Tải bản đầy đủ (.docx) (141 trang)

Nghiên cứu mối liên quan nồng độ dioxin với một số hormone trong máu ở người làm việc tại các sân bay quân sự biên hòa, đà nẵng và phù cát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.6 MB, 141 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ năm 1961 đến năm 1972, Quân đội Hoa Kỳ đã tiến hành Chiến dịch
Ranch Hand, phun rải khoảng 80 triệu lít chất diệt cỏ, trong đó chủ yếu là chất
da cam, một hỗn hợp của 2-4D (2,4-dichlorophenoxyacetic acid) và 2,4,5-T
(trichlorophenoxyacetic acid) Trong quá trình sản xuất chất độc hóa học với
thành phần là 2,4-D và 2,4,5-T sinh một sản phẩm phụ ngoài mong muốn là
dioxin Các nhà khoa học trên Thế giới đều có chung nhận xét: Dioxin là chất
độc nhất do con người tìm ra và tạo ra Chính dioxin có trong các chất diệt cỏ
được lưu giữ tại các sân bay quân sự Biên Hòa, Đà Nẵng, Phù Cát và sử dụng
ở Miền Nam Việt Nam, đã để lại hậu quả nặng nề đối với sức khỏe con người
[1], [2], [3], [4]
Đã có rất nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam, Hoa Kỳ,
Nhật Bản…về tác hại của dioxin đối với con người Những nghiên cứu dịch tễ
học đã được thực hiện trên những người phơi nhiễm dioxin và chỉ ra những
bệnh/tật liên quan đến dioxin Tuy nhiên, cho đến nay, người ta vẫn chưa tìm
thấy mối liên quan chặt chẽ có tính đặc hiệu giữa dioxin và bệnh/tật, giữa
dioxin với những biến đổi về gen, miễn dịch, hormone…
Dioxin và các chất giống dioxin (dioxin-like compounds, DLCs) được
xếp vào nhóm các hóa chất gây rối loạn nội tiết (EDCs) Hiệp Hội nội tiết và
Cơ quan bảo vệ môi trường Hoa Kỳ đưa ra định nghĩa EDC là “một hóa
chất/hỗn hợp các chất hóa học ngoại sinh, can thiệp vào bất kỳ khâu nào trong
cơ chế hoạt động của các hormone” EDCs được quan tâm và ngày càng có
nhiều nghiên cứu về sự ảnh hưởng của chúng đến hệ thống nội tiết (đặc biệt là
các trục nội tiết: trục dưới đồi - tuyến yên - tuyến giáp; trục dưới đồi - tuyến
yên - tuyến sinh dục; trục dưới đồi - tuyến yên - tuyến thượng thận) Mục tiêu
tác động không chỉ giới hạn ở một tuyến/trục nội tiết Những nghiên cứu trên
động vật đến các quần thể người đều nhận định dioxin là chất gây rối loạn nội


2


tiết điển hình, trong đó trục nội tiết dưới đồi - tuyến yên - tuyến giáp và tuyến
sinh dục là các mục tiêu nổi bật [5], [6], [7], [8], [9]
Đã có một số nghiên cứu về biến đổi nồng độ hormone trong cơ thể do
các nhà khoa học Nhật Bản và cộng sự thực hiện ở những người phụ nữ và
con của họ tại những vùng trước đây chịu ảnh hưởng của chất diệt cỏ có
dioxin ở Miền Nam Việt Nam; so sánh với nhóm chứng ở các vùng phía Bắc
Các nghiên cứu bước đầu cho thấy có một số liên quan giữa nồng độ dioxin
với nồng độ các hormone tuyến thượng thận Mối tương quan này khơng
tuyến tính mà thường có dạng hình chng hoặc hình chữ U, điều đó cho thấy
tác động của dioxin gây ra những rối loạn/biến đổi nồng độ các homrone
trong cơ thể một cách phức tạp trong mạng lưới tác động qua lại giữa các
hormone và không đơn thuần theo một hướng duy nhất là ức chế hay tăng
cường [10], [11]
Những kết quả nghiên cứu trên đã đặt ra các câu hỏi về sự liên quan giữa
dioxin với hormone của các trục nội tiết khác nhau; sự liên quan giữa biến đổi
hormone với các bệnh lý ở những người phơi nhiễm dioxin, đặc biệt là các
đối tượng vẫn đang tiếp tục có những nguy cơ phơi nhiễm dioxin Vì vậy,
nghiên cứu làm rõ tác hại của dioxin đối với biến đổi hormone có ý nghĩa
quan trọng trong việc chẩn đoán bệnh/tật và điều trị cho những người bị phơi
nhiễm dioxin
Từ thực tế đó chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu mối liên quan
nồng độ dioxin với một số hormone trong máu ở người làm việc tại các
sân bay quân sự Biên Hòa, Đà Nẵng và Phù Cát” với các mục tiêu:
1 Xác định nồng độ dioxin và một số hormone nội tiết trong máu ở
người làm việc tại các sân bay quân sự Biên Hịa, Đà Nẵng và Phù Cát
2 Phân tích mối liên quan nồng độ dioxin với một số hormone nội tiết
trong máu của người làm việc tại các sân bay quân sự Biên Hòa, Đà Nẵng và
Phù Cát



3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1 1 TỔNG QUAN VỀ DIOXIN
1 1 1 Cấu trúc hóa học của dioxin
Thuật ngữ "dioxin" được sử dụng và đề cập đến 75 chất đồng loại
(congeners) của polychlorinated dibenzo-p-dioxin (PCDD) và 135 chất đồng loại
của polychlorinated dibenzo furan (PCDF) Cấu trúc cơ bản của PCDD và
PCDF là hai vòng benzene được nối với nhau bởi 2 cầu nối Oxy (đối với
PCDD) hoặc 1 cầu nối Oxy (đối với PCDF) Đây là hai nhóm este ba vịng,
phẳng, có thể có 8 ngun tử Clo (Cl) gắn vào nguyên tử carbon ở vị trí từ 1 - 4
và từ 6 - 9 (Hình 1 1) Chỉ những đồng loại chứa các nguyên tử Cl ở đồng thời
các vị trí 2,3,7,8 mới có độc tính đáng kể Nhóm PCDD có 7 đồng loại và
nhóm PCDF có 10 đồng loại có đặc điểm này [1], [12], [13], [14]

Hình 1 1 Cấu trúc chung của dioxin và các hợp chất tương tự dioxin
* Nguồn: Theo Marinković N và cs (2010) [12], [14]


