3
PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH CÁCH VẼ BIỂU ĐỒ TRONG TÀI
TẬP ĐỊA LÝ LỚP 12 THPT
4
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sách giáo khoa Địa lý lớp 12 (theo chương trình đổi mới) được biên soạn theo
tinh thần cung cấp các tình huống, các thông tin đã được lựa chọn để giáo viên có
thể tổ chức, hướng dẫn cho học sinh tập phân tích, tổng hợp và xử lý thông tin, tạo
điều kiện cho học sinh trong quá trình học tập vừa tiếp nhận được các kiến thức, vừa
rèn luyện được các kỹ năng và nắm được phương pháp học tập.
Bên cạnh các bài học chính, bài đọc thêm, chương trình địa lý lớp 12 có 8 bài
thực hành và sau mỗi bài học đều có phần câu hỏi và bài tập để củng cố kiến thức và
kĩ năng của học sinh. Các bài thực hành Địa lý và phần bài tập Địa lý trước đây
thường bị xem nhẹ mặc dù nó rất quan trọng.
Hiện nay, dạy học được coi là quá trình phát triển của bản thân học sinh, việc
học tập không chỉ là quá trình lĩnh hội kiến thức có sẵn mà còn là quá trình học sinh
tự khám phá, tự tìm đến với kiến thức mới nhờ sự giúp đỡ, hướng dẫn của giáo viên.
Quá trình này được thể hiện rất rõ trong các bài thực hành Địa lý và các bài tập Địa
lý lớp 12.
Trong các bài thực hành và phần bài tập Địa lý lớp 12, sách giáo khoa không
còn chỉ là tài liệu trình bày các kiến thức có sẵn để học sinh dựa vào đó xác định, vẽ
biểu đồ rồi trả lời câu hỏi. Do đó cùng với việc đổi mới về kiến thức, chương trình
sách giáo khoa thì cần phải có sự đổi mới về phương pháp để tổ chức các hoạt động
học tập tự giác, tích cực và độc lập của học sinh. Để học sinh có thể tự xác định và
vẽ được biểu đồ và làm trọn vẹn được các bài tập Địa lý.
Với phương pháp và kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, tôi xin được đưa ra
đề tài: “Phương pháp xác định - cách vẽ biểu đồ trong bài tập địa lý lớp 12 -
THPT” để đồng nghiệp nghiên cứu, tham khảo và rất mong nhận được sự đóng góp
của các đồng nghiệp cũng như các tổ chức chuyên môn để đề tài được hoàn thiện
hơn.
5
PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ KHOA HỌC.
Trong quá trình hội nhập nền kinh tế ngày nay, giáo dục được coi là một lĩnh
vực rất quan trọng và luôn đi trước một bước trong sự phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia. Vì vậy, vấn đề chất lượng dạy - học nói chung và dạy học Địa lý nói riêng
ngày càng trở thành mối quan tâm chung của các nhà sư phạm cũng như các nhà
quản lý giáo dục và xã hội. Đảng và nhà nước ta đã khẳng định: “Giáo dục là quốc
sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”. Điều đó đã được thể
hiện trong các Nghị quyết của Trung ương.
Nghị quyết TW 4 khoá VII đã chỉ rõ phải “Đổi mới phương pháp dạy học ở
tất cả các cấp học, bậc học. Kết hợp học với hành, học tập với lao động sản xuất,
thực nghiệm và nghiên cứu khoa học, gắn nhà trường với xã hội. áp dụng những
phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng
tạo, năng lực giải quyết vấn đề”.
Nghị quyết TW2 khoá VIII tiếp tục khẳng định phải “Đổi mới phương pháp
giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy
sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và
phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự
học, tự nghiên cứu cho học sinh”.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn của xã hội môn Địa lí trong nhà trường
nói chung và môn Địa lí lớp 12 nói riêng không ngừng cải tiến chương trình, cải tiến
phương pháp dạy học nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Trong đó "phương pháp xác
định - cách vẽ biểu đồ trong bài tập địa lí lớp 12" đóng vai trò quan trọng, nó có
nhiệm vụ củng cố, rèn luyện kĩ năng Địa lí cho học sinh một cách thuần thục và chắc
chắn hơn .
