Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Báo cáo biện pháp dục học sinh thi giáo viên giỏi môn ngữ văn đề tài kinh nghiệm giúp học sinh yêu môn ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.17 MB, 45 trang )

1

MỤC LỤC
A.PHẦN MỞ ĐẦU

Trang 2 - 3

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
B. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI

Trang 3 - 36

I. CƠ SỞ LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lí luận
2. Cơ sở khoa học
3. Cơ sở thực tế
II. CÁC BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH
1. Kế hoạch nghiên cứu
2. Phương pháp nghiên cứu
3. Thời gian hoàn thành.
III. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN.
C.KẾT LUẬN
Trang 36 - 38
I. MỘT SỐ KẾT LUẬN
II. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ.

A.
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI :



PHẦN MỞ ĐẦU


2

Việc đổi mới phương pháp giảng dạy Ngữ văn hiện nay đã và đang thực sự
là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Phương pháp dạy học đổi mới chú trọng đến
việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh làm cho học
sinh ham thích mơn học. Điều 24, luật giáo dục (do Quốc hội khố X thơng qua)
cũng đã chỉ rõ “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của học sinh; phù hợp với từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự
học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm,
đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Đây là định hướng cơ bản thiết
thực đối với mỗi giáo viên trong đó có giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn.
Từ nhiều năm nay, phương pháp dạy văn đổi mới đã chú trọng phát triển
hứng thú học văn của học sinh. Một trong những mục đích của giờ văn là làm sao
gây được rung động thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học sinh. Ai đó đã nói rằng:
“Dù có dắt ngựa đến bờ sơng cũng khơng thể bắt nó uống nước được”. Vấn đề học
tập của trẻ cũng vậy. Dù có bắt được chúng ngồi ngay ngắn học tập nhưng nếu
khơng thích thú, trẻ không thể học tốt được. Từ thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn
ở THCS nhiều năm, tôi nhận thấy muốn giờ dạy đạt hiệu quả cao, ngoài việc
truyền đạt kiến thức, tơi nghĩ rằng mình cần phải biết cách làm thế nào để các em
cảm thấy hứng thú đối với mơn học, từ đó trở nên u thích mơn văn để tiết học
thực sự nhẹ nhàng, sinh động; học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, không
gượng ép. Từ đó mới phát huy thực sự tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học
sinh.
Trong phạm vi của sáng kiến kinh nghiệm, tôi xin đề cập đến một số biện
pháp nhằm giúp học sinh u thích học mơn văn ở cấp THCS.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:



3

Đề tài nghiên cứu “ Một số biện pháp giúp học sinh yêu thích học văn cấp
THCS ” với mục đích cơ bản sau đây : Trình bày một số biện pháp giúp các em có
niềm đam mê, thích thú với mơn văn trong tiết học. Từ đó giúp các em nắm vững
kiến thức, u thích mơn học, nhờ vậy nâng cao chất lượng dạy và học. Đồng thời
đề tài này có thể giúp cho giáo viên dạy ngữ văn áp dụng cho các lớp, các bài cụ
thể .
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU :
1. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu hướng tới đối tượng là hứng thú học tập môn Ngữ văn của học
sinh THCS.
2. Phạm vi nghiên cứu :
- Nghiên cứu phương pháp dạy Ngữ văn của giáo viên.
- Nghiên cứu hứng thú , kết quả học tập môn Ngữ văn của học sinh.
B.NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI
I- CƠ SỞ KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ NGHIÊNCỨU:
1. Cơ sở lí luận:
Trong những năm gần đây vấn đề đổi mới phương pháp dạy học luôn được
bàn luận một cách sơi nổi, đó là vấn đề quan trọng luôn được đề cập trong mỗi
cuộc họp chuyên môn ở tất cả các trường học trên cả nước.Với bộ mơn văn cũng
khơng nằm ngồi quỹ đạo đó.
Nghị quyết hội nghị lần II BCH TW Đảng khóa VIII nêu rõ : “Đổi mới
phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành
nếp tư duy sáng tạo của người học” ; “phương pháp giáo dục phải phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động , sáng tạo của người học, bồi dưỡng lòng say mê học
tập và ý chí vươn lên”.
Trước kia phương pháp dạy – học văn cổ truyền chính là giảng văn và phân

tích các nội dung trong bài học, có lẽ đây là hình thức duy nhất để tiếp cận văn
bản.Tuy có những thành cơng nhất định thì vẫn là thầy phân tích –trị tiếp nhận.Dù


