Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Lý luận của chủ nghĩa mác lênin về vận động và các hình thức vận động ý nghĩa phương pháp luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.96 MB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐHSP NGHỆ THUẬT TW
KHOA GIÁO DỤC ĐẠI CƯƠNG

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN 21.06
Tên đề tài: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ : VẬN
ĐỘNG VÀ CÁC HÌNH THỨC VẬN ĐỘNG. Ý NGHĨA PHƯƠNG
PHÁP LUẬN


MỞ ĐẦU
Trong lịch sử triết học Mác- Lênin khái niệm của vận động là một phạm trù của
triết học Marx-Lenin dùng để chỉ về một phương thức tồn tại của vật chất, đó là
sự thay đổi của tất cả mọi sự vật hiện tượng, mọi quá trình diễn ra trong không
gian, vũ trụ từ đơn giản đến phức tạp. ... Thông qua vận động, vật chất mới biểu
hiện và bộc lộ bản chất của mình. Theo Engels thì vận động phải được hiểu theo
nghĩa chung nhất tức là một quá trình bao trùm từ sự thay đổi đơn giản đến thay
đổi tư duy.


Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và
mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến
tư duy



Với tính chất là sự biến đổi nói chung, thì vận động "là thuộc tính cố hữu của vật
chất" và "là phương thức tồn tại của vật chất" có nghĩa là vật chất tồn tại bằng
vận động (là phương thức của vật chất). Theo Ph.Ăng-ghen thì: Vật chất mà
khơng vận động là điều khơng thể quan niệm được. Vận động là sự biến đổi nói
chung khơng phụ thuộc vào tính chất, khuynh hướng hay kết quả của nó. Vật chất


chỉ có thể tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà biểu hiện, bộc lộ
sự tồn tại của mình.
Trong vận động và thông qua vận động mà các dạng vật chất biểu hiện sự tồn tại
của mình, khi con người nhận thức được những hình thức vận động của vật chất,
qua đó nhận thức được bản thân vật chất. Vận động là sự tự thân vận động của vật
chất, được tạo nên từ sự tác động lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong
cấu trúc vật chất (là thuộc tính cố hữu của vật chất). Theo Ăng-ghen, vận động
của vật chất do tác động qua lại giữa các yếu tố, các bộ phận khác nhau của bản
thân sự vật, "sự tác động. 5 hình thức vận động trên khơng tồn tại biệt lập mà nó
có mối quan hệ ảnh hưởng lẫn nhau, chuyển hố cho nhau do đó vận động đóng
vai trị là phương thức của vật chất, nó là phương thức để vật chất khơng ngừng
phát triển. Cịn khơng gian và thời gian thì lại là hai hình thức tồn tại cơ bản của

1


mỗi tồn tại vật chất. Vậy “vật chất là gì ? Nó có ý nghĩa phương pháp ra sao ?”
Chúng ta sẽ đi sâu vào phân tích để

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC VỀ VẬN ĐỘNG
I.Các quan điểm về vận động
Theo quan điểm biện chứng, vận động là thuộc tính của vật chất; mọi sự vật
trong thế giới vật chất đều luôn luôn vận động; thay đổi về vị trí trong khơng gian
là hình thức cơ bản nhất của vận động; để xác định một sự vật có thay đổi về vị trí
hay khơng thì phải xem xét nó trong quan hệ với một sự vật khác; phương thức
của vận động là chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay
đổi về chất và ngược lại; khuynh hướng của vận động là phủ định của phủ định;
nguyên nhân của vận động là thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Quan
điểm biện chứng về vận động là cơ sở lý luận đúng đắn cho việc nhận thức các