Việc xác định - và cách vẽ biểu đồ trong bài tập, bài thực hành Địa lí không
những giúp cho học sinh củng cố kĩ năng vẽ biểu đồ đã học ở lớp 10 - 11 mà còn
vận dụng những kiến thức đã học vào nhận xét và giải thích biểu đồ đã vẽ được. Từ
6
đó làm cho học sinh có cách nhìn nhận, đánh giá các sự vật, hiện tượng một cách
đúng đắn, chính xác và khách quan.
Theo cấu trúc chương trình, hầu như sau mỗi bài học ở chương trình Địa lí lớp
12 đều có một bài tập hoặc một bài thực hành vẽ biểu đồ. Đây là thuận lợi rất lớn
giúp giáo viên thực hiện tốt các phương pháp rèn luyện kĩ năng Địa lí cho học sinh
trong quá trình dạy học. Từ đó, học sinh nhận thức tri thức một cách khách quan
đồng thời thấy rõ những thuận lợi và khó khăn về các vấn đề Địa lí ở nước ta.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN.
Trong các môn học ở nhà trường THPT đều vận dụng rất nhiều các bài tập, bài
thực hành. Mỗi môn học có một số dạng bài tập với đặc thù riêng, đối với môn Địa
lý cũng vậy. Ở đây tôi chỉ xin đưa ra một phần trong tổng hợp phần bài tập Địa lý đó
là dạng bài tập vẽ biểu đồ.
Bài thực hành vẽ biểu đồ giúp cho học sinh trong quá trình học tập tiếp thu
được kiến thức từ đơn giản đến phức tạp. Cũng qua đó mà học sinh bồi dưỡng thêm
năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn.
Rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh ở các môn học là một quá trình phối
hợp nhiều mặt, thể hiện trong chương trình, nội dung của các môn học trong đó có
môn Địa lý. Song để rèn luyện được kĩ năng đó học sinh cần nhận biết được yêu cầu
bài ra, xác định hướng, cách làm bài sau khi đọc kĩ bài.
Qua các bài thực hành, bài tập đó giúp cho giáo viên hệ thống các loại biểu đồ,
phân loại các dạng bài tập biểu đồ. Qua đó tạo điều kiện cho giáo viên phát huy khả
năng giảng dạy bài thực hành và hướng dẫn học sinh làm bài tập Địa lý. Học sinh
nhận thức được các loại biểu đồ: dạng cột, tròn, đường, miền… Xác định được kiểu
biểu đồ khi đọc bất kì một bài tập thực hành nào.
Vì vậy "phương pháp xác định - cách vẽ biểu đồ trong bài tập địa lý lớp 12"
yêu cầu học sinh phải làm việc độc lập, tích cực để xác định được yêu cầu của bài
7
thực hành, từ đó xác định được cần vẽ loại biểu đồ nào cho phù hợp.
III. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
1. Những khó khăn khi thực hiện phương pháp xác định - cách vẽ biểu đồ trong
bài tập địa lý lớp 12
Đa số học sinh xem môn Địa lí là môn phụ, do đó ít chú ý đến học tập bộ môn
này. Kết quả cho thấy điểm tổng kết của các em phần lớn chỉ đạt điểm trung bình,
nhiều em học môn Địa lí khá, giỏi nhưng khi giáo viên lấy đội tuyển bồi dưỡng học
sinh giỏi thì các em không tham gia vì cho rằng đây chỉ là môn học phụ. Từ đó giáo
viên dạy Địa lí làm sao phát huy được năng lực của mình khi phương pháp dạy học
được đổi mới, đồ dùng dạy học phong phú, đa dạng
Qua điều tra khảo sát ở các trường, hầu hết học sinh đều cho rằng, phương
pháp xác định - cách vẽ biểu đồ trong bài tập địa lý lớp 12 là quá bình thường và khá
đơn giản. Nhưng trong thực tế, khi thực hiện thì đây là một điều không dễ dàng.