4

có thành cơng nhưng vẫn là áp đặt cách hiểu, cách cảm thụ cho học sinh và lâu dần
sẽ dẫn tới sự nhàm chán khơng thích tìm tịi,sáng tạo của các em. Chính điều đó
địi hỏi phải có những phương pháp cải tiến trong việc dạy –học văn trong nhà
trường,đây là nhu cầu thiết yếu đối với các nhà giáo dục và đội ngũ giáo viên giảng
dạy môn văn.Chúng ta biết rằng mơn văn là mơn cơ bản góp phần hình thành nhân
cách học sinh, đặc biệt đối tượng của môn văn là những tác phẩm văn thơ, mà văn
thơ lại là nghệ thuật của ngơn từ. Chính vì vậy để thực hiện một giờ học có hiệu
quả thì người giáo viên cần phải sử dụng nhiều phương pháp như: phân tích, diễn
giảng,vấn đáp, nêu vấn đề, gợi ý …và đặc biệt để tạo một giờ học phong phú, sinh
động thì việc sử dụng hình thức thảo luận nhóm sẽ giúp học sinh trao đổi ý với
nhau, bổ sung cho nhau các kiến thức cịn thiếu, học sinh sẽ sơi nổi hơn trong học
tập. Còn việc lồng ghép một số trị chơi trong q trình giảng dạy sẽ giúp học sinh
cảm thấy hứng thú, tích cực, đỡ nhàm chán trong giờ học văn.
Bất cứ một người giáo viên nào có tâm huyết với nghề đều tự đặt ra câu hỏi
làm thế nào để dạy và học tốt môn văn ? Từ xưa đến nay người ta vẫn nói :“Học
văn thì dễ nhưng dạy văn thì rất khó” và thực tế cũng chứng minh điều đó. Quả là
việc dạy văn vơ cùng khó bởi dạy văn khơng chỉ là dạy đúng, đủ mà cịn phải hay,
phải lơi cuốn học sinh, làm cho học sinh hứng thú, say mê. Môn ngữ văn là mơn
học kết tinh nhiều giá trị văn hóa truyền thống và nhân loại, là mơn học có ý nghĩa
trong việc hình thành, phát triển, định hướng nhân cách cho học sinh và rèn luyện
những kỹ năng cơ bản cần thiết cho các em. Mặt khác đây lại là môn học nghệ
thuật kích thích trí tưởng tượng bay bổng,sáng tạo của học sinh.Thực tế chúng ta
thấy rằng ngày càng có ít học sinh đi thi học sinh giỏi môn văn hơn ,các em cũng
cảm thấy chán nản và không mấy hứng thú khi học giờ văn.Chính điều đó địi hỏi

phải có những phương pháp cải tiến trong việc dạy – học văn trong nhà trường
.Đây là nhu cầu cần thiết đối với các nhà giáo dục và đội ngũ giáo viên giảng dạy
môn văn .Với chức năng là một người làm công tác giảng dạy trong nhà trường
bản thân tôi cũng luôn trăn trở là làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học
văn.Trong nhiều năm công tác giảng dạy tôi nghiệm thấy rằng,cái ước muốn học
văn sao cho giỏi,dạy văn sao cho hay ,viết văn sao cho tốt là ước muốn của rất
nhiều giáo viên và học sinh.Muốn thực hiện được ước mơ ấy thì chúng ta phải biết
tìm tịi,sáng tạo và đưa ra những cái mới hấp dẫn lôi cuốn học sinh,đặc biệt là
người giáo viên chúng ta phải biết làm mới bài giảng của mình để kích thích học
sinh.


5

Phần nội dung thì khơng thể làm mới,khơng thể thay đổi nhưng chúng ta
có thể thay đổi và làm mới hình thức,phương pháp giảng dạy của mình. Điều này
thì chúng ta đã và đang thực hiện lâu nay nhưng cái quan trọng là sự đổi mới của
từng người.Với riêng tôi chỉ một vài năm công tác chưa được xem là nhiều nhưng
tơi cũng đã tự rút ra cho mình một vài kinh nghiệm nhỏ,hy vọng trao đổi cùng
đồng nghiệp, mong góp một phần nhỏ kinh nghiệm của mình vào cơng tác dạy học
mơn ngữ văn của huyện nhà. Đó chính là “Một số biện pháp giúp học sinh yêu
thích học văn cấp THCS ” .
2. Cơ sở khoa học:
Dạy văn cấp học THCS là dạy cho các em học sinh lứa tuổi 12 đến 15 - lứa
tuổi hồn nhiên, trong sáng, năng động và nhạy cảm… biết tìm tịi, khám phá ra thế
giới văn chương nghệ thuật. Tác phẩm văn chương nghệ thuật là thành quả sáng
tạo của nhà văn, nhà thơ . Mỗi tác phẩm văn thơ đều thuộc một thời kì văn học
nhất định ( có thể cách xa thời đại mà các em sống hiện nay cả hàng thế kỉ , hàng
thập niên …). Tác phẩm văn chương dù nhỏ nhất : là một câu tục ngữ, một bài ca
dao, hay lớn hơn là một bài văn, một bài thơ, một truyện ngắn hay một bộ tiểu

