu vực tư tương đương thì những hoạt động này nên
chuyển giao sang cho khu vực tư.
Bên
cạnh đó, họ cho rằng sự giới hạn Chi NSNN
cần có linh hoạt theo chu kỳ kinh tế. Khi nền
kinh
tế bị suy thoái, cần tăng chi tiêu
để thúc đẩy kinh tế phát triển; ngược lại nền kinh tế trong
giai
đoạn hưng thịnh thì
SVTH: Ngô Tấn Phú_12NH_Khoa Kinh Tế Page 8/43
cần phải cắt giảm quy mô Chi NSNN
.
1.1.4 Các giải pháp quản lí chi Ngân sách Nhà nước
- Ngân sách Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế cũng như
trong việc đảm bảo an ninh quốc phòng… vì Ngân sách Nhà nước giúp Nhà nước thực
hiện những chức năng nhiệm vụ của mình trong việc điều tiết nền kinh tế và xã hội.
- Vai trò của việc thu Ngân sách Nhà nước và chi Ngân sách Nhà nước rất quan
trọng. Vì nếu bội thu Ngân sách Nhà nước dẫn đến tình trạng thừa tiền gây lạm phát,
còn bội chi thì trong một mức độ nào đó cũng không tốt cho nền kinh tế.
- Hầu hết các quốc gia từ cường quốc cho đến quốc gia phát triển đều xảy ra tình
trạng bội chi ngân sách nhà nước tùy theo mức độ khác nhau. Việc chi ngân sách nhà
nước đóng vai trò quyết định cho việc cung cấp những phương tiện duy trì hoạt động
của bộ máy Nhà nước, ảnh hưởng đến sản xuất, nguồn nhân lực, hay đảm bảo đời sống

xã hội cho mọi người…
- Chính vì vai trò quan trọng như vậy , các Quốc gia cần có những giải pháp công
việc quản lý nguồn chi Ngân sách Nhà nước.
- Trong tình hình kinh tế khó khăn hiện nay, quản lý và sử dụng hợp lý Ngân sách
nhà nước cân đối giữa thu và chi có tác dụng vô cùng quan trọng, sẽ góp phần kiềm
chế lạm phát, chống suy giảm kinh tế, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, góp phần ổn định
kinh tế vĩ mô. Nếu muốn việc chi ngân sách nhà nước có hiệu quả và thực hiện được
thì thu ngân sách nhà nước cần phải đạt mức dự toán đề ra để tạo nguồn ngân quỹ cho
việc chi ngân ngân sách nhà nước,chi hiệu quả và tiết kiệm. Ta có thể có những giải
pháp sau:
- Tiếp tục rà soát, hoàn thiện cơ chế chính sách thu, tăng cường công tác quản
lý thu Ngân sách Nhà nước, tập trung chống thất thu, xử lý nợ đọng thuế, phấn đấu
hoàn thành ở mức cao nhất dự toán thu Ngân sách Nhà nước.
- Rà soát, hoàn thiện các cơ chế, chính sách thu theo hướng vừa khuyến khích sản
xuất trong nước và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, vừa động viên hợp lý nguồn thu,
chống thất thu ngân sách.
- Tăng cường sự chỉ đạo, điều hành các cấp chính quyền địa phương trong việc phối
hợp với các ngành để nâng cao chất lượng công tác quản lý thu ngân sách.
SVTH: Ngô Tấn Phú_12NH_Khoa Kinh Tế Page 9/43
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế, kết hợp thanh tra, kiểm tra thực hiện
pháp luật về giá; kiểm soát việc kê khai thuế, quyết toán thuế của các doanh nghiệp, tổ
chức, cá nhân để thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các khoản thuế, phí, lệ phí và thu khác
vào ngân sách nhà nước.
- Tăng cường kiểm soát chi Ngân sách Nhà nước, bảo đảm tiết kiệm, chặt chẽ và
hiệu quả.
- Chủ động rà soát, sắp xếp lại các nhiệm vụ chi thường xuyên; cắt giảm hoặc lùi
thời gian thực hiện các nhiệm vụ chi chưa thực sự cấp thiết, các khoản chi mua sắm
trang thiết bị, xe ô tô; hạn chế tối đa tổ chức hội nghị, hội thảo quốc gia, lễ khởi công,
khánh sách nhà nước nói chung và chi thường xuyên nói riêng. Bên cạnh đó phải giảm
bớt chi tiêu thành, công bố quyết định…

