Môn học: Luật Ngân hàng
CƠ SỞ PHÁP LÝ CHO VIỆC TÁI CẤU TRÚC
HỆ THỐNG TÍN DỤNG TẠI VIỆT NAM
GVHD: TS. Lê Vũ Nam
Lớp: K09501
Nhóm: 1
1
MỤC LỤC
I/ Tình hình phát triển của hệ thống tín dụng Việt Nam và nguyên nhân ra đời đề án
tái cấu trúc hệ thống tín dụng………………………………………………… ………4
II. Những vấn đề cơ bản của đề án tái cấu trúc hệ thống tín dụng Việt Nam:………8
2.1. Vấn đề tính thanh khoản……………………………………………….… 8
2.2. Vấn đề nợ xấu……………………………………………………………… 9
2.3. Vấn đề quản trị rủi ro, quản trị công ty…………………… 10
2.3.1. Quản trị rủi ro…………………………… 10
2.3.2.Quản trị công ty……………………………………………….……….….10
III. Định hướng tái cấu trúc hệ thống tín dụng Việt Nam……………………………11
3.1. Giải quyết vấn đề tính thanh khoản……………………………… ……11
3.2. Xử lý nợ xấu: ………………………………………………………………13
3.3. Giải quyết vấn đề quản trị rủi ro, quản trị công ty…………………….13
IV. Tiến trình thực hiện - năm 2012………………………………………… ………14
V.Kinh nghiệm tái cấu trúc hệ thống tín dụng các nước 17
5.1.Kinh nghiệm tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Trung Quốc 19
5.2. Malaysia - Xử lý tập trung tài sản xấu của các ngân hàng………… 19
VI. Những vấn đề còn tồn tại từ đề án tái cấu trúc hệ thống tín dụng…………… 20
6.1. Xu hướng hợp nhất, sáp nhập:……………………………… 20
2
6.2. Tái cấu trúc ngân hàng thương mại nhà nước……………………… 21
6.3. Nợ xấu chưa được công khai minh bạch 22
6.4. Một số định hướng của đề án tái cấu trúc hệ thống tín dụng…… 23
6.5. Vị trí chủ đạo của ngân hàng thương mại nhà nước trong hệ thống tín
dụng 24
6.6. Quan điểm phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng đa dạng về sở hữu,
quy mô và loại hình…………………………………………………………… … 24
3
I/ Tình hình phát triển của hệ thống tín dụng Việt Nam và nguyên nhân ra đời đề án
tái cấu trúc hệ thống tín dụng
Trong thời gian qua, hệ thống tín dụng của Việt Nam không ngừng phát triển cả về
số lượng lẫn hình thức dịch vụ. Điều đó có vai trò, ý nghĩa to lớn cho sự phát triển của
đất nước. Tính đến tháng 6/2011, theo thống kê hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam
bao gồm: 5 ngân hàng thương mại nhà nước; 1 ngân hàng chính sách xã hội; 37 ngân
hàng thương mại cổ phần; 48 chi nhánh ngân hàng nước ngoài; 5 ngân hàng liên doanh;
48 văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài; 17 công ty tài chính; 13 công ty cho thuê
tài chính. Ngoài ra, Việt Nam còn có Ngân hàng phát triển Việt Nam và Quỹ Tín dụng
nhân dân Trung ương với 24 chi nhánh và hơn 1000 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở
1
.
Hệ thống tài chính đóng góp rất lớn vào sự phát triển của đất nước với tổng tài sản
gấp hơn 2 lần so với GDP, trong đó, tổng vốn tín dụng cho nền kinh tế tăng rất nhanh và
lên đến 125% GDP vào cuối năm 2010, hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung và ngân
hàng thương mại nói riêng đã trở thành nguồn cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế.
Một số ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng lớn đã vươn lên thành tập đoàn tài
chính với quy mô vốn và quy mô tổ chức rộng lớn, hoạt động đầu tư trong nhiều lĩnh vực
như chứng khoán, bất động sản, bảo hiểm, vàng và ngoại tệ, cho thuê tài chính,…
Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, hệ thống tín dụng cũng bộc lộ không ít
những khuyết điểm.
Hệ thống ngân hàng của nước ta tuy nhiều về số lượng nhưng phần lớn vẫn còn ở
quy mô nhỏ, sức cạnh tranh thấp, nhất là đối với các ngân hàng nước ngoài. Cơ chế hoạt
động của các ngân hàng còn có sự chồng chéo, thiếu rõ ràng. Sổ sách thiếu minh bạch,
quản trị rủi ro bất cập, quy trình tín dụng không hoàn chỉnh, đầu tư mạo hiểm, trình độ
năng lực và đạo đức của đội ngũ quản lý không đáp ứng yêu cầu. Do những nguyên nhân
chủ quan trên cùng những nguyên nhân khách quan của nền kinh tế như bất ổn kinh tế vĩ
1 />4
mô, khủng hoảng kinh tế thế giới, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản lao
dốc đã làm cho nợ xấu bắt đầu tăng nhanh.
Hoạt động ngân hàng vốn đã chứa đựng nhiều rủi ro và khi những rủi ro đó tích tụ
quá lớn thì ngân hàng khó có thể tránh khỏi đổ vỡ nếu không được cơ cấu lại một cách
chặt chẽ. Cho đến nay, hệ thống ngân hàng Việt Nam đang đối mặt với những rủi ro ngày
một gia tăng, có thể kể đến là:
- Rủi ro tín dụng:
+ Nhu cầu về đầu tư sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và người dân là rất
lớn, trong khi nguồn vốn kinh doanh chỉ chủ yếu dựa vào hệ thống ngân hàng, do đó đã
dẫn đến hiện tượng “tín dụng nóng” (là trường hợp các khoản đầu tư tài chính chủ yếu
với mục đích hưởng tỷ lệ lãi suất cao và vì vậy có thể bị rút khỏi thị trường bất cứ lúc
nào). Tuy nhiên, khi nền kinh tế tăng trưởng chậm lại, người vay nợ gặp khó khăn trong
việc sản xuất kinh doanh thu hồi lợi nhuận thì rủi ro tín dụng lại gia tăng, nhất là trong
những trường hợp ngân hàng quá dễ dãi trong việc cấp tín dụng cho vay và không thực
hiện trích lập dự phòng rủi ro tín dụng đầy đủ. Đặc biệt, sự hấp dẫn của thị trường bất
động sản và chứng khoán trong thời gian vừa qua đã khiến nhiều ngân hàng thương mại
tập trung quá nhiều vốn cho những thị trường đầy rủi ro này, góp phần không nhỏ vào
thổi phồng thị trường bất động sản và chứng khoán. Và lúc những thị trường này lao dốc
thì nguy cơ rủi ro lại tăng cao.
+ Một số ngân hàng thương mại mới thành lập nên mặc dù qui mô vốn còn nhỏ song
để đáp ứng yêu cầu lợi nhuận của cổ đông, cũng như muốn nhanh chóng vươn lên bằng
các ngân hàng thương mại có qui mô lớn và bề dày kinh nghiệm khác đã bất chấp các qui
tắc về an toàn vốn, về quản trị rủi ro để đạt tốc độ tăng tín dụng tới hàng chục phần trăm
mỗi năm, kể cả tín dụng cho những lĩnh vực rủi ro cao. Khi Ngân hàng Nhà nước quyết
định thắt chặt tín dụng cho bất động sản, chứng khoán và tiêu dùng thì cũng là lúc rủi ro
tín dụng của những ngân hàng thương mại này tăng vọt.