vấn đề khoa học cụ thể. Với tính chất là sự biến đổi nói chung, thì vận động "là
thuộc tính cố hữu của vật chất" và "là phương thức tồn tại của vật chất" có nghĩa
là vật chất tồn tại bằng vận động (là phương thức của vật chất). Theo Ph.Ăngghen thì: Vật chất mà không vận động là điều không thể quan niệm được. Vận
động là sự biến đổi nói chung khơng phụ thuộc vào tính chất, khuynh hướng hay
kết quả của nó. Vật chất chỉ có thể tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận
động mà biểu hiện, bộc lộ sự tồn tại của mình. Trong vận động và thơng qua vận
động mà các dạng vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình, khi con người nhận thức
được những hình thức vận động của vật chất, qua đó nhận thức được bản thân vật
chất. Vận động là sự tự thân vận động của vật chất, được tạo nên từ sự tác động
lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất (là thuộc tính cố
hữu của vật chất). Theo Ăng-ghen, vận động của vật chất do tác động qua lại giữa
các yếu tố, các bộ phận khác nhau của bản thân sự vật, "sự tác động qua lại đó
chính là sự vận động". Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình

2


thức vận động thấp, bao hàm trong nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn.
Nhưng các hình thức vận động thấp khơng có khả năng bao hàm các hình thức
vận động ở trình độ cao hơn. Ví dụ: Trong vận động vật lý thì bao gồm vận động
cơ học, trong vận động hóa học thì bao gồm vận động vật lý và trong vận động
sinh học bao gồm vận động hóa học và vận động xã hội bao gồm vận động sinh
học cũng như tất cả các vật động nêu trên. Tuy nhiên vận động cơ học không thể
bao gồm vận động xã hội.Các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất. Từ
vận động cơ học đến vận động xã hội là sự khác nhau về trình độ của sự vận
động, những trình độ này tương ứng với trình độ của các kết cấu vật chất. và
trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động
khác nhau. Dù vậy, bản thân sự tồn tại của sự vật đó thường đặc trưng bằng một
hình thức vận động cơ bản.Chính bằng sự phân loại các hình thức vận động cơ
bản, Engels đã góp phần đặt cơ sở cho sự phân loại các khoa học tương ứng với

đối tượng nghiên cứu của chúng và chỉ ra cơ sở của khuynh hướng phân ngành và
hợp ngành của các khoa học. Để xác định một sự vật (hoặc vật) nào đó có vận
động hay không, ta cần phải so sánh sự vật ấy ở hai thời điểm khác nhau. Nếu
một sự vật vào thời điểm trước và vào thời điểm sau là giống nhau, thì sự vật đó
khơng vận động. Ngược lại, nếu một sự vật vào thời điểm trước và vào thời điểm
sau là khác nhau, thì sự vật đó có vận động. Nói cách khác, một sự vật có vận
động nếu vào thời điểm trước nó có (hoặc khơng có) một thuộc tính nào đó, cịn
vào thời điểm sau khơng có (hoặc có) thuộc tính đó. Một sự vật khơng vận động
nếu vào thời điểm trước nó có (hoặc khơng có) một thuộc tính nào đó, cịn vào
thời điểm sau cũng có (hoặc khơng có) thuộc tính đó. Căn cứ vào dấu hiệu nhận
biết vận động như trên, từ kết quả quan sát (bằng mắt hoặc bằng các dụng cụ đo),
mọi người đều dễ dàng xác định được một sự vật bất kỳ ở thời điểm sau có vận
động hay không vận động so với thời điểm trước.
II: Định nghĩa vận động của chủ nghĩa Mác
Vận động là một phạm trù của triết học Marx-Lenin dùng để chỉ về một phương
thức tồn tại của vật chất (cùng với cặp phạm trù khơng gian và thời gian), đó là sự
thay đổi của tất cả mọi sự vật hiện tượng, mọi quá trình diễn ra trong khơng
gian, vũ trụ từ đơn giản đến phức tạp. Theo quan điểm của triết học Mác - Lê nin