- Tiết giảm tối thiểu 20% chi phí điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu…
- Đảm bảo nguồn thực hiện các chế độ, chính sách đã ban hành và chinh sách an
sinh xã hội, hạn chế tối đa bổ sung kinh phí ngoài dự toán.
1.1.5 Tác động của bội chi Ngân sách Nhà nước đến nền kinh tế.
- Tình trạng bội chi ngân sách Nhà nước có những ảnh hưởng hết sức rộng lớn trên tất
cả các lĩnh vực, các hoạt đông kinh tế xã hội.
Thâm hụt ngân sách Nhà nước với một mức
cao và triền miên sẽ làm cho Nhà nước phải tìm cách tăng các khoản thu, điều này ảnh
hưởng không nhỏ đến đời sống của người dân, hơn nữa khi đó các nguồn vốn trong
các
ngân hàng sẽ trở nên khan hiếm hơn điều đó sẽ dẫn đến tình trạng lãi suất tăng cao,
điều này gây ra những trở ngại trong việc vay vốn của các nhà đầu tư.Về lâu về dài
thì sẽ dẫn đến tình trạng đầu tư sẽ giảm sút nghiêm trọng, sẽ có nhiều doanh nghiệp
bị phá sản do không tìm được những khoản vay thích hợp,
sản xuất trong nước bị thu nhỏ
lại từ đó sẽ tạo điều kiện thúc đẩy quá trình nhập siêu, cán cân thương mại quốc tế
mất cân bằng.
- Những điều này dẫn đến tình trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng, thu nhập
thực tế của người dân giảm sút và ngày càng gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống.
SVTH: Ngô Tấn Phú_12NH_Khoa Kinh Tế Page 10/43
Mặt khác khi xảy ra tình trạng bội chi ngân sách Nhà nước cũng là nguyên nhân chủ yế
u dẫn đến lạm phát cao.Bởi lẽ khi có thâm hụt ngân sách thì một biện pháp mà chính
phủ haydùng là phát hành tiền để bù đắp ngân sách, mà khi tiền được tạo ra một
cách quá mức
như thế thì sẽ dẫn đến lạm phát tăng cao, mà nếu như Chính phủ phát hành trái
phiếu ra công chúng để thu hút vốn, bù đắp cho phần thiếu hụt thì trong một thời dài
sẽ làm cho cầu về vốn tăng, do đó lãi suất tăng và cung tiền tệ sẽ tăng. Hơn nữa
khi mà hiện
nay nước ta đang trong quá trình xây dựng và phát triển, rất cần sự ủng hộ,
giúp đỡ của

người dân trong nước cũng như bạn bè thế giới. Nếu như mà chúng ta không biết cách
quản lí nguồn vốn, nền tài chính cũng như ngân sách quốc gia cho tốt thì dần
dần sẽ gây mất
lòng tin của người dân cũng như của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Họ đầu tư càng ngày càng ít hơn, dẫn đến nước ta đã thiếu vốn để xây dựng đất
nước nay lại càng thiếu hơn, những mục tiêu tốt đẹp mà chúng ta đã đề ra sẽ khó mà
có thể trở thành hiện thực được
1.2 Những vấn đề cơ bản về lạm phát.
1.2.1 Khái niệm về lạm phát.
- Trong kinh tế học, thuật ngữ “lạm phát” được dùng để chỉ sự tăng lên theo thời gian
của mức giá chung hầu hết các hàng hoá và dịch vụ so với thời điểm một năm trước đó.
Như vậy tình trạng lạm phát được đánh giá bằng cách so sánh giá cả của một loại hàng
hoá vào hai thời điểm khác nhau, với giả thiết chất lượng không thay đổi.
- Tỷ lệ lạm phát được tính rộng rãi bằng cách tính tóa sự di chuyển hoặc thay đổi trong
chỉ số giá , thường là chỉ số giá tiêu dung.
- Các chỉ số giá khác được sử dụng rộng rãi cho việc tính toán lạm phát giá cả bao gồm:
+ Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo lường sự thay đổi trung bình trong giá nhà sản
xuất trong nước nhận được cho đầu ra của họ. Điều nay khác với chỉ số CPI trong đó
trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thẻ làm cho số tiền nhận của nhà sản xuất khác với
người tiêu dung trả.Ngoài ra còn thường có một sự chậm trễ giữ sự gia tăng chỉ số PPI
và bất kỳ sự gia tăng cuối nào trong chỉ số CPI. Chỉ số giá sản xuất đo áp lực được đưa
SVTH: Ngô Tấn Phú_12NH_Khoa Kinh Tế Page 11/43
vào sản xuất do chi phí nguyên liệu của họ. Điều này có thể “truyền” được cho
người tiêu dung hoặc nó có thể được hấp thụ bởi lợi nhuận, hoặc bù đắp bởi năng
suất ngày càng tăng.Ở Ấn Độ và Hoa Kỳ, một phiên bản cũ của PPI được gọi là chỉ
số giá bán buôn
+ Chỉ số giá hàng hóa, đo lường giá của một lựa chọn các mặt hang. Hiện nay
chỉ số giá hang hóa đước gia quyển bằng tầm quan trong tương đối của các thành phần
đối với chi phí “ tất cả trong” một công nhân .
+ Chỉ số giá cơ bản: vì giá thực phẩm và dầu có thể thay đổi nhanh chóng do sự