5
+ Rủi ro đạo đức do sử dụng vốn tín dụng sai mục đích cũng tăng cao, hậu quả là tỷ lệ
nợ xấu có xu hướng tăng mạnh. Theo báo cáo của các tổ chức tín dụng, nợ xấu chung của
hệ thống ngân hàng 6 tháng đầu năm 2012 đã tăng mạnh lên mức 4,6% từ mức 3,72%
của năm 2011. Tuy nhiên, theo đánh giá của ngân hàng nhà nước thì con số này phải lên
đến khoảng 8,6%
2
.
- Rủi ro thanh khoản:
Do một số ngân hàng thương mại có tốc độ tăng dư nợ tín dụng và tài sản có quá
cao trong khi quy mô vốn còn hạn chế nên tính thanh khoản của những ngân hàng
thương mại này xuống thấp, thậm chí có những thời điểm mất tính thanh khoản. Hậu quả
là, để bảo đảm tính thanh khoản, một số ngân hàng thương mại đã phải chấp nhận lãi
suất trên thị trường liên ngân hàng lên tới 20%-30%/năm, thậm chí trên 40%/năm bất
chấp lãi suất tái chiết khấu do Ngân hàng nhà nước công bố hiện nay chỉ là 13%/năm.
Có những giai đoạn Ngân hàng nhà nước đã phải bơm vào hàng chục ngàn tỉ đồng trên
thị trường mở và thị trường liên ngân hàng để bảo đảm thanh khoản cho toàn hệ thống.
- Rủi ro lãi suất và tỷ giá hối đoái:
Những bất ổn của kinh tế vĩ mô, đặc biệt là lạm phát cao và những chính sách thắt
chặt nhằm kiềm chế lạm phát đã đặt hệ thống ngân hàng thương mại trước những rủi ro
rất lớn về lãi suất. Những biến động lớn và đột ngột về lãi suất, cả huy động và cho vay,
cùng với những biện pháp điều hành lãi suất còn mang nặng tính hành chính đã khiến cho
các ngân hàng thương mại thường xuyên trong tình trạng khi thì chạy đua tăng lãi suất
huy động, khi lại giữ lãi suất cho vay ở mức rất cao để phòng ngừa biến động lãi suất. Vì
vậy, tình trạng vượt trần, hai lãi suất diễn ra tương đối phổ biến làm giảm hiệu lực của
các chính sách tiền tệ, đồng thời làm suy giảm đạo đức kinh doanh của không ít cán bộ
quản lý cũng như cán bộ tác nghiệp trong hệ thống ngân hàng. Hoạt động của không ít
ngân hàng thương mại trở nên bấp bênh, lợi nhuận không ổn định, kỷ luật kinh doanh
không được tuân thủ triệt để, tạo ra những kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng.
Trước những nguy cơ trên, ngày 01/03/2012, Thủ tướng Chính Phủ đã ban hành
Quyết định Số 254/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng
2 />6
giai đoạn 2011 – 2015”. Đề án đã phân tích sâu sắc thực trạng của hệ thống ngân hàng
Việt Nam. Từ những tồn tại đó, đề án chia ra hai nhóm vấn đề cần xử lý là trước mắt và
trung, dài hạn; cụ thể những nội dung, lĩnh vực phải tái cấu trúc bao gồm cả tái cấu trúc
tài chính, quản trị điều hành của hệ thống ngân hàng Việt Nam, các chỉ tiêu an toàn, việc
áp dụng các chuẩn mực quốc tế cũng như việc giám sát hoạt động của các tổ chức tín
dụng. Đề án cũng phân ra từng giai đoạn với từng mục tiêu cụ thể, kết quả trong từng giai
đoạn; phân ra từng nhóm các loại hình, từ ngân hàng thương mại nhà nước, nước ngoài,
cổ phần, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tín dụng vi mô; riêng nhóm Ngân hàng thương
mại nhà nước, bên cạnh những nội dung áp dụng chung cho các tổ chức tín dụng còn có
đề án riêng để củng cố các ngân hàng này, đảm bảo vai trò chủ đạo của Ngân hàng
thương mại nhà nước trong hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Đề án nêu rõ mục tiêu, quan điểm, định hướng, lộ trình thực hiện và giải pháp cơ
cấu lại từng tổ chức tín dụng. Qua đó đã đưa ra năm quan điểm cơ bản đối với quá trình
tái cơ cấu này bao gồm:
- Thứ nhất: cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng và từng tổ chức tín dụng là
một quá trình thường xuyên, liên tục.
- Thứ hai: củng cố, phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng đa dạng về sở hữu, quy
mô và loại hình phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
- Thứ ba: khuyến khích việc sáp nhập, hợp nhất ngân hàng theo nguyên tắc tự
nguyện, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và các quyền, nghĩa vụ kinh tế của các bên
có liên quan theo quy định của pháp luật.
- Thứ tư: thực hiện cơ cấu lại toàn diện về tài chính, hoạt động, quản trị của các tổ
chức tín dụng theo các hình thức, biện pháp và lộ trình thích hợp.
- Thứ năm: không để xảy ra đổ vỡ và mất an toàn hoạt động ngân hàng ngoài tầm
kiểm soát của Nhà nước, hạn chế tới mức thấp nhất tổn thất và chi phí của ngân sách Nhà
nước cho xử lý những vấn đề của hệ thống các tổ chức tín dụng.
7
Đề án cũng đưa ra mục tiêu tái cấu trúc là nhằm: “Cơ cấu lại căn bản, triệt để và
toàn diện hệ thống các tổ chức tín dụng để đến năm 2020 phát triển được hệ thống các tổ
chức tín dụng đa năng theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả vững chắc với
cấu trúc đa dạng về sở hữu, quy mô, loại hình có khả năng cạnh tranh lớn hơn và dựa trên
nền tảng công nghệ, quản trị ngân hàng tiên tiến phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế
về hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về dịch vụ tài chính, ngân hàng
của nền kinh tế”.
II. Những vấn đề cơ bản của đề án tái cấu trúc hệ thống tín dụng Việt Nam:
2.1. Vấn đề tính thanh khoản
Tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại được xem như khả năng tức thời
để đáp ứng nhu cầu rút tiền gửi và giải ngân các khoản tín dụng đã cam kết.
Năm 2011, tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại đang rất căng thẳng,
các ngân hàng nhỏ gặp nhiều khó khăn, không có vốn để tồn tại, do đó, các ngân hàng
này đã huy động vốn với mức lãi suất huy động cao, mặc dù ngân hàng nhà nước đã rất
nghiêm trong việc xử phạt các ngân hàng huy động vượt trần lãi suất 14%, có lúc lãi suất
được một số ngân hàng đẩy lên mức 19-20%/năm.
Để giải quyết tình trạng thanh khoản kém của các ngân hàng, Ủy ban giám sát Tài
chính Quốc gia đưa ra giải pháp là Ngân hàng Nhà nước cần bơm tiền để giải quyết thanh
khoản cho các ngân hàng gặp khó khăn tiếp theo là tăng dự trữ bắt buộc khiến cho nguồn
vốn của các ngân hàng lớn chảy sang các ngân hàng nhỏ giúp giải quyết khó khăn cho
ngân hàng nhỏ đồng thời cho phép một số ngân hàng thương mại xuất khẩu vàng tài
khoản bởi các ngân hàng này đang nắm một số lượng vàng lớn lên tới 100 tấn, với cách
này chỉ cần bán 1% trong số đó qua tài khoản là thu được khoảng 5-7 tỷ USD, giải quyết
tương đối nhu cầu thanh khoản cho họ một cách cấp bách. Tuy nhiên, về phía ngân hàng
nhà nước lại cho rằng không thể bơm thêm tiền vì nó đi ngược lại mục tiêu chống lạm
phát của ngân hàng nhà nước bên cạnh đó ngân hàng nhà nước đang muốn thử sức thanh
khoản của các ngân hàng thương mại để buộc các ngân hàng này tái cơ cấu, sáp nhập.