thuyết đều có giá trị về nội dung và nghệ thuật của nó. Làm thế nào để giáo viên
giúp học sinh đồng cảm với những giá trị tư tưởng nhân văn cần đạt tới trong mỗi
tác phẩm là nhiệm vụ giảng dạy của GV dạy Ngữ Văn.
Lep- Tơn-xTơi nói : “Vấn đề khơng phải biết là quả đất trịn mà là làm thế
nào để biết được quả đất trịn?”. Chân lí là q báu ! Nhưng cách tìm ra chân lí cịn
q hơn nhiều. Vì thế, cái khó trong việc dạy văn là làm sao hướng cho học sinh
tìm ra cái hay, cái đẹp trong các tác phẩm.
3. Cơ sở thực tiễn :
Chúng ta thấy rằng việc đổi mới phương pháp dạy học đã đem lại nhiều kết
quả khả quan, song bên cạnh những thuận lợi thì chúng ta cịn gặp vơ vàn những
khó khăn . Những khó khăn đó một mặt ở học sinh nhưng cũng một phần ở chính
những người giáo viên chúng ta. Môn ngữ văn trong nhà trường có vị trí quan
trọng bởi nó giáo dục phẩm chất đạo đức, cung cấp kiến thức tự nhiên và xã hội
cho các em nên việc dạy học văn vừa thuận lợi cũng vừa khó khăn:
a - Về phía giáo viên :


6

Hầu hết giáo viên đã ý thức sâu sắc phải đổi mới phương pháp dạy học .
Các thầy cô đã được tập huấn thay sách, tập huấn về đổi mới phương pháp day
học. Trong giảng dạy, các thầy cô đã phát huy được tính cực chủ động trong việc
dạy học. Học sinh được bày tỏ ý kiến tình cảm, cách hiểu của mình về bộ mơn,
được thực hành giao tiếp nhiều hơn. Với tinh thần mới, giờ Ngữ văn không phải là
giờ truyền thụ kiến thức, mà là giờ khơi gợi khuyến khích học sinh tìm ra con
đường đi tới kiến thức, giáo viên cũng đã phân biệt được phương pháp dạy học
theo đặc trưng bộ môn Ngữ văn (Tiếng Việt – Văn – Tập làm văn). Giáo viên đã có
nhiều cố gắng trong việc thực hiện quan điểm tích hợp trong các tiết dạy: Tích hợp
ngang (Tích hợp của ba phân môn Văn - Tiếng Việt – Tập làm văn) và Tích hợp
dọc (Tích hợp giữa các bài, các lớp trong cùng một phân mơn). Bên cạnh đó là việc

tích hợp vấn đề giáo dục bảo vệ mơi trường tự nhiên một cách phù hợp trong từng
tiết dạy. Qua việc tích hợp và lồng ghép cộng với liên hệ thực tế để giáo dục học
sinh đă đem lại cho bộ mơn Ngữ văn có những tín hiệu khởi sắc. Đó là phương
pháp dạy – học mới đang được tiếp cận một cách tích cực.
Tài năng sư phạm của người thầy được dành nhiều hơn cho việc học sinh
tự tìm hiểu cảm thụ tác phẩm. Trong từng tiết dạy, giáo viên đã mạnh dạn phối hợp
cùng học sinh tiếp cận, phân tích, tổng hợp và hình thành những tri thức cần nắm.
Giáo viên nắm rõ được quan điểm tích hợp của sách giáo khoa, có nhiều cố gắng
rèn luyện kỹ năng nghe - đọc - nói - viết cho học sinh. Học sinh không chỉ nắm
kiến thức mà quan trọng hơn là biết vận dụng kiến thức vào cuộc sống như: nói,
viết tiếng Việt thành thạo, biết tạo lập văn bản, biết sáng tác thơ, sáng tác tác phẩm
nghệ thuật ngắn. Chính những chuyển biến này đã giúp giáo viên nhanh chóng tiếp
cận và thực hiện thành cơng những đổi mới trong phương pháp dạy – học Ngữ văn.
Tuy nhiên có một số giáo viên vẫn cịn làm việc q nhiều, trong một tiết
dạy đưa ra khá nhiều thông tin. Điều này dễ đưa các em vào thế bị động ghi nhớ,


7

không tạo điều kiện cho các em độc lập suy nghĩ, sáng tạo. Từ đó dẫn đến sau này
đứng trước nhiều vấn đề mới các em bỡ ngỡ, bị động, lúng túng và khơng có đủ
khả năng, bản lĩnh để giải quyết những vấn đề phức tạp trong cuộc sống.
Một số tiết dạy vẫn cịn rập khn q máy móc các bước lên lớp. Nó biến
giờ học thiếu sự phóng khoáng, trở nên nhạt nhẽo, làm tê liệt sự hào hứng của học
sinh. Rồi giáo viên chỉ dùng một phương pháp dạy chủ yếu là thuyết trình, khơng
có sự linh hoạt trong việc kết hợp các phương pháp. Bên cạnh đó là việc sử dụng
các giáo án mẫu, thiết kế bài giảng một cách máy móc làm mất đi sự cảm thụ sáng
tạo riêng của cá nhân.
b . Về phía học sinh :
Là giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn , tôi cảm thấy thật đáng buồn bởi