thay đổi trong điều kiện cung và cầu trong thị trường thực phẩm và dầu, nó có thể khó
phát hiện các xu hướng dài hạn trong mức giá khi những giá này được bao gồm. Vì
vậy hầu hết cơ quan thống kê cũng báo cáo một đo lường 'lạm phát cơ bản', trong đó
loại bỏ các thành phần dễ bay hơi nhất (như thực phẩm và dầu) khỏi một chỉ số giá
rộng như chỉ số CPI. Vì lạm phát cơ bản là ít bị ảnh hưởng bởi nguồn cung ngắn hạn
và điều kiện nhu cầu tại các thị trường cụ thể, các ngân hàng trung ương dựa vào nó để
đo lường tốt hơn các tác động lạm phát của chính sách tiền tệ hiện tại.
+ Chỉ số giảm phát là thước đo giá của tất cả các hàng hóa và dịch vụ bao gồm
trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
1.2.2 Phân loại lạm phát .
- Căn cứ vào tốc độ của lạm phát , lạm phát được chia làm 3 loại
+Lạm phát thấp hay còn gọi là lạm phát vừa phải: Là loại lạm phát xảy ra với
mức tăng trưởng chậm của giá cả, được giới hạn ở mức độ một con số hàng năm, có
nghĩa là chỉ số giá cả tăng dưới 10%/năm.
+Lạm phát phi mã: Là loại lạm phát xảy ra khi chỉ số giá cả hàng hóa biến động
mạnh,tăng từ hai con số trở lên hàng năm, có nghĩa là chỉ số giá cả tăng từ 10%/năm
đến 99%/năm.
+Lạm phát siêu tốc hay còn gọi siêu lạm phát: là loại lạm phát xảy ra khi chỉ số
giá cả hàng hóa biến động rất mạnh, tăng từ ba con số trở lên hàng năm, có nghĩa là
chỉ số giá cả tăng từ 100%/năm trở lên.
- Căn cứ vào nguyên nhân gây ra lạm phát, lạm phát được chia làm 3 loại :
+ Lạm phát do cầu kéo: Là lạm phát xảy ra khi nhu cầu hàng hóa tăng quá cao
vượt quá khả năng cung ứng hàng hóa của nền kinh tế.
SVTH: Ngô Tấn Phú_12NH_Khoa Kinh Tế Page 12/43
+ Lạm phát do chi phí đẩy: Là loại lạm phát xảy ra khi chi phí đầu vào cho một
đơn vị sản phẩm hàng hóa, dịch vụ tăng, làm cho giá thành sản phẩm tăng lên nên đẩy
giá cả hàng hóa tăng lên.
+ Lạm phát vốn có được gây ra bởi kỳ vọng thích nghi, và được lien kết với
“vòng xoáy giá/ lương”. Nó lien quan đến công nhân cố gắng giữ tiền lương của họ
với giá ( trên tỷ lệ lạm phát ), và các công ty chuyển đến những chi phí lao động cao

hơn này cho khách hang của họ như giá cao hơn, dẫn đến một “vòng luẩn quẩn”.
- Căn cứ vào tác động của lạm phát, lạm phát được chia làm 4 loại :
+ Lạm phát cân bằng và có thể dự đoán được: Là loại lạm phát xảy ra khi giá
cả tất cả các loại hàng hóa đều tăng cùng một tốc độ và có thể dự đoán trước được.
+ Lạm phát không cân bằng và có thể dự đoán: Là loại lạm phát xảy ra khi tất
cả các loại hàng hóa tăng không đều, nhưng có thể dự đoán trước được.
+ Lạm phát cân bằng và không thể dự đoán: Là loại lạm phát xảy ra khi giá cả
các loại hàn hóa tăng đều nhau nhưng bất ngờ và không thể dự đoán trước được.
+ Lạm phát không cân bằng và không thể dự đoán trược: Là loại lạm phát
xảy ra khi giá cả các loại hàng hóa tăng không đều nhau và bất ngờ, không dự đoán
trước được.
1.2.3 Nguyên nhân của lạm phát .
Theo quan điểm của hầu hết các nhà kinh tế lạm phát xuất phát từ các nguyên
nhân chủ yếu sau:
- Lạm phát do cầu kéo: Là loại lạm phát xảy ra do tổng cầu tăng lên, đặc biệt khi sản
lượng đã đạt đến mức sản lượng tiềm năng điều này được thể hiện bởi sự dịch chuyển
sang phải của tổng cầu (trong mô hình AD- AS). Để khắc phục, chính phủ phải thực
hiện các biện pháp thắt chặt chi tiêu, tăng thuế hoặc giảm cung tiền.Một số nguyên
nhân dẫn đến tổng cầu
+ Do bội chi ngân sách Nhà nước thường xuyên và kéo dài.
+Do việc kiểm soát khối lượng tiền trong lưu thông của ngân hàng trung ương
không chặt chẽ làm cho khối lượng tiền trong lưu thông vượt quá Ngoài ra, có thể do
các nguyên nhân về tâm lý, như ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng về chính trị,
quân sự, kinh tế hoặc do thiên tai như: động đất, bão, núi lửa, sụt bùn, lở núi,…làm
SVTH: Ngô Tấn Phú_12NH_Khoa Kinh Tế Page 13/43
cho dân chúng hoang mang đổ xô đi mua vét hàng hóa, làm sức cầu hàng hóa gia tăng
nhanh chóng, kéo giá cả + Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian.
+ Do chất lượng tín dụng kém, không thu hồi được vốn, làm mất cân đối quan
hệ tiền hàng.
+ Do tiền lương tăng quá cao, tạo sức cầu hàng hóa lớn, vượt quá khả năng

cung ứng hàng hóa của nền kinh tế.