Một khó khăn nữa là việc rèn luyện kĩ năng này chỉ chiếm một thời lượng rất
ít trong 1 tiết dạy do đó đòi hỏi học sinh phải nghiên cứu trước các yêu cầu mà bài
tập hoặc bài thực hành mà giáo viên đã giao cho, nhưng nhiều em chưa thực sự tập
trung và quan tâm đến yêu cầu mà giáo viên đã giao nên đây cũng là khó khăn lớn
đối với giáo viên khi thực hiện dạy một bài thực hành vẽ biểu đồ hoặc một bài tập vẽ
biểu đồ, do đó:
- Học sinh không xác định được yêu cầu của đề bài.
- Học sinh không xác định được kiểu biểu đồ sẽ vẽ là gì và việc xử lí bảng số
liệu (nếu có).
- Học sinh chưa vẽ được biểu đồ thích hợp và đúng với yêu cầu đề bài.
- Kỹ năng vẽ biểu đồ của học sinh còn lúng túng.
- Học sinh chưa nắm được các bước tiến hành khi vẽ biểu đồ.
Từ đó tỉ lệ học sinh đọc và biết phân tích bảng số liệu, xác định loại biểu đồ
thích hợp đối với bài yêu cầu còn thấp, số lượng học sinh biết xác định ngay được
cách vẽ biểu đồ đúng chiếm tỉ lệ không cao. Do đó, tôi đã thực hiện khảo sát phương
8
pháp xác định - cách vẽ biểu đồ trong phần bài tập địa lý lớp 12 đối với học sinh lớp
12B.
Lớp
T/số học sinh Biết xác định và vẽ đúng
Chưa biết cách xác định
12
50 31 19
% 100 56 44
Vì vậy kết quả bài tập trong quá trình điều tra chưa cao, cụ thể:
Lớp TS học sinh Điểm giỏi Điểm khá Điểm TB Điểm yếu, kém
12
50 2 15 19 14
Tỷ lệ
%
100 4 30 38 28
Từ những lí do trên chính là thực trạng cần giải quyết, tháo gỡ.
2. Một số ưu điểm của giáo viên dạy Địa lí ở các trường THPT
Qua khảo sát thực tế và tiến hành dự giờ đồng nghiệp khi dạy các bài có vẽ
biểu đồ, tôi nhận thấy:
- Phần lớn giáo viên có quan niệm đúng về chức năng của một bài tập, bài thực
hành vẽ biểu đồ thể hiện trong việc chuẩn bị chu đáo về giáo án, yêu cầu, mục đích
của bài tập là gì, biểu đồ thể hiện yếu tố nào của đối tượng địa lí. Đây là phần không
những rèn luyện kĩ năng kiến thức mà còn củng cố những kiến thức đã học ở trong
bài, từ đó học sinh xây dựng được các mối liên hệ Địa lí.
- Hầu hết giáo viên biết vận dụng sáng tạo, khoa học các kĩ năng rèn luyện cho
học sinh theo phương pháp dạy học tích cực, do đó đã phát huy được tính tư duy độc
lập cho học sinh, giúp học sinh nắm chắc nội dung của bài học và rèn luyện tốt kĩ
năng cho các em.
9
IV. CÁC BIỆN PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Để làm tốt việc xác định "Phương pháp xác định - cách vẽ biểu đồ trong bài
tập địa lý lớp 12" cho học sinh
- Trong giảng dạy, giáo viên cần lựa chọn các phương pháp tích cực trên cơ sở
coi trọng nhận thức của học sinh, tăng cường vai trò tổ chức lĩnh hội, khám phá kiến
thức. Trong giờ giảng, giáo viên giành nhiều thời gian cho học sinh tự làm việc với
sách giáo khoa, biểu đồ, lược đồ và với các thiết bị học tập khác để học sinh tự chủ
động tìm ra kiến thức mới dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Tất cả các khâu này,
giáo viên phải thể hiện chu đáo, tỉ mĩ, hết sức cụ thể trong bài soạn, hướng dẫn học
sinh ôn lại những kiến thức đã học để vận dụng vào giải thích sau khi vẽ biểu đồ.