hiện tượng học sinh lẫn phụ huynh khơng có hứng thú với các mơn xã hội nói
chung và với mơn văn nói riêng. Điều này có lẽ được bắt nguồn từ thực tế của xã
hội. Những môn tự nhiên chọn trường chọn lớp dễ hơn, rồi ra trường xin công ăn
việc làm cũng dễ hơn nhiều những mơn xã hội. Vì vậy học sinh đã khơng u thích
mơn học nay lại càng u thích hơn. Nếu thử điều tra học sinh, chúng ta sẽ thấy rõ
thực trạng học tập Ngữ văn của học sinh.
*Điều tra thực trạng:
Tôi đã điều tra và sát hạch về sự yêu thích học tập, kết quả học tập môn
văn của học sinh ở các khối lớp tôi được phân công giảng dạy là khối 6 và khối 8,
thời điểm tháng 10 năm 2018 bằng phiếu điều tra và bài kiểm tra 90 phút tự luận
cho kết quả như sau:
- Về sự u thích học tập mơn văn :
Tổng số HS

Thích học văn

Khơng thích học


8

132

SL

%

SL

%


60

45,45

72

54,55

- Về kết quả học tập :
TSHS
132

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

SL

%

SL

%

SL


%

SL

%

45

34,0
9

58

43,94

25

18,94

4

3,03

Trường THCS Nguyễn An Khương là trường điểm của huyện Hóc Mơn,
học sinh đầu vào thường khá, giỏi hơn những trường khác tuy nhiên kết quả bài
kiểm tra khảo sát môn văn của HS có loại trung bình và yếu thì thật đáng lo ngại.
Đứng trước thực trạng đó, những người giáo viên dạy văn như tôi cảm thấy thật
đáng buồn và luôn trăn trở với suy nghĩ làm thế nào để các em thích học văn? Làm
thế nào để kết quả học tập môn văn của HS được nâng lên?

II. CÁC BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH:
1. Kế hoạch nghiên cứu:
- Tìm hiểu thực trạng việc dạy và học văn ở trường THCS Nguyễn An Khương;
- Phân tích thực trạng, tìm ngun nhân, trao đổi, thảo luận tìm giải pháp;
- Đề xuất giải pháp thực hiện….
2. Phương pháp nghiên cứu:
a. Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Tơi đã nghiên cứu các tài liêu có liên quan đến phương pháp dạy học nói
chung, phương pháp dạy Ngữ văn ở THCS, và đặc biệt nghiên cứu SGK, SGV,
STK, STK Ngữ văn THCS, các sáng kiến kinh nghiệm của đồng nghiệp trong
trường, trong huyện, trên mạng INTERNET.


9

b. Phương pháp điều tra sư phạm:
Tôi đã trao đổi với đồng nghiệp về các phương pháp dạy học Ngữ văn qua
các chuyên đề cấp trường, cấp huyện. Tôi cũng dự giờ thao giảng của các giáo viên
cùng trường và đặc biệt là tơi đã điều tra sự u thích học môn văn của học sinh
thông qua phiếu điều tra và thông qua bài kiểm tra.
c. Phương pháp thực nghiệm:
Tôi đã tiến hành dạy thực nghiệm ở nhiều lớp khác nhau với cùng một bài
bằng nhiều phương pháp khác nhau để so sánh, đối chiếu, rồi ra kết luận.
3. Thời gian hoàn thành :
Để hoàn thành SKKN: “Một số biện pháp giúp học sinh u thích học mơn văn
cấp THCS ” tôi đã tiến hành nghiên cứu và thực hiện từ: 10/2018 đến 03/2019.
III- CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN :
1 - Tạo sự yêu thích học văn cho học sinh thông qua việc dạy học kết hợp trải
nghiệm:
1.1. Thế nào là hoạt động dạy học kết hợp với trải nghiệm (giáo dục trải

nghiệm) ?
Theo Hiệp hội Giáo dục trải nghiệm quốc tế thì Giáo dục trải
nghiệm là một phạm trù bao hàm nhiều phương pháp trong đó
người dạy khuyến khích người học tham gia trải nghiệm thực tế,
sau đó phản ánh, tổng kết lại để tăng cường hiểu biết, phát triển
kỹ năng, định hình các giá trị sống và phát triển tiềm năng bản
thân, tiến tới đóng góp tích cực cho cộng đồng và xã hội.
1.2 Một số kỹ thuật dạy - học qua trải nghiệm :
Quy trình dạy - học qua trải nghiệm được thể hiện bằng
“Vịng tuần hồn” theo mơ hình 5 bước khép kín như dưới đây:


10

GV điều hành lớp; HS thảo luận nhóm, làm bài tập, đóng vai,
trị chơi mơ phỏng...; HS thơng báo kết quả, cảm tưởng, phản ứng
và phát hiện ra cách giải quyết vấn đề; HS và GV cùng nhau phân
tích theo hướng: ai, cái gì, ở đâu, khi nào, tại sao..; GV khái quát
hóa kiến thức và đúc kết bài học và những hướng vận dụng kiến
thức vào thực tế.
1.3 Các hình thức thường vận dụng trong dạy học
trải nghiệm là:
Thảo luận nhóm: Nhiệm vụ cụ thể của GV là giúp đỡ, dẫn
dắt HS, làm nảy sinh tri thức ở HS. Trong một bài học,GV chỉ nêu
ra các tình huống, học sinh được đặt trong các tình huống ấy sẽ
cảm thấy có vài vấn đề cần giải quyết.Các em phải tự tìm ra các
phương pháp có thể hy vọng giải quyết vấn đề, và cuối cùng phải
tìm ra một phương pháp tối ưu. Sau đó HS thảo luận, trao đổi với
nhau và đi đến các kết luận phù hợp với ý đồ của giáo viên, hoặc
tài liệu.

Nghiên cứu tình huống: Có nhiều cách dạy học bằng tình
huống: có thể dùng các bài đọc ( sách, báo) làm các ví dụ minh
họa và mở rộng vấn đề cho từng đề mục lý thuyết.; dùng vài tình
huống lớn để giảng dạy
Đóng vai, trị chơi: GV hướng dẫn học sinh đóng vai hoặc
tham gia một số trị chơi để giải quyết một số tình huống thực tế.
Học tập từ thực tế: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan
sát thực tế, ghi chép các vấn đề có liên quan đến nội dung học
tập, sau đó trao đổi, chia sẻ với bạn và giáo viên để đi đến kết
luận.
Tất nhiên tùy tính chất của mơn học và qui mơ của lớp học
mà chúng ta có thể sử dụng các kỹ thuật nêu trên một cách linh
hoạt và hiệu quả.


11

1.4 Tác dụng của việc dạy-học theo hướng trải
nghiệm :
Giáo dục trải nghiệm buộc học sinh phải sử dụng tổng hợp
các giác quan (nghe, nhìn, chạm, ngửi…), tang khả năng lưu giữ
những điều đã học được lâu hơn; có thể tối đa hóa khả năng sáng
tạo, tính năng động và thích ứng của người học.
Việc trải qua q trình khám phá kiến thức và tìm giải pháp
giúp phát triển năng lực cá nhân và tăng cường sự tự tin; việc học
các môn học bao gồm cả môn văn trở nên thú vị hơn với học sinh
và việc dạy cũng thú vị hơn đối với giáo viên.
Khi tích cực tham gia vào quá trình học , học sinh được rèn
luyện về tính kỷ luật, học được những kỹ năng sống, tăng cường
khả năng ứng dụng những kỹ năng đó vào thực tế.

Với phương pháp học thông qua trải nghiệm, học sinh được
rèn luyện cả về kiến thức và kỹ năng học tập, tìm tịi, nghiên cứu,
áp dụng thực tiễn. Nhờ vậy các em sẽ có một kho tàng kiến thức
vững chắc, trang bị cho bản thân kỹ năng xã hội một cách tồn
diện.
Tham quan, dã ngoại ln là một hình thức tổ chức học tập thực tế hấp dẫn
đối với học sinh nói chung và học sinh của trường Nguyễn An Khương nói riêng.
Năm học 2018 -2019 vừa qua, trường THCS Nguyễn An Khương đã tổ chức cho
học sinh các khối lớp đi tham quan học tập trải nghiệm thực tế tại Khu di tích lịch
sử Ngã Ba Giồng (Hóc Mơn) và Khu Nông nghiệp công nghệ cao 4.0 (Củ Chi).
Mục đích của chuyến tham quan học tập trải nghiệm thực tế là để các em học sinh
được đi thăm, tìm hiểu và học hỏi kiến thức, tiếp xúc với di tích lịch sử văn hóa,
khu cơng nghệ cao của địa phương mình…, giúp các em có được những kinh


12

nghiệm thực tế, từ đó có thể áp dụng vào cuộc sống của chính các em. Ngồi ra,
chuyến đi tham quam học tập trải nghiệm còn giúp các em thêm yêu thiên nhiên,
quê hương, đất nước, yêu truyền thống cách mạng, truyền thống lịch sử, truyền
thống của Đảng, của Đoàn, của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.
Riêng đối với học sinh khối 8 thì chuyến tham quan học tập trải nghiệm đó
cịn giúp các em có thêm kiến thức thực tế để làm tốt kiểu bài văn thuyết minh về
một danh lam thắng cảnh (di tích lịch sử) và bài văn thuyết minh về một phương
pháp (cách trồng hoa lan, làm rau mầm, cách đổ bánh khọt, bánh xèo) từ những gì
các em được tận mắt thấy, tận tai nghe …Do đó việc tham quan học tập trải nghiệm
sẽ giúp các em u thích học mơn văn hơn là điều dễ hiểu.
Một số hình ảnh học sinh lớp 8 đi tham quan học tập trải nghiệm tại Khu di
tích lịch sử Ngã Ba Giồng và Khu Nơng nghiệp công nghệ cao 4.0 :