3


thì vận động khơng chỉ là sự thay đổi vị trí trong khơng gian (hình thức vận động
thấp, giản đơn của vật chất) mà theo nghĩa chung nhất, vận động là mọi sự biến
đổi. Thông qua vận động, vật chất mới biểu hiện và bộc lộ bản chất của mình..
Vận động là một phạm trù của triết học Marx-Lenin dùng để chỉ về một phương
thức tồn tại của vật chất (cùng với cặp phạm trù không gian và thời gian), đó là sự
thay đổi của tất cả mọi sự vật hiện tượng, mọi q trình diễn ra trong khơng gian,
vũ trụ từ đơn giản đến phức tạp. Theo quan điểm của triết học Mác - Lê nin thì
vận động khơng chỉ là sự thay đổi vị trí trong khơng gian (hình thức vận động

thấp, giản đơn của vật chất) mà theo nghĩa chung nhất, vận động là mọi sự biến
đổi. Thông qua vận động, vật chất mới biểu hiện và bộc lộ bản chất của mình.
III. Các hình thức của vận động
Dựa vào thành tựu của khoa học tự nhiên và triết học, lần đầu tiên Ăngghen đã
phân loại thành 5 hình thức vận động cơ bản của vật chất là:
– Vận động cơ học.
– Vận động vật lý.
– Vận động hoá học.
– Vận động sinh học.
– Vận động xã hội.
Những hình thức vận động trên quan hệ với nhau theo những nguyên tắc nhất
định:
Thứ nhất, giữa các hình thức vận động có sự khác nhau về chất, biểu hiện những
trình độ phát triển của các kết cấu vật chất.
Thứ hai, các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động
thấp, bao hàm trong nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn.
Thứ ba, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau,
nhưng bao giờ cũng được đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản.
Bằng sự phân loại các hình thức vận động, Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc phân
loại các khoa học, cho khuynh hướng phân ngành và hợp ngành của các khoa
học. Đồng thời còn chống lại một khuynh hướng sai lầm trong nhận thức là quy
hình thức vận động cao vào hình thức vận động thấp hơn.
IV. Vận động và đứng im

4


Với tính chất là sự biến đổi nói chung, thì vận động "là thuộc tính cố hữu của vật
chất" và "là phương thức tồn tại của vật chất" có nghĩa là vật chất tồn tại bằng vận
động (là phương thức của vật chất). Theo Ph.Ăng-ghen thì: Vật chất mà khơng

vận động là điều không thể quan niệm được. Vận động là sự biến đổi nói chung
khơng phụ thuộc vào tính chất, khuynh hướng hay kết quả của nó. Vật chất chỉ có
thể tồn tại bằng cách vật động và thơng qua vận động mà biểu hiện, bộc lộ sự tồn
tại của mình.Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động là tuyệt đối, đứng im
là tương đối, tạm thời, thể hiện ở các điểm là vật thể chỉ đứng im trong một mối
quan hệ nhất định. Vật thể chỉ đứng im trong một hình thức vận động trong một
lúc nào đó, chứ khơng phải với mọi hình thức vận động trong cùng một lúc.
Đứng im là biểu hiện trạng thái vận động trong thăng bằng, ổn định tương đối.
Vận động cá biệt có xu hướng hình thành sự vật, hiện tượng ổn định nào đó; cịn
vận động nói chung thì làm cho tất cả không ngừng biến đổi.

CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
I.Phương pháp luận là gì?
Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát chỉ
đạo chủ thể trong việc xác định phương pháp cũng như trong việc xác định phạm
vi, khả năng áp dụng chúng một cách hợp lý, có hiệu quả tối đa. Trong thực tiễn,
để đạt được mục đích đề ra con người có thể sử dụng nhiều phương pháp khác