- Trong một tiết thực hành vẽ biểu đồ, giáo viên phải hướng dẫn học sinh chuẩn
bị đầy đủ các đồ dùng cần thiết cho tiết học: máy tính cá nhân, thước kẻ, compa để
giúp học sinh chủ động trong khi vẽ biểu đồ.
2. Biện pháp thực hiện
* Giới thiệu cách vẽ - xác định biều đồ Địa lý lớp 12
Để xác định được yêu cầu bài ra và tiến hành vẽ biểu đồ, học sinh cần hiểu khái
niệm biểu đồ.
2.1. Khái niệm
Biểu đồ là một hình vẽ cho phép mô tả một cách dễ dàng động thái phát triển
của một hiện tượng (như quá trình phát triển kinh tế qua các năm…), mối tương
quan về độ lớn giữa các đại lượng (so sánh sản lượng thủy sản giữa các vùng kinh
tế…) hoặc cơ cấu thành phần của một tổng thể (cơ cấu ngành của nền kinh tế).
Các loại biểu đồ rất phong phú, đa dạng. Mỗi loại biểu đồ thể hiện nhiều chủ
thể khác nhau, nên khi vẽ biểu đồ cần đọc kĩ yêu cầu đề ra, xác định chủ thể thể hiện
trên biểu đồ (động thái phát triển, so sánh tương quan độ lớn hay thể hiện cơ cấu) để
chọn loại biểu đồ thích hợp nhất.
10
2.2. Các loại biểu đồ
- Các loại biểu đồ bao gồm:
+ Biểu đồ hình cột (cột đơn, cột kép, cột chồng, thang ngang).
+ Biều đồ hình tròn (hoặc hình vuông).
+ Đồ thị (đường biểu diễn).
+ Biểu đồ kết hợp (cột + đường).
+ Biểu đồ miền.
a. Biểu đồ hình cột: Bài 19
- Sử dụng biểu hiện trạng thái phát triển so sánh tương quan về độ lớn giữa các
đại lượng hoặc thể hiện cơ cấu thành phần của một tổng thể.
- Biểu đồ hình cột sử dụng để thể hiện tương quan về độ lớn giữa các đại lượng.
* Yêu cầu:
+ Chọn kích thước biểu đồ phù hợp với khổ giấy
+ Các cột khác nhau về độ cao (tùy theo số liệu đề bài), còn bề ngang phải bằng
nhau.
+ Tên biểu đồ.
b. Biểu đồ hình tròn: Bài tập trang 96, Bài 29, Bài 38, Bài 40
- Biểu đồ hình tròn thường được dùng để thể hiện cơ cấu thành phần của một tổng
thể.
Đối với biểu đồ hình tròn: nếu đề bài cho số liệu tương đối thì không cần xử lý mà
tiến hành các bước vẽ luôn. Song nếu số liệu là tuyệt đối (thô) thì cần xử lí số liệu về
tương đối trước khi vẽ.
* Yêu cầu:
+ Đọc bảng số liệu, xử lý số liệu (nếu cho số liệu tuyệt đối), nếu là số liệu tương đối
thì tiến hành các bước vẽ.
11
+ Chú ý tỉ lệ đường tròn (nếu bài cho số liệu tuyệt đối).
Nếu bài cho số liệu tương đối thì vẽ các đường tròn có kích thước bằng nhau.
Nếu bài cho số liệu tuyệt đối thì phải tính tỉ lệ đường tròn (R- r) ta cho tổng nhỏ nhất
R1 = 1, lần lượt lớn dần lấy tổng sau R2/ R1 = căn bậc hai là được bán kính của các
hình tròn.
+ Để chia các đại lượng chính xác theo tỉ lệ cần lấy tỉ lệ x 3,60 để tính góc ở tâm.