8
Nói cách khác, ngân hàng nhà nước đang đứng trước tình thế tiến thoái lưỡng nan, nếu
giảm lãi suất thì mục tiêu tái cơ cấu hệ thống ngân hàng và hạ thấp lạm phát sẽ gặp khó
khăn, ngược lại nếu không giảm lãi suất thì áp lực từ các doanh nghiệp sẽ rất lớn, đặc biệt
là khi các doanh nghiệp đang đứng trước nguy cơ phá sản hàng loạt.
Nguyên nhân sâu xa của tình trạng thanh khoản kém là do vốn huy động chủ yếu
là ngắn hạn nhưng các ngân hàng cho vay trung và dài hạn, cùng với việc cung cấp tín
dụng từ ngân hàng cho thị trường chứng khoán và bất động sản bừa bãi.
2.2. Vấn đề nợ xấu
Ngày 12/7 vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã công bố nợ xấu trong toàn hệ thống.
Con số chính thức về nợ xấu được ngân hàng nhà nước đưa ra là 202.000 tỉ đồng tính đến
ngày 31/3, chiếm 8,6% tổng dư nợ tín dụng, trong đó, 40% trong tổng số 202.000 tỉ đồng
nợ xấu rơi vào nhóm 5 (nhóm có khả năng mất vốn). Trong khi đó, theo số liệu báo cáo
của các tổ chức tín dụng, nợ xấu tính đến ngày 31/5 chỉ hơn 117.000 tỉ đồng, chiếm
4,47% tổng dư nợ tín dụng. Con số này cách khá xa so với con số do các ngân hàng
thương mại tự công bố, thực tế là cao gấp đôi so với báo cáo của các ngân hàng thương
mại. Điều này đồng nghĩa với việc là từ lâu các ngân hàng thương mại đã che giấu thực
trạng nợ xấu. Các ngân hàng này đã không thực hiện đúng quy định về phân loại nợ, ghi
nhận nợ xấu thấp hơn thực trạng và quy định để giảm chi phí trích lập dự phòng rủi ro,
đồng thời có báo cáo tài chính đẹp hơn. Nợ xấu chủ yếu rơi vào các ngành sản xuất công
nghiệp hay xây dựng – là những lĩnh vực thời gian qua chịu sự tác động từ sự đóng băng
kéo dài của thị trường bất động sản.
Nguyên nhân của hành vi này xuất phát từ chính cơ chế quản lý vĩ mô đối với hoạt
động ngân hàngv khi giới quản trị ngân hàng luôn có niềm tin vững chắc rằng dù thế nào
thì Nhà nước cũng không để ngân hàng phá sản.
Để đảm bảo thực hiện thành công tiến trình tái cấu trúc hệ thống tín dụng thì hơn
lúc nào hết cần tập trung mọi nỗ lực xử lý nợ xấu một cách hiệu quả. Giải quyết xong vấn
9
đề này thì mới có thể dùng những cơ chế chính sách tín dụng giúp cho những ngân hàng
tốt sớm phục hồi và trở lại phục vụ nền kinh tế. Trong tiến trình này, cần phải kiên quyết
xóa bỏ để những ngân hàng yếu, vốn ít, khả năng quản trị kém để hệ thống không bị tác
động một khi những ngân hàng này đổ vỡ.
2.3. Vấn đề quản trị rủi ro, quản trị công ty
2.3.1. Quản trị rủi ro
Phần lớn các ngân hàng Việt Nam được xếp loại vào loại yếu kém với những điểm
chung: quy mô hoạt động tương đối giới hạn so với đối thủ cạnh tranh, vốn chủ sở hữu
thấp, tỷ lệ cho vay bất động sản và cho vay thế chấp là bất động sản rất cao, tiền gửi
khách hàng dễ biến động nếu lãi suất trần được điều chỉnh, nợ xấu tăng cao và khả năng
thanh khoản thấp. Nhất là trong một môi trường cạnh tranh lớn giữa các ngân hàng như
hiện nay thì việc huy động vốn và cho vay không phải là vấn đề đơn giản, do đó, các
ngân hàng đang phải đối diện với các loại rủi ro càng ngày càng lớn. Bên cạnh đó, các
ngân hàng yếu kém nói riêng và toàn bộ hệ thống ngân hàng của ta hiện nay đều có đặc
điểm chung là trình độ quản lý rủi ro còn nhiều yếu điểm, hoạt động quản lý rủi ro còn
kém xa các chuẩn mực quốc tế.
II.3.2. Quản trị công ty
Quản trị công ty là một vấn đề được rất nhiều các cơ quan quản lý và các nhà đầu
tư tài chính nước ngoài quan tâm, đặc biệt là trong thị trường bị tác động mạnh bởi những
thay đổi trong khu vực và thị trường tài chính thế giới như thị trường tài chính ngân hàng.
Tuy nhiên, hiện nay đối với nhiều doanh nghiệp, trong đó có ngân hàng, vấn đề quản trị
công ty vẫn chưa được đánh giá đúng mức và chưa được xem như là cần thiết cho việc
phát triển hoạt động kinh doanh của họ.
Môi trường quản lý ở Việt Nam thường rất chuyên quyền, độc đoán, phần lớn lãnh
đạo hoàn toàn nắm quyền hành trong các quyết sách của mình, do đó, quyết định đưa ra
thường mang tính chủ quan, duy ý chí, trình độ quản lý vẫn còn thấp hơn nhiều so với các
10
nước trong khu vực và trên thế giời. Do đó, vấn đề quản trị công ty là một trong những
vấn đề hiển nhiên cần phải được xét đến trong tiến trình tái cấu trúc hệ thống tín dụng
Việt Nam.
III. Định hướng tái cấu trúc hệ thống tín dụng Việt Nam
3.1. Giải quyết vấn đề tính thanh khoản
Để giải quyết các vấn đề về tính thanh khoản, đề án tái cấu trúc đã đưa ra một số
giải pháp như sau:
- Ngân hàng Nhà nước tái cấp vốn đối với tổ chức tín dụng thiếu hụt thanh khoản
tạm thời để bảo đảm khả năng chi trả của tổ chức tín dụng và có thể trở lại hoạt động
bình thường.
- Tổ chức tín dụng xây dựng và thực hiện Phương án phục hồi khả năng chi trả; tổ
chức tín dụng phải hạn chế tăng trưởng tín dụng, tích cực huy động vốn để trả nợ Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam và tăng khả năng chi trả.
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giám sát chặt chẽ tình hình tài chính và hoạt
động của tổ chức tín dụng được tái cấp vốn.
- Tổ chức tín dụng phải thực hiện chấn chỉnh, củng cố tài chính, hoạt động và quản
trị theo các giải pháp để bảo đảm an toàn và hiệu quả kinh doanh, trong đó bao gồm xử lý
nợ xấu, cải thiện khả năng chi trả, giảm hệ số nợ và hệ số sử dụng vốn.
- Khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng thuộc nhóm này sáp
nhập, hợp nhất với nhau và sáp nhập, hợp nhất với tổ chức tín dụng lành mạnh.
- Tùy theo tính chất, mức độ rủi ro, Ngân hàng Nhà nước áp dụng các biện pháp
xử lý sau đây:
+ Hạn chế tổ chức tín dụng mở rộng phạm vi, quy mô và địa bàn hoạt động.
11
+ Bắt buộc tổ chức tín dụng phải thực hiện một hoặc một số tỷ lệ an toàn cao hơn
mức quy định chung.