4
1 1 2 Sự xâm nhập và tích lũy sinh học của dioxin

Hình 1 2 Con đường phơi nhiễm dioxin từ môi trường vào cơ thể người
* Nguồn: Theo Lê Kế Sơn và cs (2014) [15]

Các nghiên cứu chỉ ra rằng trên 90% lượng dioxin xâm nhập vào cơ thể
người là qua đường tiêu hóa (ăn uống) Sự xâm nhập qua đường hô hấp và
ngấm qua da chỉ chiếm tỷ lệ thấp (Hình 1 2) Các nguồn thực phẩm, đặc biệt
là nhóm thịt, cá, trứng và sữa đóng vai trị quan trọng trong việc hấp thụ
dioxin vào cơ thể người [2], [16], [17]

Dioxin có đặc tính khơng tan trong nước, tan trong mỡ, khả năng tích tụ
lẫn tích lũy sinh học nên sự hấp thụ qua đường tiêu hóa phụ thuộc rất nhiều
vào loại thực phẩm ơ nhiễm Tích lũy sinh học (bioaccumulation) là tổng hợp
của hai q trình tích tụ sinh học (bioconcentration) và phóng đại sinh học
(biomagnification) Tích lũy sinh học đối với các hợp chất hóa học bền vững,
khó phân hủy và độc hại như dioxin là rất điển hình đối với cả chuỗi thức ăn
tự nhiên và chuỗi thức ăn chăn nuôi [18], [19], [20]
1 1 3 Nguồn gốc, sự tồn lưu và lan tỏa của dioxin
Có hai loại khu vực nhiễm dioxin trong mơi trường Miền Nam Việt Nam
Thứ nhất là các khu vực bị phun rải trực tiếp ở Miền Nam Việt Nam, phía
dưới vĩ tuyến 17 (chiếm 15% diện tích tồn Miền Nam) Thứ hai là một số
sân bay quân sự trước đây của Quân đội Hoa Kỳ, là những nơi tàng trữ hóa


5
chất để nạp lên máy bay đi phun rải, tẩy rửa sau phun rải Điều kiện khí hậu
và địa lý ở Miền Nam Việt Nam có tác động đáng kể đến độ tồn lưu, sự suy
giảm nồng độ và sự di chuyển của dioxin trong môi trường Đến nay, hàm
lượng dioxin trong đất, trầm tích, máu, sữa mẹ, mơ mỡ và thực phẩm ở các
vùng bị phun rải đã được nghiên cứu và đều ở mức chấp nhận được, dưới các
ngưỡng nồng độ cho phép Tuy nhiên, ở các các điểm từng là kho chứa, nạp,
rửa mà tập trung là các khu vực bị ô nhiễm nặng trong sân bay Biên Hòa
(SBBH), sân bay Đà Nẵng (SBĐN), sân bay Phù Cát (SBPC), hàm lượng
dioxin vẫn còn rất cao [21]
Từ số liệu của Bộ Quốc phòng (BQP) Hoa Kỳ cung cấp, điều tra và
nghiên cứu của Ủy ban 10/80 (Việt Nam), Công ty tư vấn Hatfield (Canada)
đã đưa đến kết luận SBBH, SBĐN, SBPC (các cơ sở chính của Chiến dịch
Ranch Hand) là các điểm nóng trọng điểm về ơ nhiễm dioxin [2], [21], [22],
[23], [24]
Tất cả các nghiên cứu về dioxin ở Miền Nam Việt Nam ở các vùng bị

phun rải cũng như ở các điểm nóng đều khẳng định nguồn gốc của dioxin là
kết quả của cuộc chiến tranh hóa học để lại, quân đội Mỹ đã sử dụng một khối
lượng rất lớn các chất diệt cỏ chứa dioxin, chủ yếu là chất da cam Kết luận
này được minh chứng bằng tỷ số nồng độ 2,3,7,8-TCDD/TEQ (T%) rất cao ở
hầu hết các đối tượng nghiên cứu [2], [21]
Do đặc tính lý hóa của dioxin là tan trong dầu nên các loại thực phẩm có
nguồn gốc động vật sẽ có hàm lượng dioxin cao hơn và là nguồn phơi nhiễm
quan trọng hơn so với thực phẩm có nguồn gốc thực vật [20], [25] Nghiên
cứu mẫu thịt xung quanh SBBH, chợ và hồ Biên Hùng (2010) thấy hàm lượng
2,3,7,8-TetraCDD trong thịt vịt 276 - 331 pg/g trọng lượng ướt, trong cá lóc là
66 pg/g, trong thịt gà là 0,35 - 48 pg/g, trong thịt lợn là 0,6 - 1,1 pg/g và trong
thịt bò là 0,11 - 0,21 pg/g [26]


6
Khi dioxin được hấp thụ vào trong cơ thể người, hệ tuần hoàn giúp cho
việc phân bố dioxin tới các cơ quan, dioxin chỉ tồn tại trong máu với khoảng
thời gian ngắn, sau đó tích tụ tại các mơ mỡ và gan [27] Lượng tồn lưu trong
cơ thể có thể tính từ mức PCDDs/PCDFs trong máu Nồng độ của 2,3,7,8TCDD trong lipid huyết thanh bằng với nồng độ 2,3,7,8-TCDD trong lipid
của cơ thể [28]
Trong cơ thể, các chất dibenzo-p-dioxin chlo hóa (CDD) được tìm thấy ở
tất cả các mơ nhưng tập trung nhiều nhất ở gan và mô mỡ Mô mỡ và gan có
khả năng tích lũy CDD trong nhiều năm trước khi đào thải chúng khỏi cơ thể
2,3,7,8-TCDD và các dioxin chứa nhiều clo (chẳng hạn như OCDD) đã được
phát hiện có trong mơ mỡ với nồng độ cao hơn so với các CDD khác [17]
Kojima H và cs đã đo độc tố cùng loại PCDDs/PCDFs trong các mô khác
nhau ở những trường hợp khám nghiệm tử thi cho thấy gan và các mơ mỡ có
nồng độ dioxin cao nhất [29]
1 1 4 Cơ chế tác động của dioxin
* Thụ thể Aryl hydrocarbon (AhR)

Thụ thể Ah của dioxin được hoạt hóa bởi các phối tử (ligand) Phối tử
điển hình của AhR là 2,3,7,8-TetraCDD AhR là một thành viên của họ
protein thuộc nhân tố điều hòa phiên mã (transcription factor), có cấu trúc
basic helix-loop-helix/Per-Arnt-Sim2 AhR có các vùng cấu trúc đảm nhiệm
các chức năng: liên kết với phối tử, liên kết với DNA của gen đích, liên kết
các protein thành phần và chức năng hoạt hóa phiên mã [30], [31], [32]
Từ khi được phát hiện vào những năm 1980, AhR là một chủ đề được rất
nhiều nhà khoa học độc chất học tập trung vào nghiên cứu tìm hiểu cơ chế
phân tử của độc tính gây ra bởi phối tử điển hình của AhR [31]