+ Chọn ký hiệu thích hợp để thể hiện trên biểu đồ.
+ Tên biểu đồ.
c. Vẽ đồ thị (đường biểu diễn) Bài 23, H
31.3
- Được dùng để thể hiện tiến trình động thái phát triển của một hiện tượng qua thời
gian.
* Yêu cầu:
+ Hệ trục toạ độ: trục đứng thể hiện đơn vị sản lượng.
+ Trục ngang thể hiện năm.
- Xác định tỉ lệ thích hợp ở cả hai trục sao cho biểu đồ phù hợp với khổ giấy
(cân đối).
+ Xác định khoảng cách cân đối phù hợp.
- Với biểu đồ này nếu bài ra có 2 đại lượng khác nhau (đơn vị tính khác nhau)
thì vẽ 2 trục đứng: Trục biểu hiện đơn vị A, trục biểu hiện đơn vị B.
- Cũng có thể bài ra yêu cầu có nhiều đại lượng cùng đơn vị tính (%) thì cần
biểu hiện rõ đường biểu diễn (ký hiệu) tránh từng ký hiệu.
+ Ký hiệu đường biểu diễn cần được phân biệt:
- Màu sắc (đen, xanh, đỏ…)
- Ký tự riêng (thường được dùng nhiều).
d. Biểu đồ kết hợp cột và đường: Xem H 27.2,H 31.6
- Dùng để thể hiện động lực phát triển và mối tương quan về độ lớn giữa các đại
lượng.
- Biểu đồ kết hợp : kết hợp đề mục 1 và 3 trong phần b của bài. Cần chú ý thể
hiện rõ nhất mối tương qua giữa 2 loại biểu đồ được vẽ kết hợp.
12
* Yêu cầu:
+ Kết hợp yêu cầu của biểu đồ hình cột và đường biểu diễn.
đ. Biểu đồ miền : Bài tập trang 143
- Dùng để thể hiện cả hai mặt cơ cấu và động thái phát triển của đối tượng.
- Ranh giới của biểu đồ miền là đường biểu diễn.
- Giá trị đại lượng trên trục đứng là %.
Nếu bài ra cho số liệu đơn vị tuyệt đối thì cần phải xử lý số liệu từ đơn vị tuyệt
đối sang số liệu đơn vị tương đối.
2.3. Đọc kĩ yêu cầu
Có nhiều loại biểu đồ. Để vẽ biểu đồ, học sinh cần đọc kĩ bài ra vẽ biểu đồ về
quá trình gia tăng dân số, cơ cấu lao động, tình hình sản xuất lương thực ở một vùng
kinh tế hay của Việt Nam.
+ Biểu đồ cột (thang ngang).
+ Biều đồ tròn (vuông).
+ Đồ thị (đường biểu diễn).
+ Biểu đồ kết hợp (cột + đường).
+ Biểu đồ miền.
2.4. Các bước tiến hành vẽ biểu đồ.
- Xử lý số liệu (từ số liệu tuyệt đối sang số liệu tương đối) đơn vị % nếu yêu cầu
bài ra vẽ biểu đồ hình tròn hoặc miền.
- Xác định tỉ lệ đường tròn.
- Vẽ biểu đồ.
+ Vẽ.
+ Ghi bảng chú giải (kí hiệu).
+ Tên bản đồ (tên chung nếu là biểu đồ so sánh).
2.5. Một số lưu ý khi vẽ biểu đồ.
- Đọc kĩ số liệu bài ra.
- Tuyệt đối không dùng màu để tô, kí hiệu trên bản đồ.
13
- Nếu là biểu đồ tròn: khi vẽ đường tròn, vẽ 1 bán kính trùng với phương kim
đồng hồ chỉ 12 giờ và chia theo chiều kim đồng hồ.
- Bất cứ một biểu đồ nào cũng cần chú giải và tên bản đồ.
Trên đây là các dạng biểu đồ thường gặp khi làm bài tập, bài thực hành Địa lí.