Trong những tháng đầu năm 2012, nhiều ngân hàng đang tiến hành hạ lãi
suất huy động. Cụ thể, mới đây nhất, Ngân hàng Công thương Việt Nam (Vietinbank)
vừa có quyết định chính thức về vấn đề giảm lãi suất cho vay với mức giảm 0,5%/năm
so với mức sàn lãi suất đang áp dụng. Trước đó, ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
(Vietcombank) cũng đã giảm 2%/năm đối với lãi suất cho vay. Hiện lãi suất vay vốn cho
sản xuất kinh doanh ở mức 16-17%/năm, mức cao nhất 20%/năm áp dụng cho vốn vay
đầu tư chứng khoán, bất động sản
3
. Cùng với lãi suất huy động của một số ngân hàng
đang có chiều hướng giảm, lãi suất bình quân liên ngân hàng cũng đang giảm đối với các
kỳ hạn ngắn.
Tuy nhiên, có một vấn đề đang gây áp lực lên thanh khoản của các ngân hàng hiện
nay đó là xu hướng gửi tiền của người dân tập trung vào các kỳ hạn ngắn. Theo báo cáo
tài chính các ngân hàng đã niêm yết, tỷ lệ huy động vốn ngắn hạn (1-3 tháng) chiếm phần
lớn tỷ trọng trong cơ cấu huy động vốn của các tổ chức tín dụng. Nguyên nhân là bởi lãi
suất cào bằng ở mức 9% cho các kỳ hạn từ 1-12 tháng khiến nhiều người có tâm lý gửi
kỳ hạn ngắn để có thể rút ra bất cứ lúc nào. Do vậy, vấn đề thanh khoản tại một số ngân
hàng vẫn đang tiềm ẩn rủi ro. Ngân hàng Nhà nước do đó có thể sẽ phải tiếp tục sử dụng
thị trường mở để điều hòa lượng tiền và hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng trong
trường hợp cần thiết.
3.2. Xử lý nợ xấu:
Trên phương diện tái cấu trúc mỗi ngân hàng, nợ xấu của một số ngân hàng đang bị
đe dọa dẫn đến mất vốn, do đó cần phải khẩn trương đưa ra khỏi bảng cân đối kế toán của
ngân hàng bằng một số cách thức sau:
- Khoanh lại và bán cho những công ty mua nợ và quản lý tài sản;
- Xóa nợ bằng nguồn dự phòng rủi ro; xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ;
3 />12
- Chuyển nợ thành vốn góp, cổ phần của doanh nghiệp vay;
- Chính phủ cũng có thể dùng ngân sách mua những khoản nợ này bằng ngân sách
nhà nước hay một cơ quan quản lý của Nhà nước. Dĩ nhiên, các ngân hàng bán nợ
xấu có thể sẽ phải chịu một sự thiệt hại đáng kể vì phải chịu một giá chiết khấu
cao tùy vào khả năng mất vốn của mỗi món nợ.
Làm như vậy, các ngân hàng sẽ làm sạch được bảng cân đối kế toán và từ đó, tập
trung vào kinh doanh và phục hồi tình trạng tài chính hơn là tiếp tục mất rất nhiều nguồn
lực trong việc theo đuổi và xử lý nợ xấu.
3.3. Giải quyết vấn đề quản trị rủi ro, quản trị công ty
Rủi ro tín dụng có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân chủ quan hoặc khách
quan. Đó là những nguyên nhân khách quan từ môi trường kinh doanh, môi trường
pháp lý, hệ thống thông tin hay nguyên nhân chủ quan là từ phía khách hàng vay và
ngân hàng cho vay.
Các biện pháp phòng chống rủi ro có thể nằm trong tầm tay của các ngân hàng
thương mại nhưng cũng có những biện pháp vượt ngoài khả năng của riêng từng ngân
hàng, liên quan đến vấn đề nội tại của bản thân nền kinh tế đang chuyển đổi, đang định
hướng mô hình phát triển. Đối với các ngân hàng khả năng phát hiện và hạn chế rủi ro
tín dụng phụ thuộc vào năng lực của bộ máy quản trị rủi ro tín dụng. Năng lực quản trị
rủi ro tín dụng của ngân hàng phụ thuộc vào chuyên môn của cán bộ tín dụng, cán bộ
phê duyệt tín dụng và các nguồn lực kiểm tra giám sát của ngân hàng. Do vậy biện pháp
phòng ngừa rủi ro tín dụng sâu sắc nhất vẫn là các biện pháp liên quan đến việc đào tạo,
bố trí cán bộ và cơ chế kiểm tra, giám sát hành vi của cán bộ trong quá trình xử lý công
việc. Thực hiện tốt các biện pháp này có thể cho rằng con đường quản trị rủi ro tín dụng
của ngành ngân hàng coi như đã đi được hơn một nửa.
Theo định hướng của đề án tái cấu trúc, để cơ cấu lại hệ thống quản trị cần phải
phát triển các hệ thống quản trị rủi ro phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực của Ủy
ban Basel, trong đó tập trung vào các hệ thống quản trị rủi ro thanh khoản, rủi ro tín
dụng, rủi ro thị trường (giá cả, lãi suất, tỷ giá) và rủi ro tác nghiệp; phát triển các hệ
13
thống xếp hạng tín dụng nội bộ; thực hiện phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro phù
hợp với thông lệ quốc tế và mức độ rủi ro tín dụng; nâng cao năng lực đánh giá, thẩm
định tín dụng và quản lý, giám sát rủi ro tín dụng của tổ chức tín dụng. Đồng thời nâng
cao các điều kiện, tiêu chuẩn về năng lực quản trị, kinh nghiệm công tác và trình độ
chuyên môn đối với các chức danh lãnh đạo, quản lý chủ chốt của các tổ chức tín dụng
IV. Tiến trình thực hiện - năm 2012
Đề án tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam được triển khai ngay trong tháng
2/2012 và được chia làm 3 giai đoạn chính là: củng cố thanh khoản hệ thống ngân hàng
mà trọng tâm là thanh khoản một số ngân hàng có vấn đề; lành mạnh hóa tài chính của
các ngân hàng thương mại mà trọng tâm là xử lý nợ xấu và minh bạch hóa tài chính; tái
cơ cấu tổ chức, hoạt động và quản trị hệ thống ngân hàng. Những nội dung đặt ra cho
năm 2012 và gắn liền với giai đoạn I đã được triển khai trên thực tế. Cụ thể là trong năm
2012, nội dung trọng tâm của tái cấu trúc ngân hàng là hướng vào xử lý 9 ngân hàng yếu
kém để có tiền đề cho các bước xử lý tiếp theo, với 9 tổ chức tín dụng yếu kém đều đã có
phương án xử lý. Kế hoạch cụ thể là sẽ chia các tổ chức tín dụng ra thành 2 nhóm.
- Nhóm thứ nhất: gồm những ngân hàng yếu kém thuộc diện bắt buộc phải tái cơ
cấu, trên cơ sở kết quả thanh tra kiểm soát, kiểm toán, các tổ chức tín dụng tự xây dựng
phương án xử lý của mình. Chỉ trong trường hợp các tổ chức tín dụng không đưa ra được
phương án tự tái cấu trúc thì lúc đó Nhà nước và ngân hàng nhà nước mới tham gia vào
việc xử lý các tổ chức tín dụng này. Sơ bộ là xác định được tổng cộng 9 ngân hàng yếu
kém, khi cơ quan Thanh tra ngân hàng nhà nước tiến hành thanh tra 9 tổ chức tín dụng đã
phát hiện ra rằng, có tổ chức nợ xấu lên tới 30% thậm chí 60%, cao hơn rất nhiều so với
báo cáo của các tổ chức này. Do đó, ngân hàng nhà nước đã bắt buộc các tổ chức tín dụng
này phải trích lập đầy đủ các khoản nợ xấu. Cuối năm 2011, đã có 3 ngân hàng ở phía
Nam, đó là Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB), Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Việt Nam Tín Nghĩa (TinNghiaBank) và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đệ Nhất
(Ficombank) ngân hàng nhà nước phát hiện các ngân hàng này có tình trạng sở hữu chéo
và vay nợ chồng chéo nên đã buộc các đơn vị này xây dựng đề án tái cấu trúc và hợp nhất
14
để giải tỏa tình trạng chồng chéo này. Đến nay, 3 ngân hàng trên đã thực hiện tái cấu trúc
thành công theo hướng hợp nhất thành Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB).