7
* Cơ chế tác động của dioxin thông qua AhR
Trong điều kiện khơng có phối tử, AhR trong tế bào chất, liên kết với các
protein thành phần như: AIP (aryl hydrocarbon receptor interacting protein),
p23 và 2 phân tử HSP90 (90-kDa heat shock protein)
Khi dioxin khuếch tán qua màng tế bào vào liên kết với AhR, phức hệ
AhR được hoạt hóa, thay đổi cấu hình và vận chuyển vào trong nhân tế bào
Trong nhân, AhR được giải phóng khỏi phức hợp các protein thành phần và
tương tác với một protein trong nhân gọi là nhân tố dẫn truyền nhân ARNT

Hình 1 3 Hoạt động của thụ thể AhR và tương tác với dioxin trong tế bào
* Nguồn: Theo Hui W và Dai Y (2020) [32]

Phức hệ AhR/ARNT liên kết với vị trí DNA đặc biệt trên gen đích, gọi là
yếu tố đáp ứng với các chất lạ hay yếu tố đáp ứng dioxin (DRE) tạo phức hệ
AhR/ARNT/DRE điều hòa biểu hiện các gen đích [30], [31], [32]
1 1 5 Xác định phơi nhiễm dioxin
Không thể coi tất cả những người sống ở các khu vực từng bị phun rải
chất diệt cỏ trong giai đoạn trước năm 1975 bị phơi nhiễm dioxin, cũng không



8
thể đếm hết số người đã bị phơi nhiễm Bộ các vấn đề cựu chiến binh Hoa Kỳ
coi tất cả các cựu binh Mỹ từng có mặt ở bất cứ địa điểm nào tại Miền Nam
Việt Nam trong giai đoạn từ 1961-1975 và sau đó phát triển một trong các
bệnh hoặc tình trạng y tế trong danh sách thì đều được coi là đã bị phơi nhiễm
Việc sinh sống tại các tỉnh bị phun rải chất diệt cỏ vào thời điểm có hoạt động
phun rải chưa phải là bằng chứng chắc chắn của sự phơi nhiễm với dioxin
Muốn có bằng chứng cần phải xác minh được dioxin thực sự đã làm ô nhiễm
môi trường tại một địa điểm cụ thể, và nồng độ dioxin trong mơi trường ở đó
phải đủ cao để ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân sinh sinh sống tại đó và
xung quanh khu vực đó [2]
Một số các nghiên cứu định lượng các CDD trong lipid huyết thanh để
xác định mức độ phơi nhiễm của từng cá thể thì nồng độ 2,3,7,8-TCDD chỉ
được đo vài năm sau khi phơi nhiễm đã chấm dứt Tuy nhiên, do tính chất của
CDD rất bền vững, có ái tính cao với lipid, rất khó phân hủy và có xu hướng
tích lũy sinh học; hơn nữa khơng thể đo lường nồng độ dioxin đã từng tồn tại
trong đất và thức ăn vào những thời điểm nhất định cách đây mấy chục năm
Vì vậy, một phân tích đơn trên máu hay mơ mỡ là cách đo sự phơi nhiễm tích
lũy trong quá khứ đối với CDD Với giả thiết về động học ưu tiên cho sự đào
thải 2,3,7,8-TCDD và chu kỳ bán hủy khoảng từ 7-12 năm, có thể tính ra
nồng độ 2,3,7,8-TCDD trong mẫu huyết thanh và mô mỡ ở thời điểm ban đầu
của phơi nhiễm từ nhiều năm trước đó (nếu biết thời gian phơi nhiễm ban
đầu) Tổng lượng dioxin tích lũy trong cơ thể cũng có thể suy ra từ lượng
2,3,7,8-TCDD huyết thanh Thời gian bán hủy 7,1 năm được rút ra từ một
nghiên cứu trên 36 cựu chiến binh tham gia chiến dịch Ranch Hand [17]
Nồng độ cịn lại sẽ giảm dần đến mức thấp/khơng, nhưng ảnh hưởng của
dioxin đối với cơ thể vẫn còn Một người từng bị phơi nhiễm với dioxin trong
quá khứ nhưng xét nghiệm máu ở thời điểm hiện tại có thể khơng chỉ ra được

Y học thường dựa trên các triệu chứng đặc hiệu về lâm sàng và cận lâm sàng


9
đặc biệt là các xét nghiệm đặc hiệu Tuy nhiên, phơi nhiễm dioxin rất khó có
thể tìm thấy các triệu chứng đặc hiệu như vậy Một vài nhân tố làm phức tạp
thêm việc nhận định các dữ kiện về tác dụng lên sức khỏe sau khi phơi nhiễm
như sự thiếu sót số liệu về phơi nhiễm, phơi nhiễm đồng thời với các hóa chất
khác, cỡ mẫu chưa đủ lớn… đã làm hạn chế giá trị thống kê của nghiên cứu
Nhiều nghiên cứu tình trạng sức khỏe sau khi bị phơi nhiễm với 2,3,7,8TCDD và các hợp chất liên quan nhưng lại không định lượng được nồng độ
phơi nhiễm và liều xâm nhập Do đó các nhà nghiên cứu phải chọn phương
pháp nghiên cứu dịch tễ học phù hợp để so sánh tỷ lệ mắc bệnh giữa các quần
thể người bị phơi nhiễm với các quần thể không bị phơi nhiễm, từ đó tìm hiểu
mối quan hệ ở cấp độ số đông [2], [17]
1 1 6 Phương pháp định lượng dioxin
Là một trong những chất ô nhiễm hữu cơ bền nhất (đặc tính ưa lipid và
rất khó chuyển hóa) nên việc xác định được nồng độ dioxin là khá phức tạp
Kỹ thuật DR CALUX dùng tế bào cảm biến sinh học để định lượng dioxin và
PCB trong mẫu phân tích (dựa vào đặc tính của dioxin, PCB và DLCs gắn đặc
hiệu vào thụ thể Ah trên bề mặt tế bào; đã phát triển được dòng tế bào đặc
trưng (H4II) phát hiện dioxin và PCB) Với kỹ thuật DR CALUX, kết quả xác
định được là tổng đương lượng độc (TEQ) của tất cả các đồng loại dioxin,
PCB, không định lượng được nồng độ từng đồng loại dioxin như kỹ thuật sắc
ký khí ghép khối phổ (GCMS) [33], [34], [35]
Từ năm 1980, tiêu chuẩn vàng xác định có phơi nhiễm dioxin hay khơng
phải sử dụng phương pháp GCMS; sắc ký kết hợp khối phổ với độ phân giải
cao (HRGC-HRMS)