Trong quá trình giảng dạy tiến hành làm bài tập, bài thực hành vẽ biểu đồ tôi nhận
thấy vẽ biểu đồ hình tròn rất khó vì: Nếu đề bài cho số liệu tương đối thì học sinh dễ
nhận biết và không cần xử lý mà tiến hành các bước vẽ luôn. Song nếu số liệu là tuyệt
đối (thô) thì học sinh khó nhận biết để vẽ biểu đồ hình tròn, cần xử lí số liệu về tương
đối trước khi vẽ.
Qua nhiều năm giảng dạy Địa lí lớp 12 tôi mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm
phương pháp xác định - cách vẽ biểu đồ hình tròn nhằm giúp học sinh có kĩ năng thuần
thục hơn trong kĩ năng vẽ biểu đồ của mình.
Ví dụ:
Bài 29 - Trang 128 sách giáo khoa Địa lý 12 ( Ban cơ bản)
- Bài tập số 1:
Vẽ biểu đồ thích hợp thể hiện cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp phân theo
thành phần kinh tế của nước ta năm 1996 và 2005.
* Mục tiêu.
- Học sinh biết cách xác định - cách vẽ biểu đồ hình tròn.
* Các thiết bị cần thiết.
+ Giáo viên:
- Bảng phụ kẽ sẵn, máy tính cá nhân, thước đo độ, compa, thước kẽ.
+ Học sinh:
- Máy tính cá nhân, thước đo độ, compa, bút chì, bút dạ màu
Các bước tiến hành.
Đối với bài tập này cần trình tự các bước sau đây.
1. Yêu cầu học sinh đọc đề bài:
- Đọc kĩ yêu cầu đề bài.
- Đọc kĩ bảng số liệu để.
=> Từ đó xác định được biểu đồ cần vẽ.
14
2. Giáo viên nêu cho học sinh quy trình vẽ biểu đồ.
* Đây là một bài thực hành khó bởi vì số liệu thô do đó một số học sinh khó
nhận biết cần vẽ loại biểu đồ gì, nên giáo viên cần hướng dẫn học sinh xử lí số liệu.
Đối với bài này cần tiến hành theo các bước sau đây.
a. Bước 1: Lập bảng số liệu đã xử lí theo mẫu. Chú ý làm tròn số sao cho các
thành phần phải đúng 100%.
b. Bước 2: Vẽ biểu đồ cơ cấu theo quy tắc: Bắt đầu vẽ từ "Tia 12 giờ", vẽ theo
chiều kim đồng hồ.
c. Bước 3: Đảm bảo tính chính xác: Phải vẽ các hình quạt với tỉ trọng của từng
thành phần trong cơ cấu. Ghi trị số phần trăm vào các hình quạt tương ứng (chú ý để
hình vẽ đẹp: Các trị số phần trăm ở từng biểu đồ cơ cấu có ít thành phần và bán kính
lớn thường biểu thị trong hình tròn).
- Vẽ đến đâu kẻ vạch (tô màu) đến đó. Đồng thời thiết lập bảng chú giải.
* Chú ý:
Đối với bài tập trên lớp hoặc về nhà, học sinh có thể dùng bút màu để vẽ biểu
đồ, hoặc dùng các nét trải khác nhau.
Khi đi thi chỉ được sử dụng một màu mực trong bài thi. Các hình quạt thể hiện
cơ cấu dùng các nét đứt để thể hiện phân biệt các kí hiệu trong biểu đồ.
3. Giáo viên hướng dẫn tổ chức cho học sinh tính toán.
a. Bước 1: Giáo viên dùng bảng phụ kẻ sẵn khung của bảng số liệu (bỏ trống).
b. Bước 2. Hướng dẫn xử lí bảng số liệu.
- Tổng số giá trị theo TPKT của từng năm là 100%.
- Biểu đồ hình tròn có góc ở tâm là 360
0
=> nghĩa là 1,0 % ứng với 3,6
0
(góc ở tâm )
c. Bước 3. Cách tính:
+ Năm 1996 tổng số diện tích gieo trồng là 149.432 tỷ đồng -> cơ cấu diện tích
100%.