Về việc tái cấu trúc 6 ngân hàng còn lại, trong đó có 3 ngân hàng ở phía Bắc và 3
ngân hàng ở phía Nam, ngân hàng nhà nước đã tiến hành thẩm định các đề án do các
ngân hàng thực hiện và sẽ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Mục tiêu của các đề án
tái cấu trúc này phải đảm bảo được thanh khoản, tránh đổ vỡ, và đặc biệt phải đảm bảo
bù đắp đầy đủ những tổn thất của các ngân hàng bị xử lý.
- Với nhóm thứ hai gồm các ngân hàng đang hoạt động lành mạnh nhưng thấy
rằng cần phải sáp nhập, hợp nhất để nâng cao quy mô, năng lực của mình, thì cho phép
họ sáp nhập, hợp nhất. Khi đó, ngân hàng nhà nước chỉ thông qua các đề án của những
ngân hàng này.
Như vậy, giai đoạn thứ nhất là tái cơ cấu thanh khoản của các ngân hàng, đặc biệt
là những ngân hàng yếu kém thông qua hình thức hợp nhất, sáp nhập cho đến nay đã đạt
được một số kết quả quan trọng:
+ Thanh khoản của toàn hệ thống ngân hàng đã được củng cố và ổn định, một số
ngân hàng nhỏ nguy cơ mất khả năng thanh toán đã được ngăn chặn và đang hoạt động
ổn định trở lại.
+ Sức đề kháng của toàn hệ thống khá tốt và khả năng xử lý cú sốc của các ngân
hàng và của Ngân hàng Nhà nước đáng tin cậy.
+ Hoạt động thị trường liên ngân hàng đã được chấn chỉnh theo hướng minh bạch
hơn. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng khá ổn định và giảm mạnh từ mức trên 20%
xuống còn 10% - 12%, tùy thuộc vào kỳ hạn.
+ Nhiều ngân hàng thương mại quy mô vừa trở lên đều có dự trữ vốn khả dụng tốt.
+ Tăng trưởng huy động vốn từ dân cư khá cao, kể cả nội tệ và ngoại tệ.
15
+ Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời can thiệp xử lý những ngân hàng có nguy cơ
sụp đổ lớn nhất, đã thành công và đã loại bỏ được tác động xấu lan truyền của nó đến
toàn hệ thống. Một số ngân hàng khó khăn khác cũng được Ngân hàng Nhà nước hỗ trợ
thanh khoản và tạo điều kiện cho việc mua lại hoặc sáp nhập theo nguyên tắc thị trường.
Tuy nhiên do vẫn còn tồn tại nhiều yếu tố không minh bạch từ các ngân hàng đã làm cho
ngân hàng nhà nước khó phát hiện được tình trạng thực sự của nó.
Những kết quả đã này tạo tiền đề cho việc thực hiện giai đoạn tiếp theo của
chương trình.
- Giai đoạn 2 là lành mạnh hóa tài chính tập trung xử lý nợ xấu đã được khởi động
bằng một loạt các quy định của Ngân hàng Nhà nước tạo điều kiện cho các ngân hàng
thương mại tái cơ cấu lại nợ, như giãn nợ, giảm lãi suất, đẩy mạnh thủ tục pháp lý để xử
lý nợ Ngân hàng Nhà nước cũng trình Chính phủ để Chính phủ trình Quốc hội cho phép
miễn giảm một số loại thuế, phí đối với các ngân hàng được xử lý mua, bán, sáp nhập.
Đặc biệt, Ngân hàng Nhà nước đã trình Chính phủ Đề án thành lập công ty mua bán nợ
tập trung để xử lý trên quy mô lớn nợ xấu đang là vật cản chủ yếu đối với việc bình
thường hóa quan hệ tín dụng, tạo ra dòng chảy hợp lý về vốn của nền kinh tế.
Tuy nhiên, do quy mô nợ xấu là khá lớn, vượt quá khả năng tự xử lý các ngân
hàng thương mại và doanh nghiệp, vì vậy, nhất thiết phải đưa vào nguồn vốn của Nhà
nước. Vốn cần nhiều hay ít phụ thuộc vào việc giải quyết mua bán nợ nhanh hay chậm.
Do đó, Ngân hàng Nhà nước và Công ty mua bán nợ phải dự kiến thành lập có đầy đủ
quyền lực để xử lý nhanh các giao dịch trên thị trường mua bán nợ.
- Giai đoạn 3, các chương trình tái cơ cấu cũng đã được Ngân hàng Nhà nước
chuẩn bị, bằng việc chuẩn bị ban hành một số quy định sửa đổi Quyết định 493 về phân
loại tài sản, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro, các quyết định về chỉ tiêu an toàn hệ
thống, về công khai minh bạch tài chính, về chuẩn mực kế toán và báo cáo tài chính. Nếu
các thao tác pháp lý thuận lợi thì năm 2013 sẽ là năm trọng tâm của chương trình tái cơ
cấu hệ thống ngân hàng và có thể kết thúc vào năm 2015.
16
V. Kinh nghiệm tái cấu trúc hệ thống tín dụng các nước
5.1. Kinh nghiệm tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Trung Quốc
Cuối những năm 1990, hầu hết ngân hàng Trung Quốc phải đối đầu với vô số vấn
đề như hiệu quả kinh doanh thấp, chất lượng tài sản xấu đi, cạn kiệt thanh khoản,… đã
buộc các ngân hàng phải tiến hành tái cấu trúc, đến nay, trong khi cả thế giới đang vật lộn
với cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính, kể cả các ngân hàng lớn của Mỹ và châu Âu
cũng đang lao đao, thì khối ngân hàng Trung Quốc vẫn trụ vững và đang tích cực hỗ trợ
chủ trương kích cầu của Chính phủ bằng cách tăng cường cho vay và vẫn đảm bảo kiểm
soát được rủi ro tín dụng.
Bước đầu tiên của Chính phủ Trung Quốc trong tiến trình tái cấu trúc hệ thống
ngân hàng là tiến hành tổ chức lại Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa (PBC), tiếp theo là
củng cố và tăng cường hệ thống giám sát tài chính bằng việc thành lập Ủy ban Giám sát
Ngân hàng Trung Hoa, tập trung vào công tác quản trị rủi ro ở các ngân hàng. Ban hành
hàng loạt văn bản và quy định mới, áp dụng những chuẩn mực kế toán và kiểm toán độc
lập khắt khe hơn và những thông lệ quản trị công ty hiện đại nhằm nâng cao tính minh
bạch, khôi phục, duy trì niềm tin của khách hàng, nhận diện những ngân hàng có vấn đề
để kịp thời có biện pháp hỗ trợ, xử lý.