Hình 1.1 Lạm phát do cầu kéo
Bắt đầu với trạng thái cân bằng ban đầu trong dài hạn, tại đó đường LAS cắt
đường SAS và AD
0
ở mức giá P
0
. Sự gia tăng tổng cầu từ AD
0
đến AD
1
làm mức giá
tăng từ P
0
lên P
1
và GDP thực tăng từ Y
p
đến Y
1
.
- Lạm phát do chi phí đẩy: là loại lạm phát xảy ra do cú sốc cung bất lợi, ví dụ do giá
cả các yếu tố đầu vào tăng. Trong nền kinh tế, giá cả sẽ tăng đồng thời thất nghiệp cao
do các doanh nghiệp thu hẹp sản xuất Do vậy nó còn được gọi là lạm phát đình trệ.
SVTH: Ngô Tấn Phú_12NH_Khoa Kinh Tế Page 14/43

Hình 1.2 Lạm phát do chi phí đẩy .
- Lạm phát dự kiến: Là loại lạm phát xảy ra do mọi người đã dự tính trước. khi đó, giá
cả trong nền kinh tế tăng theo quán tính. Trong trường hợp này cả đường AS và AD

đều dịch chuyển dần lên phía trên với cùng một tốc độ, giá cả sẽ tăng nhưng sản lượng
và việclàm không đổi.
1.2.4 Tác động của lạm phát .
- Tác động của lạm phát tới tăng trưởng kinh tế .
Lạm phát thường tác động ở cả hai mặt: Tích cực khi lạm phát thấp và tiêu cực khi lạm
phát ở mức phi mã hoặc siêu tốc.
+Có rất nhiều tranh luận xung quanh mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng
kinh tế. Các nhà kinh tế theo trường phái lập luận cho rằng lạm phát và tăng trưởng
kinh tế có quan hệ tỷ lệ thuận, nếu có tăng trưởng kinh tế tất có lạm phát. Có thể
khái quát lý thuyết này qua công thức đơn giản sau :
g = GDP
1
/GDP
0
= P
1
xQ
1
/P
0
xQ
o
Trong đó:
g - Tăng trưởng kinh tế.
GDP
1
- tổng sản phẩm quốc nội năm tính toán.
GDP
0
- Tổng sản phẩm quốc nội năm trước năm tính toán.

P
1
- Mức giá chung năm tính toán.
P
0
- Mức giá chung năm trước năm tính toán.
Q- Mức hàng hoá hiện vật năm tính toán.
SVTH: Ngô Tấn Phú_12NH_Khoa Kinh Tế Page 15/43
Q
0
- Mức hàng hoá hiện vật năm trước năm tính toán
Với lý luận này, ở một số nước đang phát triển, lạm phát được coi là yếu tố tích
cực để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Bởi lẽ lạm phát tăng tiết kiệm và đầu tư do chuyển
thu nhập từ những người làm công ăn lương sang tăng thu nhập của các nhà kinh
doanh lấy lãi. Và nếu giá tăng nhanh sẽ có xu hướng làm tăng khoản tiết kiệm
từ lợi nhuận cao hơn tăng khoản tiết kiệm từ tiền lương. Mức đầu tư và tiết kiệm thực tế
sẽ tăng lên.
Kết quả là đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, một số nhà kinh tế khác lại cho
rằng lạm phát làm mức lãi suất thực tế giảm, tạo ra mất cân bằng ở thị trường vốn.
Điều này làm cho cung nguồn vốn đầu tư
giảm, đầu tư tư nhân bị hạn chế. Do đó lạm phát đưa
đến lãi suất thực dương và mất cân bằng ở thị trường vốn, kết quả là đầu tư và tăng
trưởng kinh tế giảm.
- Tác động của lạm phát đến lãi suất .
Lãi suất và lạm phát có mỗi quan hệ khăng khít với nhau. Lãi suất là giá của tiền tệ, nên
lãi suất phải dương mới không làm đồng tiền mất giá. Muốn có lãi suất thực dương thì
lãi suất danh nghĩa phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát. Lãi suất thực dương bằng lãi suất danh
nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát và lớn hơn không. Lãi suất thực dương tăng thì lạm phát
giảm và lãi suất thực dương giảm thì lạm phát tăng. Nếu lãi suất dương quá ca
o sẽ đưa đến thiểu phát và làm giảm tốcđộ tăng trưởng kinh tế. Lãi suất thực dương