13

HS nghe thuyết minh về khu di tích, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, làm bài cảm
nhận:


14

HS xem nhân viên Khu Nông nghiệp công nghệ cao 4.0 (Củ Chi) hướng dẫn
cách đổ bánh khọt :


15

HS tự trải nghiệm cách đổ bánh :


16

HS được trải nghiệm cách trồng hoa lan :


17

HS trải nghiệm cách trồng hoa lan :


18



19

. 2 - Tạo sự yêu thích học văn cho học sinh bằng việc tổ chức các trò chơi
trong tiết dạy :
4.1 Tổ chức trò chơi trong dạy Ngữ văn là gì ?
Trị chơi trong văn học hay cịn gọi là sân chơi lành mạnh bổ ích. Đó là việc
tổ chức cho học sinh thi trả lời bằng những hoạt động vui chơi giải trí nhằm giáo
dục tồn diện học sinh, củng cố rèn luyện kĩ năng phát triển óc tư duy linh hoạt
sáng tạo và quan trọng là tạo hứng thú, giúp học sinh yêu thích học văn hơn.
4.2 Thiết kế nội dung trò chơi:
Như đã xác định mục đích, ý nghĩa của trị chơi, chúng ta có thể tổ chức trò
chơi khi kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài mới, củng cố bài học sau khi hướng dẫn học
sinh tìm hiểu xong bài. Nội dung trị chơi nhằm củng cố, khắc sâu trọng tâm của
bài dạy. Xây dựng nội dung của trò chơi phải đảm bảo những yêu cầu sau:
- Đảm bảo yêu cầu phổ cập: nghĩa là đa phần các bài tập trong trị chơi phải
có mức độ vừa phải, đủ để học sinh bình thường có thể giải quyết được trong thời
gian ngắn. Đồng thời, có nhiều bài tập để nhiều học sinh tham gia.
- Có yếu tố sáng tạo: trong trị chơi nên có 01 bài tập (hoặc 01 ý) trở lên có
nội dung sáng tạo. Để giải quyết những bài tập này học sinh phải vận dụng những
kiến thức một cách có hệ thống hơn, linh hoạt hơn, sáng tạo hơn.
- Nội dung trò chơi phải được phân cách thành những yêu cầu, những đơn vị
kiến thức, mỗi bài tập đó với từng cá nhân học sinh.
- Nội dung trò chơi nên thể hiện trong nhiều dạng bài tập, nhiều hình thức
thể hiện khác nhau (tùy theo mỗi dạng bài dạy, mỗi tiết dạy, mỗi khối lớp). Ví dụ


20

điền vào chỗ trống, ô trống, dùng vạch nối tương ứng để tạo thành cặp liên kết

đúng, điền trắc nghiệm đúng sai, điền kết quả v.v…
Khi thiết kế nội dung một trị chơi ta có thể lấy nội dung bài học hoặc một
bài tập thuộc trọng tâm bài trong sách giáo khoa. Sau đó, bằng sự “chế biến” của
mình chúng ta sẽ có nhiều đơn vị kiến thức, nhiều bài tập tương tự ở mức độ phổ
cập.
Một số ví dụ minh họa:
1. Áp dụng trị chơi “ Ơ chữ văn học ” khi kiểm tra bài cũ “ Cây bút thần”
( văn 6- tập 1) :
Việc kiểm tra bài cũ bằng hình thức quen thuộc là gọi học sinh mang vở lên
bàn GV, nêu câu hỏi rồi HS trả lời hiện tại khá nhàm chán với các em.Bên cạnh đó,
hình thức trả bài này làm mất thời gian và có thể khơng đánh giá chính xác mức độ
học bài cũ của HS ( trường hợp HS do run sợ khi đứng trước tập thể mà trả lời ấp
úng, cà lăm…) thì trị chơi giải đáp ơ chữ sẽ khắc phục được điều này. Các em có
thể đứng tại chỗ ngồi, nhìn vào ơ chữ trên bảng mà trả lời các câu hỏi. Chẳng hạn :
GV cho đề bài :
Em haõy giải ô chữ sau để tìm ra tên của một câu
chuyện mà em đã học?
1. Truyện em mới học ở tiết trước thể hiện quan niệm của nhân dân về điều gì?
2. Truyện phản ánh ước mơ của tầng lớp nào?
3. Tên gọi một thể loại văn học dân gian mà em đang học?
4. Vật mà nhân vật chính trong truyện muốn có?
5. Cơng dụng có ý nghĩa nhất của cây bút thần?
6, 9. Đặc sắc nghệ thuật của truyện?
7. Nhân vật trong truyện thuộc loại…?
8. Một tính cách của nhân vật Mã Lương?
10. Tên gọi của nhân vật chính trong truyện?