Năm 1998, Trung Quốc thông báo bắt đầu áp dụng các quy tắc, quy định, định
mức và tỷ lệ an toàn theo chuẩn mực của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), tỷ lệ an
toàn vốn được nâng lên mức 8%; những quy định mới về phân loại khoản vay. Nhờ đó đã
hình thành kế hoạch làm sạch bảng cân đối kế toán của các ngân hàng thương mại nhà
nước. Bốn công ty quản lý tài sản được thành lập để xử lý toàn bộ số nợ dưới chuẩn ước
tính lên đến 670 tỷ nhân dân tệ, những công ty này được trao quyền ngoại lệ đặc biệt để
xử lý, mua lại nợ xấu, thậm chí đầu tư và sinh lời từ đó.
Số nợ xấu của các doanh nghiệp nhà nước chiếm tới 70% tổng dư nợ trong hệ
thống ngân hàng được đưa ra ngoài bảng cân đối kế toán để xử lý. Sau đó, Chính phủ
dành ra 40 tỷ nhân dân tệ dự trù ngân sách trong năm 1998 cho mục đích xóa nợ xấu của
17
những doanh nghiệp nhà nước này. Con số này là 30 tỷ nhân dân tệ trong năm trước đó
và tương tự các năm sau đều có khoản dự trù ngân sách dành để xóa nợ xấu. Đồng thời,
những doanh nghiệp nhà nước có nợ xấu được sắp xếp lại nhằm ngăn ngừa nguy cơ làm
giảm chất lượng tài sản của những ngân hàng cho vay vốn. Đối với vấn đề thanh khoản,
kế hoạch tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại nhà nước được triển khai song song.
Số vốn yêu cầu được huy động theo cơ chế ngoài ngân sách, nghĩa là bằng công cụ trái
phiếu chính phủ được phát hành với thời hạn 30 năm.
Bước tiếp theo, Chính phủ Trung Quốc khuyến khích các ngân hàng thương mại
nhà nước xúc tiến kế hoạch niêm yết trên thị trường chứng khoán. Điều này buộc các
ngân hàng phải xây dựng cơ chế quản trị theo chuẩn quốc tế, kinh doanh theo định hướng
thương mại nhiều hơn, nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành, tăng cường tính minh bạch
trong hoạt động, kế hoạch đầu tư và trên sổ sách kế toán.
Nhằm tạo ra môi trường lành mạnh để tránh cho các ngân hàng lại rơi vào làn
sóng nợ dưới chuẩn mới phát sinh, Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa kiên quyết yêu cầu
các ngân hàng cải thiện chất lượng công tác quản trị doanh nghiệp, vì đó là bước đầu tiên
trong việc quản trị rủi ro ngân hàng. Từng ngân hàng được yêu cầu lập kế hoạch với
những chỉ tiêu cụ thể về chuyển đổi mô hình kinh doanh, giới thiệu dịch vụ khác biệt, kế
hoạch quản trị rủi ro tổng thể, ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển nguồn nhân lực…
5.2. Malaysia - Xử lý tập trung tài sản xấu của các ngân hàng
Khủng hoảng tài chính châu Á nổ ra vào năm 1997 đã khiến Malaysia đã phải
hứng chịu một cuộc khủng hoảng tiền tệ và các vấn đề nghiêm trọng trong hệ thống ngân
hàng. Nền kinh tế trải qua suy thoái trầm trọng. Để hỗ trợ kế hoạch tái cơ cấu nhằm củng
cố hệ thống ngân hàng, Malaysia đã thành lập một công ty quản lý tài sản để tập trung xử
lý các tài sản xấu của hệ thống ngân hàng.
Vào nửa cuối năm 1998, công ty quản lý tài sản Pengurusan Danaharta Nasional
Berhad (Danaharta) đã được lập ra với mục đích ưu tiên là xóa bỏ các khoản nợ xấu khỏi
các tổ chức ngân hàng. Mục tiêu của Danaharta là duy trì một tỷ lệ các khoản nợ xấu
18
trong hệ thống ngân hàng ở mức độ có thể quản lý được. Danaharta mua các khoản nợ
xấu có giá trị tối thiểu là 5 triệu ringgit. Vào ngày 31/12/1999, tổng giá trị nợ xấu do
Danaharta quản lý là 45,5 tỷ Ringgit. Việc xóa các khoản nợ xấu này khỏi hệ thống ngân
hàng đã giảm mức nợ xấu trong hệ thống từ 9% vào cuối tháng 11/1998 xuống còn 6,6%
vào cuối tháng 12/1999.
Tuy nhiên, để giải quyết các vấn đề trong hệ thống ngân hàng và đảm bảo ổn định,
tiến tới phục hồi kinh tế vĩ mô, Malaysia không chỉ dừng lại với Danaharta mà đã kết hợp
sử dụng các biện pháp khác. Malaysia đã thành lập thêm một cơ quan tái cấp vốn và một
ủy ban tái cơ cấu nợ doanh nghiệp. Ngoài ra, Ngân hàng trung ương Malaysia cũng thực
thi chính sách sáp nhập ngân hàng.
Danamodal Nasional Berhad (gọi tắt là Danamodal) cũng được thành lập sau đó
dưới dạng một công ty trách nhiệm hữu hạn với nhiệm vụ tập trung vào việc tái cấp vốn
các tổ chức ngân hàng bằng cách bơm vốn cho các tổ chức này. Khi mới thành lập, Ngân
hàng trung ương Malaysia bơm cho Danamodal 1,5 tỷ ringgit làm vốn ban đầu. Trong
trường hợp xấu nhất, Ngân hàng trung ương Malaysia dự tính sẽ cần đến 16 tỷ ringgit để
đưa tỷ lệ vốn theo trọng số rủi ro của tất cả các ngân hàng trong nước lên mức tối thiểu là
9%. Vào tháng 12/1999, tổng số vốn Danamodal bơm cho 10 tập đoàn ngân hàng là 5,3
tỷ ringgit. Đến 31/01/2001, con số này còn 3,7 tỷ ringgit và đến tháng 11/2003,
Danamodal đã thu hồi lại hầu hết các khoản vốn đã “bơm” vào các ngân hàng.
Bên cạnh đó, Malaysia cũng thành lập Ủy ban Tái cơ cấu nợ doanh nghiệp
(Corporate Debt Restructuring Committee - CDRC) với mục đích hỗ trợ các tổ chức ngân
hàng và con nợ có thể đưa ra các kế hoạch tái cơ cấu nợ khả thi. Vì sự tham gia của
CDRC chỉ cần thiết khi giá trị khoản cho vay vượt quá 50 triệu ringgit, các đơn vị phục
hồi nợ đặc biệt cũng đã được thành lập để quản lý các khoản nợ xấu với giá trị nhỏ hơn.
Trên thực tế, số tài sản được bán trong các cuộc đấu thầu mở đã thu về số tiền đáng kể
khoảng 840,2 triệu ringgit vào tháng 7/2001, góp phần đáng kể vào việc xử lý các khoản
nợ xấu giá trị lớn.
19
Malaysia đã đạt được những thành công nhất định như hạ tỷ lệ nợ xấu và sáp nhập
một số ngân hàng. Quá trình cải cách về cơ bản được hoàn thành vào năm 2002, hệ thống
ngân hàng được tái cơ cấu lại với 10 tập đoàn ngân hàng, nền kinh tế dần lấy lại ổn định
và phục hồi.
Khi đạt đến một bước phát triển nhất định mỗi nền kinh tế đều phải điều chỉnh lại
những thành tố cấu thành của nó để vươn đến một nấc thang phát triển mới, hoặc để giải
quyết các vấn đề mang tính cốt lõi. Tái cơ cấu ngân hàng là việc làm cần thiết để Việt
Nam giải quyết các vấn đề tồn tại trong hệ thống tài chính và duy trì phát triển kinh tế
bền vững. Đây cũng là một bước chuẩn bị quan trọng góp phần đảm bảo để chúng ta tự
tin, chủ động tham gia toàn cầu hóa và đạt được những mục tiêu hướng đến. Việc lựa
chọn mô hình nào hay áp dụng kinh nghiệm thực tế từ những nước đã đạt được thành
công trong việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng cũng là vấn đề đang được quan tâm. Cũng
như các quốc gia đã và đang thực hiện tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, chúng ta cần có
những bước đi riêng và phù hợp với điều kiện thực tế của nước mình.