quá cao dẫn đến làm giảm đầu tư phát triển và có nguy cơ rủi ro cao đối với an toàn của
hệ thống ngân hàng vì lãi suất thực dương cao thì khảnăng kinh doanh có hiệu quả
cao để đủ có lãi và trả được nợ của các doanh nghiệp cho là rất khó khăn.Nguy cơ phá
sản và nợ không trả được cho ngân hàng của các doanh nghiệp là chắc chắn, nên các
ngân hàng cũng nằm trong khả năng phá sản lớn. Trong điều hành chính sách kinh tế
vĩ mô với mục tiêu nền kinh tế tăng trưởng cao, ổn định với tỷ lệ lạm phát ở mức vừa
phải thì phải áp dụng lãi suất thực dương nhưng không quá cao mà ở mức tỷ lệ lãi
suất dương với lạm phát khoảng 20%. Tuy nhiên để điều hành mức này không bị sai
lệch và lạc hậu khi tỉ lệ lạm phát thay đổi thì lãi suất danh nghĩa phải được điều
chỉnh linh hoạt, thường xuyên, có khi một tháng một lần theo chỉ số giá hang tiêu dùng
SVTH: Ngô Tấn Phú_12NH_Khoa Kinh Tế Page 16/43
hàng tháng. Nguyên tắc lãi suất thực dương bằng 20% tỷ lệ lạm phát một cách ổn định
còn lãi suất danh nghĩa thì lên xuống theo mức thay đổi của tỷ lệ lạm phát hàng tháng.
- Tác động làm kém hiệu quả của việc sử dụng nguồn lực như: làm biến dạng cơ cấu
đầu tư, làm suy yếu thị trường vốn, làm sai lệch tín hiệu của giá, làm phát sinh chi phí
điều chỉnh giá, làm lãng phí thời gian cho việc đối phó với tình trạng mất giá của tiền
tệ, làm giảm sức cạnh tranh với nước ngoài, kích thích người nước ngoài rút vốn về nước.
1.3 Mối quan hệ giữa bội chi Ngân sách Nhà nước và lạm phát .
- Ở Việt Nam trong giai đoạn 1986 – 1990, 59,7% mức thâm hụt ngân sách nhànước
được hệ thống Ngân hàng thanh toán bằng cách phát hành tiền. Số còn lại được bù đắp
bằng các khoản vay nợ và viện trợ của nước ngoài (so với bội chi, khoản vay và viện
trợ năm 1984 là 71,3%, năm 1985 là 40,8%, năm 1986: 38,4%, năm 1987: 32,1%, năm
1988: 32,6%, năm 1989: 24,9%, năm1990 là 46,7%) và một số nhỏ do các khoản thu
từ bán công trái trong nước.
SVTH: Ngô Tấn Phú_12NH_Khoa Kinh Tế Page 17/43
Hình 1.3 Tiền bù đắp thâm hụt Ngân sách Nhà nước từ năm 1984-1990
Nguồn : Báo chinhphu.vn
- Chính phủ tài trợ cho bộ i chi bằng cách đi vay hoặ c in thêm tiền. Chính phủ
cũng có thểtăng nguồn thu củ a mì nh b ằ ng cá ch tăng thuế, vay mượ n
và tă ng lượ ng cung tiề n có quyền lực cao. Nguồn thu của chính phủ

được sử dụng để chi cho hàng hóa và dịch vụ ,trả lãi nợ công. Thu nhậ p của
chính phủ nhận được từ tiền có quyền lực cao được gọ i là thuế đúc tiền. Việc chính
phủ dùng thuế đúc tiền có ý nghĩa là tài trợ cho bội chi cho thấysự liên quan giữa
giữ a bội chi ngân sách và lạ m ph á t. Lý thuyết kinh tế cho rằ n g sứ c
mạnh của sự liên kết giữa bội chi và lạm phát tùy thuộc vào việc chính sách tiền tệ có
lien quan đến chính sách tài khóa hay không. Ở những quốc gia mà thuế
đúc tiền là một bộ phận quan trọng của tài chính nhà nước thì bội chi có ảnh
hưởng mạnh đến lạm phát. Còn ở những nước chính sá ch tiền tệ đôc lậ p với chính
phủ bội chi ngân sách ảnh hưởng đếnlạm phát ít hơn.Một nghiên cứu gần đây
của Standley Fischer, Ratna Sahay và Carlos Vegh đã chia mộtmẫu g ồ m
24 quố c gia thà nh những nước lạ m phá t cao và nhữ ng nước lạ m phá t
thấ p. Những nước lạm phát cao đã trải qua ít nhất mộ t năm vớ i tỉ lệ lạm
phát vượt 100% từ năm 1960 đến 1995. Tỉ lệ lạm phát trung bình của cá c
quố c gia này và o khoảng 150%mỗi năm. Thuế đúc tiền trong GDP trung
bình vào khoảng 4% ở những nướ c lạ m phát cao và1.5% ở nước lạm phát
thấp. Những nước lạm phát cao dựa vào thuế đúc tiền nhiều hơn để tài trợ cho bội chi
ngân sách. Các tác giả nhận thấy rằng với những nước lạm phát cao, một sự xấu đi
trong cân bằng tài khóa được dự đoán đi kèm với sự tăng thuế đúc tiền hơn là ở
SVTH: Ngô Tấn Phú_12NH_Khoa Kinh Tế Page 18/43
những nước lạm phát thấ p. Các nhà nghiên cứu đã sử dụ ng phương phá p
chuẩn để cho thấy bội chi ảnh hưởng thế nào tới lạm phát khi chính phủ
phụ thuộc vào nguồnthu từ thuế đúc tiền và vay nợ. Họ nhận thấy rằng ở
những nước lạm phát cao, 10 điể m phần trăm giảm xuống trong cân bằng tài
khóa trong GDP có liên quan với 4.2% tăng lêntrong thuế đúc tiền. Còn ở những
nước lạm phát thấ p thì mối liên hệ giữa bội chi và thuế đúc tiền yếu hơn. Ở
những nước lạm phát cao trải qua thời kỳ lạm phát thấp thì mối liênquan giữa bội
chi ngân sách và lạm phát yếu đi rất nhanh.Một nghiên cứu của Luis Catao và Macro
Terrones vào năm 2003 sử dụng mẫu rộng hơn với 107 nước từ năm 1960 đến 2001
để thấy mối quan hệ giữa bội chi ngân sách nhà nước và lam phát. Ví dụ như thỉ lệ bội
chi trên GDP giảm 1% thì tỷ lệ lạm phát giảm 8.75%. Catao và Torrones cũ ng