+ Tính cơ cấu các TPKT (là x).
149.432 -> 100% 74.161 x 100
74.161 -> x x = = 50.3%
149.432
+ Góc ở tâm trên biểu đồ đường tròn khu vực nhà nước là:
15
50.3 x 3,6 = 182
0
+ Tương tự cách tính trên, cho học sinh tính cơ cấu diện tích và góc ở tâm trên
biểu đồ của các cây trồng còn lại.
* Để lớp học sôi nổi giáo viên nên tổ chức cho học sinh hoạt động 4 nhóm theo
2 cặp "chạy tiếp sức" cho nhau.
+ 2 Nhóm 1 + 2: Tính cơ cấu các thành phần.
+ 2 Nhóm 3 + 4: Tính góc ở tâm.
+ Xử lí số liệu ta có: Cơ cấu giá trị SXCN phân theo TPKT (%)
TPKT 1996 2005
Nhà nước
Ngoài nhà nước
Có vốn nước ngoài
Tổng
50.3
24.6
25.1
100
25.1
31.2
43.7
100
+ Bảng tính độ:
TPKT 1996 2005
Nhà nước
Ngoài nhà nước
Có vốn nước ngoài
Tổng
182
88
90
360
90
112
158
360
+ Tính bán kính:
R1995 = 1, R2005 = 2,57.
4. Tổ chức cho học sinh vẽ biểu đồ.
- Đối với bài này không yêu phân tích, nhưng HS phải cộng tổng của các năm
sau đó tính thành phần của từng năm.
+ Biểu đồ năm 1996 có bán kính 1cm thì năm 2005 có bán kính tương ứng là
2.57 cm.
* Giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ biểu đồ năm 1996 trên bảng.
* Học sinh vẽ tiếp biểu đồ năm 2005, thiết lập bảng chú giải.
16
V- KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
Kết quả của những tiết dạy địa lí thực nghiệm được đánh giá trên cơ sở lấy
điểm số các bài tập, bài thực hành của học sinh.
1. Kết quả bài kiểm tra thực nghiệm
- Học sinh đã xác định được yêu cầu của đề bài
- Học sinh xác định được cách chọn và vẽ biểu đồ phù hợp, đúng với yêu cầu
đề bài.
- Tỉ lệ học sinh tự rèn luyện được kĩ năng vẽ biểu đồ chiếm tỉ lệ cao.
- Học sinh nắm được các bước tiến hành trong khi vẽ biểu đồ.
Từ đó tỉ lệ học sinh đọc và phân tích bảng số liệu, xác định loại biểu đồ thích
hợp đối với bài yêu cầu cao hơn so với khi chưa được áp dụng.
24.6
25.1
50.3
Nhµ níc Ngoµi NN Cã vèn NN
BIỂU ĐỒ THỂ HIỆN SỰ CHUYỂN DỊCH GTSXCN NĂM 1996 - 2005
32.2
43.7
25.1
1996
2005
17
Kết quả thực nghiệm ở lớp 12B
Lớp TS học sinh
Biết xác định và
vẽ đúng
Chưa biết xác
định và vẽ
12B
50 46 4
Vì vậy mà kết quả bài kiểm tra thực nghiệm đạt được như sau:
Lớp TS học sinh Điểm giỏi Điểm khá Điểm TB Điểm yếu, kém
12B
50 6 30 13 1
Tỷ lệ
%
100 12 60 26 2
Qua quá trình áp dụng cách xác định - cách vẽ biểu đồ vào các tiết thực hành,
các bài tập Địa lí lớp 12 thu được kết quả như sau.
- Về tâm lí: Đã từng bước tạo được sự hứng thú, khơi dậy lòng say mê học tập
môn Địa lí ở học sinh.
- Về kiến thức: Học sinh biết cách sử dụng số liệu từ đó xác định được loại
biểu đồ cần vẽ, chiếm lĩnh kiến thức một cách nhanh chóng và chắc chắn.