VI. Những vấn đề còn tồn tại từ đề án tái cấu trúc hệ thống tín dụng
6.1. Xu hướng hợp nhất, sáp nhập:
Việc mua bán sáp nhập là một trong các phương thức của tái cấu trúc. Nếu một
ngân hàng khỏe về tài chính, tốt về quản trị khi sáp nhập với một ngân hàng yếu, có thể
sẽ giúp ngân hàng yếu tái cấu trúc lại và hoạt động hiệu quả. Hoặc hai ngân hàng có hai
sở trường khác nhau và khi sáp nhập sẽ giúp họ phát huy các lợi thế riêng có để trở thành
một định chế mạnh hơn cũng là việc nên cổ vũ. Tuy nhiên, nếu hai ngân hàng đều yếu
kém và không có lợi thế riêng mà lại hợp nhất thì sẽ không giải quyết được vấn đề gì, mà
trái lại đó còn là bước lùi của việc tái cấu trúc.
Quan điểm của đề án tái cấu trúc cũng như thực tế đã triển khai cho thấy chuyện
sắp xếp lại, hợp nhất, sáp nhập hay thâu tóm cũng chỉ nhằm mục đích làm giảm số lượng
ngân hàng. Nghĩa là mới chủ yếu chú ý đến số lượng, chứ chưa đi vào thực chất, do đó,
vấn đề là phải tái cơ cấu ngân hàng vừa hợp nhất như thế nào?
20
Mặc dù ngân hàng nhà nước chủ trương khuyến khích các ngân hàng sáp nhập,
hợp nhất theo hướng tự nguyện, nhưng các ngân hàng có phần không mặn mà. Nguyên
nhân của thực trạng này xuất phát từ vấn đề lợi ích của các cổ đông lớn, cổ đông nội bộ,
việc sáp nhập có thể khiến họ bị mất chức, lợi ích cá nhân không được duy trì. Bên cạnh
đó, mỗi ngân hàng lại yếu kém theo một hình thức khác nhau, nên việc sáp nhập, hợp
nhất hai ngân hàng yếu khó có thể trở thành một ngân hàng mạnh, nếu không có sự biến
đổi về chất trong năng lực quản trị, điều hành. Nhưng cũng rất khó để một ngân hàng
mạnh tự nguyện sáp nhập với một ngân hàng yếu. Vì vậy, nhất thiết Ngân hàng nhà nước
phải tham gia vào quá trình sáp nhập, hợp nhất, mua bán các ngân hàng yếu kém thì quá
trình này mới đạt hiệu quả như mong muốn. Bởi chỉ có Ngân hàng nhà nước mới hiểu rõ
nhất những ngân hàng yếu kém như thế nào và cần phải sáp nhập với ngân hàng nào, sau
quá trình sáp nhập cần phải làm gì để mạnh lên. Với những ngân hàng quá yếu, đến mức
không một đối tác nào muốn thâu tóm, thì Ngân hàng nhà nước phải đứng ra mua lại. Sau
khi cơ cấu lại để những ngân hàng này lành mạnh hơn sẽ bán lại cho ngân hàng, nhà đầu
tư khác.
6.2. Tái cấu trúc ngân hàng thương mại nhà nước
Vấn đề tái cấu trúc ngân hàng thương mại nhà nước đã được xem là một phần
quan trọng trong đề án tái cấu trúc, hiện ngoại trừ Ngân hàng Phát triển Nhà Đồng bằng
Sông Cửu Long (MHB), những ngân hàng thương mại nhà nước khác đều có quy mô rất
lớn, có mạng lưới giao dịch và cơ sở tiền gửi rất rộng, nên cho dù yếu kém nhưng thanh
khoản vẫn được đảm bảo. Chính vì thế, sức ép để tái cấu trúc các ngân hàng này ngay là
chưa lớn so với khối ngân hàng thương mại cổ phần, những ngân hàng yếu kém đều nằm
trong khối này.
Thứ hai, hiện hầu hết doanh nghiệp nhà nước là khách hàng của các ngân hàng
thương mại nhà nước. Dư nợ của khối này chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng dư nợ của
các ngân hàng thương mại nhà nước. Vì vậy, việc tái cấu trúc các ngân hàng thương mại
nhà nước không thể tách rời quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước và đầu tư công.
21
Một điểm nữa cũng rất quan trọng trước khi tái cơ cấu các ngân hàng thương mại
nhà nước là phải thay đổi quan điểm xem các ngân hàng này là cơ quan tài chính thứ hai
của Chính phủ. Hiện tại, mặc dù là ngân hàng thương mại, song tính thương mại của các
ngân hàng thương mại nhà nước là không đầy đủ, khi phần nào đó vẫn phải thực hiện
hoạt động cho vay và đầu tư theo chỉ định đối với các dự án của Nhà nước hay được các
cơ quan nhà nước bảo trợ.
Tóm lại, việc tái cấu trúc các ngân hàng thương mại nhà nước phải giải quyết
được ba vấn đề. Một là, các ngân hàng thương mại nhà nước không còn là cơ quan tài
chính của Chính phủ, không chỉ trên giấy tờ, mà là thực chất. Hai là, làm rõ đại diện vốn
chủ sở hữu trong các ngân hàng thương mại nhà nước. Ba là, gắn kết tái cơ cấu ngân
hàng thương mại nhà nước với tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và đầu tư công.
6.3. Nợ xấu chưa được công khai minh bạch
Chỉ số nợ xấu của Việt Nam còn cao nhưng đây cũng không hẳn là hiện tượng
hiếm trong bối cảnh khó khăn chung của kinh tế thế giới. Ví dụ: các ngân hàng Nhật Bản
trong những năm 1990 cũng có tỷ lệ nợ xấu cao hơn 10%, thậm chí một số ngân hàng yếu
kém của các nước này có tỷ lệ nợ xấu lên đến 17-18%.
Điều quan trọng nhất để tái cơ cấu ngân hàng hiệu quả trước tiên phải giải quyết
sự minh bạch của thông tin, những chuẩn mực về an toàn tài chính phải được đảm bảo và
công bố thường xuyên. Hàng loạt điểm mà ngân hàng cần minh bạch như: Nợ xấu, quản
trị, cơ chế, chính sách… Các cơ quan quản lý, giám sát phải được tiếp cận với các thông
tin đó một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời. Ngân hàng lớn hay bé cũng đều có chuẩn
chung là sự minh bạch và dựa vào đó để biết được tình trạng của ngân hàng và từ đó đưa
ra cách giải quyết hiệu quả.
Năm 2000, vốn điều lệ toàn hệ thống ngân hàng là 500 triệu USD, tổng tài sản vào
khoảng 10 tỷ USD. Đến năm 2011, vốn điều lệ lên tới 12,5 tỷ USD, tổng tài sản vào
khoảng 180 tỷ USD. Chỉ trong vòng 10 năm, tổng vốn và tài sản tăng 18 lần. Cùng với
tốc độ đó, lẽ ra trình độ quản lý cũng tăng theo nhưng thực tế vẫn ì ạch với với các triết lý
22
quản lý cũ, không phù hợp mới sự phát triển nhanh nhạy của thị trường. Họ chủ yếu
thành lập ngân hàng để tăng vốn cho tập đoàn, công ty của mình. Khi quản trị doanh
nghiệp lạc hậu đương nhiên dẫn đến chất lượng tài sản thấp và nợ xấu cao. Đến nay, ngay
cả Ủy ban giám sát Tài chính quốc gia và ngân hàng nhà nước cũng không biết chính xác
số nợ xấu là bao nhiêu vì ngân hàng báo cáo thực. nguyên nhân của điều này phần lớn là
do hạch toán không minh bạch, đạo đức nghề nghiệp méo mó. Thực tế cho thấy chỉ 1/3
các báo cáo của ngân hàng là tương đối, còn lại đều đáng nghi ngờ. Nhiệm vụ trước khi
tái cấu trúc là phải biết con số thực về nợ xấu. Nếu không biết dược con số này thì
chương trình tái cấu trúc là vô nghĩa.