tì m ra nhữ ng kế t quả tương tự như Fischer, Sahay và Vegh khi chia mẫu
thành các nước lạm phát ca o và cá c nước lạm phát thấ p. Nhưng họ cũng
phát hiện ra rằng ở những nước tỉ lệ lạm phát ổn định thì mối quan hệ này yếu
hơn.Ở những nước lạ m phát thấ p và phát triển, mối quan hệ giữ a lạ m phát
và bội chi ngân sách dường như làkhông có.Với những nước phát triển, thuế đúc
tiền là một nguồn quan trọng của thu ngân sách bộ i chi là một phần chủ yếu
gây nên lạm phát.
- Chi ngân sách là một trong những công cụ chính sách quan trọng của Nhà nước
nhằm tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Khi sản lượng của nền kinh tế thấp
dưới mức sản lượng tiềm năng, thì Chính phủ có thể tăng mức chi ngân sách, chấp
nhận bội chi để thúc đẩy hoạt động kinh tế. Vì vậy, bội chi Ngân sách không chỉ diễn
ra phổ biến đối với các nước nghèo, kém phát triển mà xảy ra ngay cả đối với những
nước thuộc nhóm các nền kinh tế phát triển nhất (nhóm OECD). Đối với các nước
đang phát triển, bội chi ngân sách thường để đáp ứng nhu cầu rất lớn về đầu tư cơ sở
hạ tầng ban đầu như: Giao thông, điện, nước Nhiều nước phát triển và đang phát
triển trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á cũng vẫn bội chi ngân sách. Tuy nhiên
chính mức tăng chi tiêu của Chính phủ sẽ kéo theo hiệu ứng tăng giá ở một số các lĩnh
vực hàng hóa và dịch vụ do gia tăng cầu dẫn đến tình trạng lạm phát do cầu kéo, song
song với việc giá cả hàng hóa và dịch vụ tăng cũng sẽ kéo theo các chi phí sản xuất
tăng dẫn đến lạm phát do chi phí đẩy Mặt khác khi các nhu cầu về đầu tư cơ sở hạ tầng
SVTH: Ngô Tấn Phú_12NH_Khoa Kinh Tế Page 19/43
tăng cao mà ngân sách nhà nước lại thiếu hụt dẫn đến không đủ nguồn vốn đối ứng để
đầu tư cho phát triển. Để bù đắp phần thiếu hụt, Nhà nước có thể sử dụng chính sách
phát hành thêm tiền và đưa ra lưu thông. Tuy nhiên việc tăng chi tiêu của Chính phủ
trong trường hợp này sẽ gây "tăng trưởng nóng" và không cân đối với khả năng tài
chính của quốc gia. Nếu nhà nước phát hành thêm quá nhiều tiền để bù đắp bội chi
ngân sách nhà nước thì sẽ gây ra tình trạng lạm phát tiền tệ.
SVTH: Ngô Tấn Phú_12NH_Khoa Kinh Tế Page 20/43
Chương II. Mối quan hệ của bội chi Ngân sách nhà nước
và lạm phát giai đoạn 2008- 2013.

2.1 Tình hình bội chi Ngân sách Nhà nước giai đoạn 2008 -2013
Bảng 2.1 Chỉ tiêu dự toán năm 2008 ( tỷ đồng)
STT Chỉ tiêu Dự toán
A Tông thu cân đối ngân sách nhà nước 323000
1 Thu nội địa (không kể thu từ dầu thô) 189300
2 Thu dầu thô 65600
3 Thu cân đối từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu 64500
4 Thu viện trợ không hoàn lại 3600
B Thu kết chuyển từ năm trước sang 9080
C Tổng chi cân đối ngân sách nhà nước 398980
1 Chi đầu tư phát triển 99730
2 Chi trả nợ và viện trợ 51200
3 Chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh, quản lý hành chính nhà nước, đảng, đoàn thể
208580
4 Chi cải cách tiền lương 28400
5 Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính 100
6 Dự phòng 10700
D Bội chi ngân sách nhà nước 66900
Tỷ lệ bội chi so với GDP 5%
E Nguồn bù đắp bội chi
1 Vay trong nước 51900
2 Vay ngoài nước 15000
Nguồn: Báo chinhphu.vn
- Dự toán thu cân đối Ngân sách Nhà nước năm 2008 là 323000 phấn đấu cả năm đạt
399000 tỷ đồng, vượt 23,5% (76000 tỷ đồng so với dự toán) tăng 26,3% so với thực
hiện năm 2007, đạt tỷ lệ động viên 26,8% GDP, trong đó từ thuế và chi phí đạt 24,9%
GDP, loại trừ yếu tố tăng thu do tăng giá dầu thô thì đạt tỷ lệ động viên 23,5% GDP
(thuế và phí đạt 21,6% GDP) chính phủ tập trung chỉ đạo tăng cường công tác quản lý
thu Ngân sách năm 2008.