5


nhau để giải quyết một cơng việc nào đó, gọi là sự lựa chọn phương pháp. Sự lựa
chọn này phải trải qua một hoặc nhiều quá trình và phương pháp được lựa chọn
có thể đúng, có thể sai. Xuất hiện vấn đề xác định được phương pháp đúng, khoa
học và phương pháp sai, chưa khoa học, từ đây xuất hiện nhu cầu tri thức đúng về
phương pháp và đó cũng là lý do để khoa học về phương pháp, tức là lý luận về
phương pháp hay còn gọi là phương pháp luận ra đời. Phương pháp luận hay lý
luận về phương pháp (tiếng Anh: Methodology) là hệ thống cơ sở lý luận cho
phương pháp nghiên cứu. Bao gồm những nguyên tắc, quan điểm xuất phát từ
một lý thuyết hoặc một hệ thống lý luận nhất định (trước hết là những nguyên lý,

quan điểm liên quan đến thế giới quan) để chỉ đạo việc tìm kiếm, xây dựng, lựa
chọn và vận dụng các phương pháp cũng như trong việc xác định phạm vi, khả
năng áp dụng các phương pháp ấy phù hợp với mục tiêu của bạn, đem lại hiệu
quả tối đa. Hay nói cách khác, phương pháp luận chính là lý luận về phương pháp
bao hàm hệ thống các phương pháp, nhân sinh quan và thế giới quan của người
sử dụng phương pháp và các nguyên tắc để giải quyết các vấn đề đã đặt ra
Chẳng hạn như: bạn muốn biết về kinh nghiệm khi mua thực phẩm ở Hoa Kỳ,
bạn sẽ sử dụng phương pháp luận hiện tượng học (khoa nghiên cứu về những bản
chất của một hiện tượng cụ thể) và từ đó bạn có thể chọn ra phương pháp đem lại
hiệu quả tốt nhất từ các phương pháp khác nhau để thu thập dữ liệu này. Từ đó,
bạn có thể thực hiện một cuộc điều tra theo ngữ cảnh mua sắm cùng với những
người tham gia; bạn cũng có thể phỏng vấn một số ít người tham gia và yêu cầu
họ kể lại trải nghiệm mua sắm tạp hóa gần đây nhất của họ; hoặc bạn có thể chọn
thực hiện khảo sát và đặt câu hỏi tương tự cho hàng trăm người tham gia. Bởi vì
cuộc điều tra theo ngữ cảnh giúp nhà nghiên cứu tiến gần hơn đến bối cảnh thực
tế, kết quả có thể được coi là mạnh mẽ hơn và có thể chuyển nhượng hơn trong
tương lai. Phương pháp là phạm trù rất rộng, cho liên phạm vi bao quát của
phương pháp luận rất lớn. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học đặt ra cho
mình hàng loạt những nhiệm vụ quan trọng sau đây: Nghiên cứu làm sáng tỏ bản
chất của khoa học và hoạt động nghiên cứu khoa học, tổng kết các quy luật phát
triển của khoa học hiện đại. Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ chế tư duy sáng tạo trong
nhận thức của nhà khoa học và các kỹ năng thực hành sáng tạo của họ.Nghiên

6


cứu những quan điểm tổng quát, những cách tiếp cận đối tượng nhận thức, đồng
thời xây dựng hệ thống lý thuyết về phương pháp nghiên cứu khoa học, với tư
cách là con đường, cách thức và kỹ thuật nghiên cứu cụ thể, đây là vấn đề trung
tâm của phương pháp luận. Phương pháp luận khẳng định phương pháp nghiên