Ngưỡng phát hiện của GCMS là 1 picrogram (0


000000000001 gram) Hiện nay GCMS là phương pháp duy nhất để đo nồng
độ từng đồng loại dioxin, được sử dụng ở tất cả các phòng xét nghiệm dioxin
trên Thế giới, kể cả các tổ chức như CDC Hoa Kỳ, lực lượng Không quân
Hoa Kỳ, WHO [36], [37]


10
Năm 1995 là năm Việt Nam phân tích được 17 đồng loại độc của
dioxin/furans bằng phương pháp GCMS, là một bước tiến quan trọng trong
lĩnh vực nghiên cứu dioxin, tạo thế chủ động cho các nghiên cứu về dioxin ở
Việt Nam [2], [14], [21]
Các nghiên cứu trước đây định lượng dioxin trong máu người Việt Nam
thường dùng các mẫu gộp; chỉ một số ít nghiên cứu sử dụng các mẫu riêng lẻ,
vì kỹ thuật phân tích từng mẫu riêng lẻ u cầu thể tích máu lấy đến 100 mL,
khó thu thập Với những tiến bộ trong kỹ thuật, hiện có thể phân tích dioxin
trong máu với lượng nhỏ tới 10 mL [39]
GCMS là một trong những phương pháp sắc ký hiện đại nhất hiện nay
với độ nhạy và độ đặc hiệu cao Thiết bị GCMS gồm 2 thành phần: sắc ký khí
(GC) và khối phổ (MS) Sắc ký khí (GC) dùng để chia tách các hỗn hợp của
hóa chất ra thành các phần riêng lẻ, mỗi phần có một giá trị riêng biệt Trong
sắc ký khí (GC) chia tách xuất hiện khi mẫu bơm vào pha động Khối phổ
(MS) được dùng để xác định một chất hóa học dựa trên khối lượng của nó
Khi giải hấp các hợp chất riêng lẻ từ cột sắc ký, chúng đi vào đầu dò có dịng
điện ion hóa (mass spectrometry) Phương pháp này có quá trình tách chiết
đặc biệt cho từng loại mẫu, sau đó là q trình làm sạch chất cần phân tích và
kỹ thuật phân tích sắc ký khí cột mao quản phân giải cao Mẫu cần phân tích
sẽ được bổ sung thêm chất nội chuẩn và được chiết theo quy trình chiết đặc
trưng kiểu ma trận [40], [41], [42]
2,3,7,8-TetraCDD là đồng loại độc nhất và được quy ước hệ số độc
tương đương (TEF) là TEF = 1 Những đồng loại khác được gán giá trị hệ số

độc tùy theo mức độ độc của nó so với đồng loại 2,3,7,8-TCDD Ví dụ, hệ số
độc của đồng loại 1,2,3,4,7,8-Hexachlorodibenzo-p-dioxin bằng 0,1 - nghĩa là
mức độ độc của đồng loại này bằng 1/10 so với đồng loại 2,3,7,8-TCDD Hệ
số độc quy đổi của 17 đồng loại dioxin được WHO cập nhật gần đây nhất là
năm 2005 (WHO-TEF 2005) Tổng độ độc TEQ của toàn bộ 17 đồng loại tính


11
bằng tổng nồng độ nhân với hệ số độc của từng đồng loại Đây là một chỉ số
quan trọng để đánh giá mức độ phơi nhiễm dioxin trong cơ thể [1], [36], [43]
1 1 7 Thực trạng ô nhiễm dioxin tại các khu vực của sân bay quân sự
Biên Hòa, Đà Nẵng và Phù Cát
* Sân bay Biên Hòa
SBBH thuộc địa phận tỉnh Đồng Nai, có tọa độ 105 O58’30” vĩ Bắc và
106O49’10” kinh Đơng, phía Tây cách sơng Đồng Nai khoảng 700 m, cách
thành phố Hồ Chí Minh khoảng 30 km về phía Đơng Bắc [1], [21]
Tình hình ơ nhiễm chất da cam/dioxin ở SBBH còn khá phức tạp cả về
quy mô và mức độ ô nhiễm Về cơ bản, SBBH có các khu vực ơ nhiễm nặng
bao gồm: khu vực Z1 ở phía Nam khu trung tâm (căn cứ của chiến dịch
Ranch Hand); khu vực các ao hồ ở hạ lưu nơi tiếp nhận lan tỏa đất bị ô nhiễm
rửa trôi; khu vực Tây Nam nằm ở phía Tây khu vực Z1 gần vành đai căn cứ
(khu vực cất giữ chất diệt cỏ cho chiến dịch Pacer Ivy) và khu vực Pacer Ivy
ở phía Tây của SBBH (tập kết chất diệt cỏ trước khi đưa ra đảo Johnston ở
Thái Bình Dương) [2], [44]
Khu vực Z1 và vùng lân cận: Kết quả của các đợt khảo sát do Bộ Quốc
phịng (BQP) thực hiện trong khn khổ của Dự án Z1 và Chương trình 33
cho thấy nồng độ dioxin trong đất và trầm tích của khu vực Z1 là rất cao, với
nồng độ cao nhất là 410 000 ppt TEQ trong đất và 5470 ppt (theo trọng lượng
khô) trong trầm tích Các đợt khảo sát tiếp theo vào năm 2004 - 2005 cho thấy
nồng độ vẫn cao trong một vài mẫu trầm tích tại hồ 2, với nồng độ cao nhất

trong mẫu trầm tích là 833 ppt TEQ Trong chương trình khảo sát vào tháng 1
năm 2008, hiện trạng ơ nhiễm dioxin tại khu Z1 vẫn còn cao, với nồng độ
TEQ của mẫu cao nhất là 262 000 ppt Kết quả phân tích năm 2010 do
Hatfeld và Văn phịng 33 (VP33) thực hiện cho hầu hết các mẫu lấy tại khu
vực Z1 đều có nồng độ TEQ thấp, mẫu cao nhất là 3 210 ppt Điều này nỗ lực
xử lý khu vực này của Việt Nam đã có hiệu quả Tuy nhiên, khu vực vành đai