21


Đáp án :

2 N H A
Â

1

C

O
Â

N

D

A
Â

N

N

G

L

Ý

X


A
Õ

H

C

O
Å

T

Í

C

H

Ơ
Ø

I

N

3

T


R

U

Y

E
Ä

N

4

C

A
Â

Y

B

U
Ù

T

5

G


I

U
Ù

P

N

G

Ư

6 T Ư Ơ
Û

N

G

T

Ư

Ơ
Ï

N


G

7

C

O
Ù

T

A
Ø

I

N

A
Ê

N

G

K

8

K


H

A
Ú

N

G

K

H

A
Ù

I

T

H

A
À

N

K


Y
Ø

Ư

Ơ

N

G

9
1 M A L
0
Õ

O
Ä

I

G

H

E O
Ø

Y
Ø


L



Mỗi 1 câu trả lời đúng, học sinh đạt được 1 điểm. Căn cứ vào tổng số câu
học sinh trả lời được, giáo viên có thể đánh giá việc học bài cũ của học sinh có tốt
hay khơng.
2. Giới thiệu bài mới :


22

Khác với nhiều môn học, học văn các em phải chuẩn bị bài ở nhà. Cái tâm lý
biết cả rồi dễ làm cho HS chủ quan.Bởi vậy hoạt động giới thiệu bài mới khá quan
trọng. Nếu giáo viên tạo được ấn tượng cho HS ngay từ phần vào bài chắn chắn
các em sẽ thich học tiết văn ngày hơm đó. Có nhiều cách dẫn vào bài mới, cho HS
thi tài với nhau là một trò chơi thú vị giúp các em yêu thích học văn là một ví dụ :
Tổ chức thi hát về một chủ đề
Ví dụ như khi dạy Văn bản “ Đêm nay Bác không ngủ” của nhà thơ Minh Huệ
( Văn 6 - tập 2 ), GV cho HS thi hát về chủ đề “Bác Hồ ”.
GV chia lớp làm 2 đội, ra qui định trong vòng 5 phút, đội nào hát được nhiều
bài hát về Bác Hồ hơn sẽ thắng cuộc.
Sau khi tìm ra một số bài hát về Bác rồi, GV hỏi HS : Ý nghĩa của những bài
hát đó giống nhau ở chỗ nào ? ( đều ca ngợi tấm lòng yêu thương, công ơn to lớn
của Bác đối với thiếu nhi, đối với nhân dân…) rồi giáo viên giới thiệu bài mới : để
ca ngợi tấm lòng bao la của Bác đối với nhân dân Việt Nam, ngồi các bài hát cịn
có nhiều bài thơ nói lên điều này, tiêu biểu là bài thơ “ Đêm nay Bác không ngủ”
của tác giả Minh Huệ. Tấm lòng yêu thương rộng lớn của Bác được thể hiện như
thế nào trong bài thơ, chúng ta cùng nhau tìm hiểu.

3. Củng cố bài học :
Củng cố bài là một hoạt động rất quan trọng trong tiết học. Nếu GV biết
cách thu hút HS thì việc khắc sâu kiến thức sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Cho dù GV
dùng cách nào đi chăng nữa thì cũng chỉ có một mục đích duy nhất là mong muốn
HS nắm được nội dung bài học.Để kết thúc một tiết học thật nhẹ nhàng, GV có thể
cho hs chơi trị chơi ví dụ như giải đáp ơ chữ giống phần kiểm tra bài cũ (xem lại
ví dụ đầu tiên).
4. Dạy các bài ôn tập :


23

Chương trình Ngữ văn THCS cịn dành một số tiết cho việc ôn lại những
kiến thức học sinh đã học. Những tiết dạy ôn tập thường là rất mệt mỏi đối với
GV bởi vì đa số GV chủ động củng cố lại hết những kiến thức mà các em đã học.
Tuy nhiên nếu xem xét lại mục tiêu của việc ôn tập thì GV chỉ nên là người tổ chức
cho học sinh tự tái hiện lại kiến thức mà các em đã được học. Vì vậy, tơi thường tổ
chức cho các em chơi vào giờ ơn tập.
4.1

Trị chơi “ Ai nhanh hơn” :

- GV chia nhóm ngẫu nhiên thành 4 đội.
- GV phát cho mỗi đội một viên phấn. Lần lượt từng thành viên trong nhóm sẽ lên
bảng viết câu trả lời. Em thứ nhất viết xong đến em thứ hai và cứ tiếp tục như vậy
cho đến em cuối cùng trong đội.
- Mỗi em chỉ được lên bảng một lần trong chủ đề đó.
- Nhóm nào nhanh nhất và đúng nhiều nhất sẽ là nhóm thắng cuộc.
* Ví dụ minh họa:
Dạy “Ôn tập Tiếng Việt” ( Ngữ văn 6 – tập 1).