6.4. Một số định hướng của đề án tái cấu trúc hệ thống tín dụng
Đề án cho rằng cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng và từng tổ chức tín dụng là
một quá trình thường xuyên, liên tục. Quan điểm này cần được nhìn nhận lại một cách đầy
đủ hơn. Trước hết, việc cơ cấu lại chỉ thực sự cần thiết khi hoạt động của các tổ chức tín
dụng đi chệch khỏi chức năng cơ bản của chúng trong nền kinh tế hoặc có những trục trặc
nảy sinh gây mất an toàn hoặc nguy cơ đổ vỡ có tính hệ thống. Hơn nữa, tái cấu trúc là
một quá trình tốn kém đối với không chỉ các tổ chức tín dụng mà còn là ngân sách chính
phủ và nguồn lực xã hội.
Tái cấu trúc là việc sửa chữa yếu kém để phát triển chứ không phải là một quá trình
phát triển do đó, tái cấu trúc không thể là một quá trình thường xuyên và liên tục, nó chỉ
được xem là một hoạt động trong một giai đoạn nhất định được lập kế hoạch hoặc nhằm
sửa chữa các trục trặc với yêu cầu thời gian ngắn nhất và ít tốn kém nhất mà thôi.
6.5. Vị trí chủ đạo của ngân hàng thương mại nhà nước trong hệ thống tín dụng
Về quan điểm vai trò và vị trí chi phối, dẫn dắt thị trường của các tổ chức tín dụng
Việt Nam, đặc biệt là các ngân hàng thương mại nhà nước. Không nên đưa ra quan điểm
có tính phân biệt đối xử giữa hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam với nước ngoài
23
trong đề án tái cơ cấu ngân hàng, quan điểm này không phù hợp với lộ trình tự do hóa tài
chính và mở cửa khu vực tài chính, ngân hàng mà Việt Nam cam kết thực hiện đồng thời
nó cũng mâu thuẫn với mục tiêu là nâng cao khả năng cạnh tranh của các tổ chức tín dụng
Việt Nam. Khả năng cạnh tranh của các tổ chức tín dụng chỉ có thể được nâng cao khi nó
được đặt trong môi trường cạnh tranh. Quan điểm về tính chủ đạo của các ngân hàng
thương mại nhà nước chắc chắn sẽ làm giảm động lực của cạnh tranh và cũng như thừa
nhận những yếu kém sẽ tiếp tục tồn tại trong khu vực kinh tế nhà nước thời gian tới.
6.6. Quan điểm phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng đa dạng về sở hữu, quy mô
và loại hình
Đề án nhấn mạnh sự phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng đa dạng về sở hữu,
quy mô và loại hình phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay. Quan điểm tái cấu trúc hệ thống tổ chức tín dụng hiện nay cần
phải dựa trên đặc điểm và trình độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn sắp
tới ở tương lai chứ không thể để phù hợp với giai đoạn hiện nay. Do quá trình phát triển
của nền kinh tế diễn ra nhanh chóng, chưa tính đến khả năng tác động của các quá trình
tái cấu trúc khác sẽ dẫn đến sự định hình một diện mạo kinh tế mới, khi đó hệ thống các
tổ chức tín dụng cũng đảm bảo độ tương thích với giai đoạn đó chứ không phải hiện nay.
Về quan điểm phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam đa dạng về sở
hữu, thực tế hiện này các tổ chức tín dụng đã có sự đa dạng, gồm nhiều hình thức sở hữu
khách nhau gồm sở hữu nhà nước, sở hữu cổ phần, sở hữu tập thể, sở hữu nước ngoài và
sở hữu hỗn hợp. Các hình thức sở hữu này mặc dù được thừa nhận trong thực tế nhưng nó
lại không thực chất. Ví dụ như việc các ngân hàng thương mại nhà nước bán một lượng
nhỏ cổ phần cho công chúng thì trên thực tế nó không làm thay đổi bản chất sở hữu trong
các ngân hàng này.
Hay như các ngân hàng cổ phần quy mô nhỏ thường có số lượng cổ đông đại
chúng rất hạn chế mà chủ yếu là cấu trúc sở hữu chéo và sở hữu gia đình. Chính sự thiếu
24
rõ ràng trong các quan hệ sở hữu đã dẫn đến những rủi ro đạo đức, sự yếu kém của các
ngân hàng hiện nay. Vì vậy, quan điểm đa dạng hóa về sở hữu sẽ không quan trọng bằng
việc minh bạch hóa quyền sở hữu và sở hữu thực chất trong hệ thống ngân hàng.
Về quy mô, trên thực tế hệ thống các tổ chức tín dụng, đặc biệt các ngân hàng
thương mại cổ phần đã có sự đa dạng về quy mô. Tuy nhiên, từ sau khi Chính phủ ban
hành Nghị định 141/2006/NĐ-CP về Ban hành danh mục mức vốn pháp định của các tổ
chức tín dụng thì các ngân hàng được quy về một quy mô vốn pháp định tối thiểu trong
khi lại không đi kèm với những đòi hỏi cao hơn về trình độ quản trị. Điều này đặt các
ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng quy mô nhỏ, phải chạy đua với nhau để tăng quy mô
vốn một cách rất gấp gáp trong khi năng lực quản trị cần có cho một ngân hàng quy mô
lớn hơn nhiều đã không theo kịp, trong khi các ngân hàng này hoạt động trong môi trường
cạnh tranh cao do đó, khi nền kinh tế rơi vào bất ổn thì các yếu kém bắt đầu lộ ra mà hậu
quả là một loại các công việc mà công cuộc tái cấu trúc cần phải giải quyết. Do đó, để các
ngân hàng thực sự đa dạng về quy mô thì việc đề ra lộ trình tăng vốn điều lệ tối thiểu là
không cần thiết bằng việc đề ra các tiêu chuẩn về các tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu trong
khuôn khổ Basel II và giám sát chặt chẽ việc tuân thủ các tiêu chuẩn này trên thực tế.
Quan điểm phát triển đa dạng các loại hình tổ chức tín dụng là phù hợp bởi nó xuất
phát từ đòi hỏi cần phải đáp ứng tốt hơn nhu cầu dịch vụ tài chính, ngân hàng của mọi
tầng lớp trong xã hội. Có một thực tế hiện nay là nội dung hoạt động của các ngân hàng
và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng tương đối giống nhau về cả phương thức huy động
vốn lẫn phương thức cấp tín dụng. Do đó, cùng với quan điểm về đa dạng hóa loại hình
hoạt động, cần phải phân tách rạch ròi trong hoạt động giữa các loại hình tổ chức tín
dụng, bao gồm giữa các loại hình ngân hàng và giữa ngân hàng với tổ chức tín dụng phi
ngân hàng ngay trong quá trình tái cấu trúc.
Quá trình tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng mới đi được những bước đầu tiên,
hơn nữa tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng lần này nằm trong tổng thể cơ cấu lại nền kinh
25