12
khu vực Z1 cần được quan tâm thêm, đặc biệt là nghiên cứu tầng sâu Nghiên
cứu tại các ao hồ trong khu vực Z1 cho thấy các hồ sau có hàm lượng dioxin
trong đất và trầm tích vượt tiêu chuẩn cho phép: hồ 1 (2 249 pg-TEQ/g), hồ 2
(833 pg-TEQ/g), hồ Cổng 2 (508 pg-TEQ) Các hồ này nuôi trồng rau, cá,
một số người dân vẫn còn tiêu thụ thực phẩm từ hồ này [21] Cá rô phi thu
được từ tất cả các hồ bên trong và ngoài khu vực SBBH có nồng độ dioxin
trong mơ mỡ vượt q các hướng dẫn liên quan của Hoa Kỳ và Quốc tế Mức
cao nhất ghi nhận được thấy trong mỡ cá là 4 040 ppt TEQ [2]

Hình 1 4 Bản đồ vị trí sân bay Biên Hịa và những điểm đã biết
hay có khả năng ơ nhiễm dioxin
Đường viền màu đen: khu vực sân bay Biên Hòa Đường viền màu đỏ: đường
biên với các khu vực lân cận Đường viền màu vàng biểu thị khu vực đã biết
hoặc có thể ơ nhiễm dioxin Hình màu đỏ có gạch chéo biểu thị khu vực đã
được xác định có ơ nhiễm dioxin qua các nghiên cứu trước đó
* Nguồn: Theo USAID (2016) [1]


13
Khu vực Nam sân bay: Khu vực này được nghiên cứu bởi VP33/Hatfeld
năm 2008, 2010 và bởi BQP vào năm 2012 trong dự án Z9 Kết quả nghiên

cứu nhìn chung đưa ra nhận định khu vực này có mức ơ nhiễm trung bình, có
những điểm ơ nhiễm cao và rất cao Trong đó, độ sâu ơ nhiễm nằm trong
khoảng 60 cm, và diện tích 1 ha [21]
Khu vực Pacer Ivy: Tính tới thời điểm năm 2013, tại khu vực này có 4
nghiên cứu được ghi nhận (năm 2008, 2010, 2011, 2012), tổng số mẫu đất
được lấy trong 4 nghiên cứu này là khoảng 200 mẫu Phân tích các mẫu trên
cho thấy ô nhiễm dioxin tại khu vực này là trung bình và cao, có những điểm
ơ nhiễm rất cao Trầm tích các ao hồ trong khu vực này đã được phân tích, và
một số hồ vượt tiêu chuẩn dioxin cho phép

Theo nghiên cứu của

VP33/UNDP (2011), hướng lan tỏa từ khu vực Pacer Ivy có thể rộng hơn dự
kiến ban đầu [21]
Vành đai phía Bắc và Đơng sân bay: Nồng độ dioxin cao được phát hiện
tại một số vị trí tại vành đai phía bắc và đơng của sân bay Các khu này biệt
lập và nằm xa với các khu vực ô nhiễm đã biết như Z1, Pacer Ivy [21]
* Sân bay Đà Nẵng
SBĐN nằm trong tọa độ 16O vĩ Bắc và 108O15’ kinh Đông, thuộc
phường Thạc Gián, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng SBĐN là sân bay
quốc tế khu vực miền Trung và có vị trí quan trọng trong bảo đảm an ninh,
quốc phòng SBĐN nằm trong nội thành nên mọi hoạt động trong sân bay đều
có ảnh hưởng tới cộng đồng dân cư xung quanh như: tiếng ồn, khí thải, nước
thải và đặc biệt là khu tồn lưu chất da cam/dioxin trong sân bay và từ đó lan
tỏa ra xung quanh [21]
SBĐN là một trong những cứ điểm then chốt của Chiến dịch Ranch
Hand, chỉ xếp sau SBBH xét về số lượng các đợt phun rải và khối lượng chất
diệt cỏ được cất giữ và sử dụng [2], [21]



14

Hình 1 5 Bản đồ vị trí sân bay Đà Nẵng và những điểm ô nhiễm dioxin
Đường viền xám: khu vực sân bay Đà Nẵng Đường viền màu vàng nét đứt
biểu thị biên giới quận Đường viền màu đỏ biểu thị các khu vực điểm nóng ơ
nhiễm dioxin (Sen Lake – hồ Sen; Drainage Ditch – mương thoát nước;
Eastern Wetland – đầm lầy phía đơng; Eastern Hotspot – điểm nóng phía


15
đông; Fomer Storage Area – khu vực lưu trữ trước đây; Former Mixing and
Loading Area – khu vực trộn và tải nạp trước đây; Pacer Ivy Storage Area –
khu lưu trữ Pacer Ivy)
* Nguồn: Theo USAID (2016) [1]

Quân đội Hoa Kỳ từng sử dụng SBĐN và bãi tồn trữ chất độc hóa học
cho chiến dịch Ranch Hand từ tháng 5/1964 đến 7/1/1971 Từ ngày 17/4/1970
đến 31/3/1972, SBĐN còn phục vụ cho chiến dịch thu hồi (Pacer Ivy) nhằm
xóa hết dấu vết của chất độc hóa học/dioxin, đã thu hồi 8 200 thùng chất da
cam và vỏ thùng đưa về Mỹ (số liệu do BQP Hoa Kỳ cung cấp) Sau kết luận
của dự án Z2 - BQP, SBĐN trở thành “điểm nóng” ơ nhiễm chất độc hóa
học/dioxin và đã được khảo sát, nghiên cứu sâu, tập trung sự chú ý của Chính
phủ Việt Nam và các Tổ chức Quốc tế [2], [19]
Do đặc thù của SBĐN được sử dụng hỗn hợp cho mục đích quân sự và
dân sự nên vấn đề xử lý ơ nhiễm tại đây được hai Chính phủ Mỹ và Việt Nam
lựa chọn ưu tiên phối hợp thực hiện [44]
Khu vực nhiễm chất da cam/dioxin cao trong SBĐN trước khi tẩy độc
hoàn toàn là: khu kho chứa, khu rửa, khu nạp và một số khu vực khác Nồng
độ TEQ lớn nhất trong đất được ghi nhận vào năm 2006 là 365 000 ppt trong
các mẫu lấy tại khu trộn và nạp cũ, nồng độ này vượt giá trị giới hạn cao nhất