- Dự toán chi cân đối Ngân sách Nhà nước Quốc hội quyết định là 398900 tỷ đồng ước
thực hiện cả năm đạt 474280 tỷ đồng vượt 18,9% so với dự toán, tăng 22,3% so với
thực hiện năm 2007. Bội chi ở mức 66900 tỷ đồng , tỷ lệ bội chi so với GDP là 5%.
SVTH: Ngô Tấn Phú_12NH_Khoa Kinh Tế Page 21/43
- Đến ngày 31/12/2008 dự nợ của chính phủ ( bao gồm cả nợ trái phiếu chính phủ)
bằng 33,5% GDP dư nợ ngoài nước của quốc gia và ổn định các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô.
- Công tác tài chính ngân sách năm 2008 còn những khó khăn tồn tại :
+ Thu ngân sách tăng nhưng chưa vững chắc chủ yếu là do giá dầu thô và thuế xuất
nhập khẩu. Thu ngân sách những tháng cuối năm có chiều hướng giảm do sản xuất
kinh doanh gặp khó khăn
+ Quản lý chi tiêu ngân sách đã được tăng cường nhưng vẫn còn tình trạng lãng phí,
kém hiệu quả, một số nơi chưa thật sự quán triệt để tiết kiệm chi Ngân sách Nhà nước.
Bảng 2.2 Chỉ tiêu dự toán năm 2009 (tỷ đồng)
STT Chỉ tiêu Dự toán
A Tông thu cân đối ngân sách nhà nước 389900
1 Thu nội địa (không kể thu từ dầu thô) 233000
2 Thu dầu thô 63700
3 Thu cân đối từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu 88200
4 Thu viện trợ không hoàn lại 5000
B Thu kết chuyển từ năm trước sang 14100
C Tổng chi cân đối ngân sách nhà nước 491300
1 Chi đầu tư phát triển 112800
2 Chi trả nợ và viện trợ 58800
3 Chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh, quản lý hành chính nhà nước, đảng, đoàn thể
269300
4 Chi cải cách tiền lương 36600
5 Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính 100
6 Dự phòng 13700
D Bội chi ngân sách nhà nước 87300

Tỷ lệ bội chi so với GDP 4.82%
E Nguồn bù đắp bội chi 87300
1 Vay trong nước 51900
2 Vay ngoài nước 15000
Nguồn: Báo chinhphu.vn
- Dự toán thu cân đối Ngân sách Nhà nước năm 2009 là 389900 tỉ đồng , đạt tỷ lệ động
viêc 23%GDP . Về cơ cấu thu năm 2009 dự toán thu nội địa chiếm 59,8% tổng thu
Ngân sách Nhà nước, thu dầu thô chiếm 16,3% thu cân đối từ hoạt động xuất nhập
khẩu chiến 22,6% tổng thu cân đối Ngân sách Nhà nước
- Dự toán chi Ngân sách Nhà nước năm 2009 là 491300 tỷ đồng , tỷ lệ bội chi so với
GDP là 4,82%. Năm 2009 dự toán chi Ngân sách Nhà nước được xây dựng trê cơ sở
SVTH: Ngô Tấn Phú_12NH_Khoa Kinh Tế Page 22/43
cơ cấu lại chi Ngân sách mục tiêu góp phần kiềm chế lạm phát ổn định kinh tế vĩ mô,
đảm bảo các nguyên tắc
+Tiếp tục cơ cấu lại Ngân sách, đảm bảo kinh phí thực hiện các chính sách an sinh xã
hội và điều chỉnh tiền lương, các khoản tăng chi theo tiền lương.
+ Bố trí tăng chi phí dự phòng, dự trữ quốc gia để đảm bảo an ninh lương thực và chủ
động phòng chống khắc phục hậu quả thiên tai dịch bệnh, bố trí chi trả nợ theo đúng
cam kết
+ Bố trí kinh phí cho các lĩnh vực giáo dục – đào tạo – dạy nghề, y tế, khoa học-công
nghệ, văn hóa thông tin, bảo vệ môi trường, nông nghiệp nông thôn theo nghị quyết
của Đảng, quốc hội.
+ Đáp ứng nhu cầu chi cho các nhiệm vụ khác trên tinh thần triệt để tiết kiệm, tiếp tục
rà soát thắt chặt chi xây dựng, bố trí dự toán chi thường xuyên cho các bộ các cơ quan
trung ương cơ bản không tăng so với năm 2008, giảm mức bội chi Ngân sách Nhà
nước dưới 5% GDP
Dự toán chi Ngân sách nhà nước năm 2009 là 491300 tỷ đồng , tăng 23,1% so với dự
toán năm 2008. Số chi này tập trung cho các nhiệm vụ chính:
+ Về bội chi Ngân sách nhà nước đã bố trí theo hướng cơ cấu lại các khoản chi tập
trung chi cho an sinh xã hội, đầu tư phát triển con người thông qua giáo dục, y tế, khoa