GV đưa ra đề tài “Từ ghép”, cho thời gian 3 phút rồi yêu cầu từng thành viên
trong 4 đội nhanh nhanh chân chạy lên bảng viết từ ghép.
2

Trò chơi “Ai giỏi hơn”:

- GV chuẩn bị tranh bằng cách photo những mẩu tranh tranh trong SGK phần văn
bản.
- GV cắt tranh ra thành nhiều mảnh có những hình dáng khác nhau.
- Sau mỗi mảnh của mẫu tranh GV dán băng keo 2 mặt dạng mỏng để tiện cho
việc ghép tranh.
- GV chia 8 nhóm ngẫu nhiên. Mỗi nhóm có một nhóm trưởng.


24

- GV phát cho mỗi nhóm một xấp tranh đã cắt rời từ bức tranh to, yêu cầu từ 3 đến
5 phút ghép lại thành bức tranh hoàn chỉnh.
- Đại diện mỗi nhóm kể lại nội dung câu chuyện được minh họa bằng bức tranh
vừa ghép. Nhóm nào ghép nhanh, kể hay thì thắng cuộc.
4.3 Tác dụng của việc tổ chức trò chơi :
Trò chơi sẽ làm cho tập thể các em có bầu khơng khí mới. Những tràng vỗ
tay, tiếng reo hị, khn mặt rạng rỡ, tiếng cười, giúp các em hiểu biết và quý mến
nhau hơn. Các em không cảm thấy căng thẳng khi học Ngữ văn, phá tan sự sợ sệt
lo âu ám ảnh đối với các em học sinh yếu, giúp các em tự tin hòa nhập vào tập thể.
Học sinh yêu trường mến lớp kính trọng thầy cơ. Đặc biệt các em cảm thấy mình
được học tập sinh hoạt trong sự thoải mái
Việc tổ chức và hướng dẫn có hệ thống khoa học giúp các em phát triển trí
tuệ. Sự nhanh nhẹn, trung thực, nâng cao ý thức kỷ luật. “Chơi mà học, học mà
chơi” là quan điểm đúng đắn. Hiệu quả giáo dục trò chơi là nhờ tính hấp dẫn, sự

thu hút, lơi cuốn của nó. Điều đó ln tạo cho các em sự say mê, sự phấn khởi.
4.4 Một số lưu ý khi tổ chức trò chơi :
- Khi tổ chức trò chơi giáo viên là người hướng dẫn là trung tâm của sự thu hút
học sinh tham gia đồng thời giáo viên cũng là trọng tài của các trò chơi do vậy giáo
viên phải chững chạc, nghiêm túc nhưng lại phải hết sức vui vẻ, gần gũi, hòa đồng
với các em. Lời nói phải rõ ràng, dễ hiểu, ấn tượng, ln tạo sự hấp dẫn và pha trộn
ít hài hước trong mỗi trị chơi, nhằm tác động đến tình cảm tâm lí đem lại niềm vui
tươi hứng thú.
- Lựa chọn trò chơi phải phù hợp với nội dung bài học, hướng dẫn học sinh
cách chơi. Tránh xử phạt đội thua, người thua mà chủ yếu động viên khuyến khích
đội thắng, người thắng.


25

- Thời gian chơi không quá 10 phút trong một tiết học.
Là giáo viên khi tổ chức trị chơi khơng nên dừng ở mức độ giải trí đơn thuần
mà phải xem trò chơi thực sự là phương tiện giáo dục có hiệu quả nhanh, dễ tiếp
thu mà các em rất thích.
3- Tạo sự yêu thích học văn cho học sinh thông qua việc sử dụng bản đồ tư
duy trong tiết dạy :
3.1 Bản đồ tư duy là gì?
Bản đồ tư duy (BĐTD) còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy,… là hình
thức ghi chép nhằm tìm tịi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ
đề hay một mạch kiến thức,… bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh,
đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực.
3.2 Một số hoạt động dạy học trên lớp với bản đồ tư duy:
Có thể tóm tắt một số hoạt động dạy học trên lớp với BĐTD:
Hoạt động 1: HS lập BĐTD theo nhóm hay cá nhân với gợi ý của GV.
Hoạt động 2: HS hoặc đại diện của các nhóm HS lên báo cáo, thuyết minh về

BĐTD mà nhóm mình đã thiết lập.
Hoạt động 3: HS thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện BĐTD về kiến
thức của bài học đó. GV sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp HS hồn chỉnh
BĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
Hoạt động 4: củng cố kiến thức bằng một BĐTD mà GV đã chuẩn bị sẵn hoặc
một BĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho HS lên trình bày,
thuyết minh về kiến thức đó.


×