(1 000 ppt) Nồng độ dioxin và furan cho thấy ô nhiễm tại sân bay là cực cao,
đầu phía bắc của SBĐN là một điểm ơ nhiễm dioxin điển hình Đầu phía nam
SBĐN cho thấy ơ nhiễm dioxin có giới hạn [21]
Khu vực trộn và tải nạp lên máy bay, khu vực lưu trữ và kênh thoát
nước: Ô nhiễm dioxin tại các khu vực này cao nhất trong sân bay Ô nhiễm
sâu xuống tới 150 cm và nhiều nơi cịn sâu hơn Kênh thốt nước mang chất ô
nhiễm từ khu vực trộn, tải nạp và khu vực lưu trữ tới hồ Sen [21]
Các ao và hồ tại sân bay: Theo hướng lan tỏa, dioxin tích tụ trong hồ
Sen, trong bùn, động vật, thực vật thủy sinh: trong 3 hồ, hồ Sen A bị ô nhiễm


16
dioxin nặng cần có biện pháp xử lý Hồ B và hồ C: trong các mẫu bùn và cá
nồng độ dioxin không cao, dưới 100 ppt TEQ Động thực vật thủy sinh tại hồ
Sen A bị nhiễm dioxin với nồng độ cao, vượt các giá trị tiêu chuẩn Trên cá rô
phi thu được từ hồ Sen tại SBĐN thấy nồng độ dioxin trong mỡ cá lên tới 8
350 ppt TEQ, ở cơ cá (88,2 ppt TEQ), ở trứng cá (1 290 ppt TEQ) và gan cá
(1 540 ppt TEQ) Do đó, tất cả hoạt động ni trồng đánh bắt động vật thủy
sinh tại đây đây đều bị nghiêm cấm [2], [21]
Khu vực ngoài sân bay theo hướng lan tỏa: Đất khu dân cư, bùn trong
các hồ Xuân Hà, hồ 29-3, sơng Hàn, sơng Cẩm Lệ, sơng Phú Lộc có nồng độ
dioxin thấp, dưới mức cho phép Khu vực đất ngập nước phía đơng, gần khu
hồ Sen cũng có hàm lượng dioxin nằm trong khoảng hàng trăm ppt nhưng
hoạt động lấy mẫu còn hạn chế trong khu vực này còn giới hạn trong khu vực
rộng Một phần khu vực này không thể tiếp cận do khó khăn liên quan tới địa
hình [21]
Khu vực Pacer Ivy: Khu vực lưu trữ Pacer Ivy được điều tra trong một
vài nghiên cứu Một vài mẫu có phát hiện ơ nhiễm dioxin, với nồng độ cao
nhất là 20 600 pg-TEQ/g Đất ở tầng sâu (>30 cm) có hàm lượng TEQ thấp
hơn Khu vực đóng thùng Pacer Ivy không thấy hàm lượng dioxin nồng độ

cao [21]
Nghiên cứu của Hatfield Consultants về nồng độ dioxin có trong một số
loại thực phẩm tại điểm nóng SBĐN cho thấy nồng độ dioxin trong một số
thực phẩm rất cao: nồng độ dioxin mẫu cá lấy ở hồ Sen bên trong sân bay là
33,2 pg/g (đối với thịt cá) và 3 000 pg/g (đối với mỡ cá), nồng độ dioxin tối
đa trong thực phẩm thông thường là dưới 0,1 pg/g [45], [46], [47]
* Sân bay Phù Cát
SBPC thuộc địa phận tỉnh Bình Định, nằm trong tọa độ 13 O57’48” vĩ
Bắc, 109O03’57” kinh Đơng và có địa giới hành chính như sau: phía bắc giáp
xã Cáp Tân, phía Nam - xã Nhơn Thành, phía Đơng giáp quốc lộ 1A và phía


17
Tây giáp xã An Nhơn cách Trung tâm thành phố Quy Nhơn khoảng 28 km về
phía Tây Bắc [21]

Hình 1 6 Các khu vực có số liệu khảo sát định lượng dioxin tại sân bay
Phù Cát trong dự án Z3 giai đoạn 1999-2002
A, B, C Lake: Hồ A, B, C; Storage Area: Khu nạp; Buffer zone: Khu đệm;
Washing Area: Khu rửa
* Nguồn: VP 33, Bộ Tài nguyên và Môi trường (2013) [21]

Khu vực nhiễm độc và theo hướng lan tỏa trong sân bay Phù Cát được
chia thành các khu sau:
- Khu nhiễm độc cao: khu chứa chất độc hoá học và nạp chất độc lên
phương tiện phun rải
- Khu rửa phương tiện: sau nhiệm vụ phun rải chất phát quang
- Khu vực vùng đệm: nằm trên vùng đất từ khu chứa, nạp, rửa đến cửa
cống qua đường liên khu bom chảy vào hồ A
- Hồ A, hồ B, hồ C



18
Qua phân tích kết quả cho thấy: khu chứa, nạp có nồng độ dioxin cao
nhất, nồng độ trung bình là 11 400 ppt TEQ (n = 12) Khu đệm và khu rửa có
nồng độ dioxin thấp; khu đệm và khu rửa với nồng độ trung bình trong đất lần
lượt là 269 và 18 ppt I-TEQ Trong khuôn khổ dự án Z3 đã tiến hành lấy một
số mẫu theo chiều sâu đến 150 cm Kết quả phân tích dioxin tại khu vực Z3
cho thấy giá trị T% (2,3,7,8-TCDD/I-TEQ) cao trên 90% Điều đó cho thấy
dioxin trong khu nhiễm có nguồn gốc từ chất da cam
Các mẫu lấy tại các khu vực do BQP Mỹ giới thiệu (khu vực góc Đơng
Nam của sân bay - Khu Pacer Ivy) đều có nồng độ dioxin thấp và tỷ lệ
2,3,7,8-TetraCDD trên tổng TEQ nhỏ (dưới 50%); kết quả cho thấy khu vực
này có lẽ khơng bị sử dụng nhiều chất da cam trong thời gian chiến tranh Tất
cả đất nhiễm tại khu vực Z3, phía bắc, bể sa lắng đã được đưa vào khu vực
chôn lấp an toàn nằm ở đầu bắc của sân bay vào năm 2012 Khu vực chôn lấp
được cách ly với các khu vực có người trong và ngồi sân bay Rủi ro phơi
nhiễm dioxin tại SBPC được giảm đáng kể [21]
Năm 2012, tổng số 7000m3 đất bị ô nhiễm đã được thu gom, cô lập và
chôn lấp Tại khu vực chơn lấp có các bể bê tơng được xây dựng để ngăn
ngừa chất ô nhiễm độc hại phát tán ra môi trường [21]
Như vậy, SBPC được đánh giá mức độ ô nhiễm thấp hơn so với các
SBBH, SBĐN do khối lượng chất diệt cỏ lưu chứa ít và khu vực ô nhiễm đã
được tạm thời cô lập và cách ly [2]
1 2 TỔNG QUAN VỀ HORMONE
1 2 1 Cấu trúc hóa học và cơ chế hoạt động của hormone
* Cấu trúc
Hormone được tổng hợp tại các tuyến/tế bào nội tiết, được chun chở
bằng hệ thống tuần hồn tới các mơ/tế bào đích Hiện nay, khái niệm hormone
được mở rộng, là những hợp chất hóa học có các đặc tính [48]:

- Được tiết ra từ các tế bào chuyên biệt với một lượng rất nhỏ


19
- Đổ thẳng vào dòng máu và được vận chuyển tới những nơi mà chúng
phát huy tác dụng ở cách xa nơi mà chúng được tiết ra
- Tác động lên tế bào đặc hiệu (tế bào đích/tuyến đích) Một hormone có
thể tác động trên nhiều đích và do đó tạo ra nhiều hiệu quả khác nhau
- Phối hợp với hệ thần kinh, điều tiết sinh lý các quá trình chuyển hóa
Căn cứ vào cấu trúc hóa học, hormone được chia thành 3 nhóm cơ bản:
(1) các protein và polypeptide; (2) các steroid; (3) dẫn xuất của amino acid
tyrosin [48]
* Cơ chế hoạt động của hormone
Hoạt động đầu tiên của các hormone là gắn vào receptor đặc hiệu ở tế
bào đích Khi hormone gắn với receptor sẽ kích hoạt một loạt các phản ứng,
mỗi giai đoạn đều diễn ra mạnh mẽ, một lượng nhỏ hormone có thể tạo ra một
ảnh hưởng lớn Những receptor của hormone là những đại phân tử protein,
mỗi tế bào đích có khoảng 2 000 - 100 000 receptor Mỗi receptor thường chỉ
đặc hiệu với duy nhất một hormone, do đó mỗi loại hormone hoạt động trên
một loại mơ cụ thể [39], [40]
Vị trí các loại receptor đặc hiệu khác nhau thường thấy là: (1) nằm trong
hoặc nằm trên màng tế bào; (2) nằm trong tế bào chất; (3) nằm trong nhân của
tế bào [48], [49]
Số lượng và độ nhạy của các receptor luôn được điều chỉnh Số lượng
receptor tại các tế bào đích thường khơng hằng định Những receptor protein
thường bị bất hoạt hoặc phá hủy trong quá trình chúng thực hiện chức năng,
đến một thời điểm khác lại được tái hoạt trở lại hoặc một số được tạo mới
Gần như khơng có ngoại lệ, một hormone tác dụng lên mơ đích đầu tiên phải
tạo ra phức hợp hormone-receptor, sự kích hoạt receptor bắt đầu quá trình ảnh
hưởng của hormone tại mơ đích Phức hợp được tạo thành sẽ khởi động một

loạt các phản ứng có mục đích là truyền tín hiệu vào tới nhân các tế bào đích
Một số hormone khuếch tán tự do đi qua màng tế bào Một số hormone khác


20
khơng qua màng tế bào dễ dàng, tín hiệu lúc này được truyền đi bởi các thơng
tín viên thứ hai (chất truyền tin thứ hai) [48], [49]
1 2 2 Trục nội tiết và cơ chế điều hòa hoạt động của hormone
Hormone hoạt động theo cơ chế kiểm soát ngược âm tính, được điều
chỉnh một cách tự động, với xu hướng trở về trạng thái cân bằng Những
hormone điều chỉnh đáp ứng những chức năng khẩn cấp thì được điều tiết bởi
chính ngay cơ chất mà nó có nhiệm vụ giữ ổn định (Antidiuretic hormone,
ADH điều tiết bởi áp lực thẩm thấu, Insulin điều tiết bởi nồng độ đường
huyết, Aldosterone điều tiết bởi nồng độ Natri máu…) [48], [49]
Các hormone khác được điều chỉnh bằng một vịng kiểm sốt ngược bao
gồm hormone, trục hạ đồi - tuyến yên - tuyến đích Hệ thống này cũng được
gọi là trục nội tiết theo thứ tự từ trên xuống: hạ đồi, tuyến yên, tuyến nội tiết
đích và hormone do nó tiết ra Nồng độ hormone trong máu tăng/giảm đều tác
động ngược lên trục, gây ra ức chế hoặc kích thích sự tiết các hormone giải
phóng (Releasing Hormone) và các hormone ức chế (Inhibitory Hormone)
Hormone này sẽ gây tăng hoặc giảm hormone tuyến yên tương ứng với
hormone của tuyến đích đã thay đổi trong máu Sự cân bằng sinh học bị phá
vỡ trong trường hợp bệnh lý Hầu hết các trục nội tiết là các hệ thống chậm
[48], [49]
Các trục nội tiết hoạt động theo kiểu chỉ huy tự động hoặc theo yêu cầu
Sự thay đổi nồng độ hormone lưu hành điều tiết sự chỉ huy này Bên cạnh cơ
chế kiểm sốt ngược âm tính cịn có kiểm sốt ngược dương tính Chỉ huy
theo u cầu giúp cơ thể thích nghi tốt hơn, nó cũng gây ra những sự thay đổi
lớn về nồng độ hormone Chịu trách nhiệm chính trong cơ chế điều chỉnh này
là não bộ [48]



21
* Trục dưới đồi - tuyến yên - tuyến giáp (HPT)

Hình 1 7 Trục dưới đồi - tuyến yên - tuyến giáp
* Nguồn: Theo Mathew P và Rawla P (2021) [50]

TSH, TRH và các hormone tuyến giáp tạo nên trục HPT Khi nồng độ
hormone tuyến giáp trong máu tăng sẽ ức chế giải phóng TRH và TSH, ngược
lại sẽ kích thích bài tiết TRH và TSH Những thay đổi dù nhỏ về nồng độ FT3
và FT4, cũng có ngay đáp ứng tiết TSH và về lâu dài là sự tổng hợp TSH
[49], [51]


22

Hình 1 8 Điều hịa bài tiết hormone tuyến giáp
* Nguồn: Theo Guyton and Hall (2018) [49]