học công nghệ, đồng thời thực hiện điều chỉnh tiền lương ở mức cao hơn so với lộ
trình đã được duyệt
+ Được xây dựng trong bối cảnh cơ sở dự báo tình hình kinh tế vẫn còn khó khăn, diễn
biến thất thường của thị trường và các biện pháp kiềm chế lạm phát vẫn lien tục thực
hiện, việc điều chỉnh chính sách thuế tạo thuận lợi hơn cho sản xuất kinh doanh nhưng
bước đầu làm giảm thu Ngân sách Nhà nước.
Bội chi Ngân sách Nhà nước ở mức 4,82%GDP ( giảm 3700 tỷ đồng so với tính bội
chi ở mức 5%) để góp phần kiềm chế lạm phát
SVTH: Ngô Tấn Phú_12NH_Khoa Kinh Tế Page 23/43
Bảng 2.3 Chỉ tiêu dự toán năm 2010 (tỷ đồng)
STT Chỉ tiêu Dự toán
A Tông thu cân đối ngân sách nhà nước 461500
1 Thu nội địa (không kể thu từ dầu thô) 294700
2 Thu dầu thô 66300
3 Thu cân đối từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu 95500
4 Thu viện trợ không hoàn lại 5000
B Thu kết chuyển từ năm trước sang 1000
C Tổng chi cân đối ngân sách nhà nước 58200
1 Chi đầu tư phát triển 125500
2 Chi trả nợ và viện trợ 70250
3 Chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh, quản lý hành chính nhà nước, đảng, đoàn thể
335560
4 Chi cải cách tiền lương 35490
5 Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính 100
6 Dự phòng 15300
D Bội chi ngân sách nhà nước 119700
Tỷ lệ bội chi so với GDP 6,2%
E Nguồn bù đắp bội chi 119700
1 Vay trong nước 98700

2 Vay ngoài nước 21000
Nguồn: Báo chinhphu.vn
Dự toán thu cân đối Ngân sách Nhà nước năm 2010 là 461500 tỷ đồng, bằng 23,9%
GDP ,tính cả 1000 tỷ đồng thu chuyển nguồn năm 2009 sang năm 2010 thì tổng thu
cân đối Ngân sách Nhà nước là 462500 tỷ đồng
- Tổng chi NSNN năm 2010 ước đạt 637.200 tỷ đồng, tăng 9,4% (55.000 tỷ đồng) so
với dự toán, bằng 32,7% GDP, tăng 9,0% so với thực hiện năm 2009. Trong đó: Chi
đầu tư phát triển (bao gồm cả nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, nguồn thu xổ số kiến
thiết với vốn bố trí trong cân đối NSNN) ước khoảng 208.000 tỷ đồng, bằng 30% tổng
chi NSNN, chiếm 11% GDP; Chi trả nợ và viện trợ ước khoảng 80.250 tỷ đồng, tăng
14,2% (10.000 tỷ đồng) so với dự toán; Chi phát triển các sự nghiệp kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước ước đạt 385.082 tỷ đồng, tăng 6,3% (22.800 tỷ
đồng) so với dự toán, tăng 20,2% so với thực hiện năm 2009.
SVTH: Ngô Tấn Phú_12NH_Khoa Kinh Tế Page 24/43
Bảng 2.4 Chỉ tiêu dự toán năm 2011(tỷ đồng)
STT Chỉ tiêu Dự toán
A Tông thu cân đối ngân sách nhà nước 595000
1 Thu nội địa (không kể thu từ dầu thô) 382000
2 Thu dầu thô 69300
3 Thu cân đối từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu 138700
4 Thu viện trợ không hoàn lại 5000
B Thu kết chuyển từ năm trước sang 10000
C Tổng chi cân đối ngân sách nhà nước 725600
1 Chi đầu tư phát triển 152000
2 Chi trả nợ và viện trợ 86000
3 Chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh, quản lý hành chính nhà nước, đảng, đoàn thể
442110
4 Chi cải cách tiền lương 27000
5 Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính 100

6 Dự phòng 18400
D Bội chi ngân sách nhà nước 120600
Tỷ lệ bội chi so với GDP 5,3%
E Nguồn bù đắp bội chi 120600
1 Vay trong nước 92600
2 Vay ngoài nước 28000
Nguồn: Báo chinhphu.vn
- Theo báo cáo của Chính phủ, tổng số chi 1.034.244 tỷ đồng. Còn theo Báo cáo thẩm tra
của Ủy ban Tài chính-Ngân sách của Quốc hội, chi NSNN năm 2011 đã bảo đảm theo dự
toán, đáp ứng nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, chính trị, an ninh, quốc phòng.
- Chi giáo dục đào tạo và dạy nghề đạt 90,2% dự toán; chi sự nghiệp y tế, dân số và kế
hoạch hóa gia đình đạt 89,1% dự toán; chi sự nghiệp khoa học công nghệ đạt 89,5%
dự toán; chi sự nghiệp kinh tế đạt 91,5% dự toán
- Về bội chi và quản lý nợ công, nhờ tăng thu NSNN nên đã giảm bội chi từ 5,3%
GDP theo Nghị quyết của Quốc hội xuống còn 4,4%, được các đại biểu đánh giá là
một động thái tích cực.
- Tuy nhiên, mặc dù giảm bội chi song các khoản chi ứng trước, nợ tạm ứng, thiếu hụt
nguồn hoàn thuế đã làm cho kết quả giảm bội chi không có nhiều ý nghĩa về tài khoá.
- Trên cơ sở các ý kiến đóng góp, Ủy ban Tài chính-Ngân sách của Quốc hội đề nghị
Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo Quốc hội xem xét đưa vào quyết toán năm 2011
với tổng số thu NSNN 962.982 tỷ đồng, tổng số chi NSNN 1.034.244 tỷ đồng, bội chi
SVTH: Ngô Tấn Phú_12NH_Khoa Kinh Tế Page 25/43

×