- Về kĩ năng: Kĩ năng xử lí số liệu xác định - cách vẽ biểu đồ được thuần
thục, chính xác. Qua đó hình thành và nâng cao kĩ năng xác lập mối quan hệ quy
luật, biện chứng, mối quan hệ nhân quả ở học sinh.
Đồng thời học sinh vận dụng các kiến thức Địa lí vào cuộc sống thực tiễn một
cách dễ dàng và hiệu quả.
Chính vì vậy mà số học sinh khá giỏi tăng lên và số học sinh yếu kém giảm
hẳn đi so với năm trước.
2. Giải pháp thực hiện.
- Giáo viên và học sinh chuẩn bị đầy đủ các thiết bị cần thiết cho tiết thực
hành vẽ biểu đồ cho cả lớp và cho từng nhóm.
- Giáo viên nghiên cứu tham khảo một số kiến thức phục vụ cho tiết thực
hành.
18
- Trong tiết thực hành giáo viên phải hướng dẫn xử lí số liệu - cách vẽ, sau đó
học sinh làm các bước tiếp theo.
- Gọi 2 học sinh lên bảng vẽ hai biểu đồ (một học sinh khá, một học sinh
yếu).
- Cả lớp cùng làm, giáo viên theo dõi hướng dẫn giúp đỡ một số nhóm,cá
nhân làm chậm và chưa chính xác.
- Các nhóm thảo luận, bổ sung bài làm của hai bạn đã vẽ trên bảng.
- Giáo viên nhận xét đánh giá kết quả bài làm của học sinh.
19
PHẦN III. KẾT LUẬN
Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm trên bản thân tôi đã tự củng cố thêm
được phần nào kiến thức. Bài học được áp dụng vào bài thực hành, các bài tập trong
sách giáo khoa và các đề kiểm tra, đề thi tốt nghiệp, CĐ - ĐH khi các em tham gia
các kì thi.
Chương trình Địa lý lớp 12 có nhiều bài thực hành vẽ biểu đồ hoặc phân tích số
liệu. Giới thiệu cách vẽ biểu đồ - các loại biểu đồ đã giúp cho học sinh dễ dàng đánh
giá, nhận biết bài thực hành Địa lý kinh tế - xã hội trong chương trình Địa lý lớp 12
và tạo cơ sở tiền đề cho học sinh tiếp tục chương trình CĐ - ĐH - THCN sau này.
Học sinh biết vận dụng kết hợp lý thuyết, thực tiễn, phát huy tính sáng tạo, tích cực
chủ động trong quá trình học tập môn Địa lý.
Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này tôi có một số kiến nghị sau:
- Cần thiết phải trang bị cho học sinh kỹ năng thực hành, lý thuyết phải luôn đi
đôi với thực hành thì học sinh mới hiểu và nắm chắc được bản chất của vấn đề.
- Cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các giáo viên nhằm mục đích đưa nội
dung giảng dạy vào tất cả các lớp học.
- Giáo viên phải linh hoạt khi lồng ghép nội dung thực hành vào tất cả các bài
dạy sao cho thích hợp nhằm đạt kết qủa cao.
Sáng kiến kinh nghiệm này đã được bản thân tôi - một giáo viên giảng dạy Địa
lý THPT - với nội dung không mới nhưng chưa được áp dụng rộng rãi. Những kết
quả trên đây là quá trình đúc rút kinh nghiệm của bản thân tôi đã trình bày trước tổ
và đã được đồng nghiệp ghi nhận và vận dụng có hiệu quả. Tuy vậy, bài viết vẫn còn
nhiều khiếm khuyết, rất mong sự đóng góp của Ban giám khảo và lãnh đạo cấp trên
để bản thân tôi có thêm kinh nghiệm và nhất là tạo cho tôi tự tin và vững lòng tin
trong việc dạy học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học theo yêu cầu đổi mới,
mong góp phần nào nhỏ bé của mình vào quá trình đổi mới nội dung và phương
pháp dạy học nói chung và dạy học môn Địa lý nói riêng ở nhà trường phổ thông.