Nồng độ TSH ổn định trong máu, do đó rất ít có sự thay đổi về nồng độ
lưu hành của hormone giáp theo thời gian Nồng độ TSH trong huyết thanh có
bất thường (ở bệnh nhân) là dấu hiệu của rối loạn chức năng tuyến giáp [52]
Hormone tuyến giáp có vai trị rất quan trọng cho sự tăng trưởng đặc biệt
là với xương và thần kinh trung ương Hormone giáp làm tăng cung lượng
tim, ảnh hưởng tới sự co bóp của ruột; sự co của cơ; tác dụng gián tiếp tới sự
tái tạo hồng cầu

Đối với lipid, hormone giáp kích thích q trình tổng hợp,


sự huy động và sự thoái biến của các chất này Hormone giáp tác động với
hiệu ứng đa dạng và phức tạp trên chuyển hóa glucid Đối với protein,
hormone giáp ở liều thấp làm tăng sự tổng hợp protein và tăng dị hóa protein
nếu là liều cao Chuyển hóa của nước và các điện giải cũng chịu tác dụng của
hormone giáp - chủ yếu tăng mức lọc cầu thận Một số tác dụng chuyển hóa
(hủy glycogen, tân tạo glycogen, tiêu lipid, tạo nhiệt năng, hoặc tác dụng ở
mô cơ tim) có thể là liên quan đến tác dụng tăng cường các hormone giáp đối
với các hormone khác, đặc biệt là các catecholamin và cả glucagon, GH [48]


23
* Trục dưới đồi - tuyến yên - tuyến sinh dục (HPG)
Ở nam giới, thùy trước tuyến yên tiết FSH, LH dưới sự điều khiển của
GnRH FSH, LH giải phóng vào tuần hoàn, gắn lên thụ thể trên tế bào Leydig
và Sertoli, điều hòa sản xuất nội tiết tố và tinh trùng ở tinh hồn [53]

Hình 1 9 Trục dưới đồi – tuyến yên – tuyến sinh dục (HPG)
và trục dưới đồi – tuyến yên – tuyến thượng thận (HPA)
* Nguồn: Theo Buck Louis G M và cs (2008) [54]

Sự tiết hormone hướng sinh dục tiến triển theo tuổi, giới và chịu sự chi
phối của GnRH GnRH được chế tiết theo dạng xung, sau khi được tiết ra ở
các tế bào thần kinh của vùng dưới đồi, được đưa thẳng vào hệ thống cửa của
tuyến yên (hệ cửa Popa-Fielding) GnRH gắn các thụ thể lên tuyến yên và
kích thích chế tiết FSH và LH dạng xung [48], [53]


24
Testosterone tác dụng phản hồi âm tính làm vùng dưới đồi giảm tiết
GnRH và giảm sự nhạy cảm của tuyến n đối với GnRH Tác dụng điều hịa

ngược âm tính của Testosterone chủ yếu là tác dụng lên sự bài tiết GnRH của
vùng dưới đồi và thông qua GnRH để điều hòa bài tiết FSH và LH, còn tác
dụng trực tiếp lên tuyến yên thì rất yếu [48], [53]

Hình 1 10 Trục HPG điều chỉnh sự sản xuất Testosterone
* Nguồn: Theo Badal J và cs (2019) [55]

Sự bài tiết FSH còn chịu sự điều hòa của các yếu tố nội tại tinh hoàn
(activin và inhibin) Activin làm tăng tiết FSH, inhibin làm giảm tiết FSH ở
tuyến yên Trên lâm sàng, khi đánh giá hoạt động nội tiết của tinh hoàn và
trục hạ đồi - tuyến yên - tinh hoàn, thường dựa vào định lượng nồng độ FSH
và Testosterone [56]
PRL là một hormone protein có 198 acid amin PRL có chức năng làm
tăng cường tác động của LH trên tế bào Leydig Sự bài tiết PRL được điều
hòa dưới ảnh hưởng của nội tiết vùng dưới đồi và một số yếu tố khác PRL
được tiết theo kiểu có xung, ngồi ra có nhịp thay đổi theo ngày: nồng độ ở
huyết tương tăng lên trong giấc ngủ PRL tăng sớm trong thai kỳ, trong lúc


25
cho con bú sự kích thích đầu vú làm cho PRL máu tăng nhanh Các hoạt động
thể lực, xúc cảm cũng kích thích tiết PRL [48]
Testosterone do tế bào Leydig bài tiết Sau khi được bài tiết từ tinh hoàn,
khoảng 97% lượng Testosterone gắn lỏng lẻo với albumin huyết tương hoặc
chặt hơn với beta globulin và lưu hành trong máu trong khoảng 30 phút đến 1
giờ hoặc hơn [48], [53]
Inhibin B và activin là những nội tiết tố protein được tiết ra ở tế bào
Sertoli dưới tác động của FSH Activin có tác dụng làm tăng tiết LH và FSH ở
tuyến n Tại tinh hồn, activin kích thích tăng sản xuất steroid ở tế bào
Leydig bằng cách làm tăng hoạt động của LH trên tế bào Leydig Inhibin B có

tác dụng làm giảm tiết FSH ở tuyến yên [48], [53], [56]
FSH kích thích tế bào Sertoli nằm ở thành ống sinh tinh phát triển và bài
tiết các chất tham gia vào q trình sản sinh ra tinh trùng Nếu khơng có tác
dụng kích thích này của FSH thì tinh tử sẽ khơng thể trở thành tinh trùng
Trong q trình sản sinh tinh trùng, ngồi FSH cịn có vai trị rất quan trọng
của Testosterone LH kích thích tế bào Leydig (nằm giữa các ống sinh tinh)
phát triển, bài tiết Testosterone [53], [56]
Hiệu ứng của PRL nhiều và đa dạng tùy theo từng loài (tác dụng rõ nhất
ở người là tuyến vú, hiệu ứng này rất quan trọng trong thời kỳ cho con bú)
Tác dụng của PRL trên chức năng tuyến sinh dục được phản ánh qua hậu quả
của tình trạng đa tiết Ở nam giới là bất lực, hậu quả của sự đa tiết PRL gây ức
chế trục tuyến sinh dục, chủ yếu đối với sự giảm tiết có xung của GnRH làm
giảm nồng độ LH, kết quả giảm nồng độ Testosterone [48]
Testosterone được tổng hợp từ cholesterol Sản phẩm trung gian của quá
trình này là pregnenolone Testosterone là sản phẩm chế tiết chính của tinh
hồn Các sản phẩm phụ bao gồm: DHT (Dihydrotestosterone), androsterone,
androstenedione, 17-hydroxyprogesterone, progesterone và pregnolone
Testosterone là tiền chất để tổng hợp 2 nội tiết tố quan trọng bên ngoài tinh


×