cứu khoa học khơng những nằm trong lơgíc nhận thức mà cịn nằm trong cấu trúc
nội dung một cơng trình khoa học. Cho nên Phương pháp luận nghiên cứu khoa
học một mặt xác định các bước đi trong tiến trình nghiên cứu một đề tài, mặt khác
cịn tìm ra cấu trúc lơgic nội dung của các cơng trình khoa học đó.Phương pháp
luận nghiên cứu khoa học cũng chú ý đến phương pháp tổ chức, quản lý nghiên
cứu hoạt động nghiên cứu khoa học và cơng nghệ, coi đó là một khâu ứng dụng
chính các thành tựu khoa học, nhằm nâng cao tiềm lực khoa học và tổ chức quá
trình nghiên cứu khoa học đạt hiệu quả cao.Tóm lại phương pháp luận nghiên cứu
khoa học là hệ thống lý thuyết về phương pháp nhận thức khoa học bao gồm đốc
các lý thuyết về cớ chê sáng tạo, những quan điểm tiếp cận đôi tượng khoa học,
cùng với hệ thống lý thuyết về phương pháp kỹ thuật và logic tiên hành nghiên
cứu một công trình khoa học cũng như phương pháp tổ chức , quản lý quá trình
ấy. Trong nghiên cứu khoa học, phương pháp luận là một phần vô cùng quan
trọng. Bởi bản chất của nghiên cứu khoa học là việc luôn sáng tạo và khơng có
giới hạn trong sự phát triển. Việc hoàn thiện Phương pháp luận nghiên cứu
khoa học sẽ là cơ sở, tiền đề giúp nhà khoa học, nhà chuyên mơn trong các lĩnh
vực tìm ra cách tiếp cận mới, tìm ra các phương pháp nghiên cứu mới từ đó xác
định hướng đi trong tiến trình nghiên cứu một cơng trình, một đề tài nghiên cứu
khoa học. Mang đến những tri thức có giá trị đối với lý luận và thực tiễn giúp
nâng cao nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Phương pháp luận nghiên cứu
khoa học là công cụ giúp nhà khoa học, nhà quản lý và thực hành sáng tạo khoa
học làm sáng tỏ bản chất và hoạt động nghiên cứu khoa học bởi nó chính là là kết
quả của quá trình khái quát lý thuyết và thực tiễn nghiên cứu khoa học. Không
những thế, phương pháp luận cịn có nghĩa đối với các nhà nghiên cứu bởi nó thể
hiện cơ chế tư duy sáng tạo trong nhận thức cũng như các kỹ năng thực hành sáng
tạo của họ. Phương pháp luận được phân chia thành các cấp độ khác nhau gồm
phương pháp luận bộ môn, phương pháp luận chung và phương pháp luận chung

7



nhất (phương pháp luận triết học). Các hình thức phương pháp luận trên hợp
thành một hệ thống khoa học về phương pháp chỉ đạo nhằm xác định các phương
pháp cụ thể một cách đúng đắn. Bởi các hình thức phương pháp luận vừa độc lập
tương đối với nhau, vừa bổ sung, xâm nhập vào nhau, do đó, phải biết vận dụng
tổng hợp các hình thức phương pháp luận trong các hoạt động.Phương pháp luận
biện chứng duy vật là hệ thống các nguyên tắc, các phương pháp tổ chức và xây
dựng hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn, đồng thời cũng chính là học thuyết
về hệ thống đó; là phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và của các
khoa học chuyên ngành.Phương pháp luận biện chứng duy vật là phương pháp
luận chung nhất, là sự thống nhất biện chứng giữa các phương pháp luận bộ môn,
phương pháp luận chung đã được cụ thể hoá trong các lĩnh vực của hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn.Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của
con người về thế giới và về vai trò, vị trí của con người trong thế giới đó; với việc
nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, triết học
thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất. Mỗi luận điểm của triết học
đồng thời là một nguyên tắc trong việc xác định phương pháp, là lý luận về
phương pháp. Những chức năng nói trên của triết học tạo ra khả năng cải tạo thế
giới của triết học, trở thành công cụ hữu hiệu trong hoạt động chinh phục tự nhiên
và trong sự nghiệp giải phóng con người của các lực lượng tiến bộ. Như vậy,
phương pháp luận- thuần tuý lý luận còn phương pháp gồm cả lý luận và thực
tiễn. Bởi vậy, không nên nhầm phương pháp với phương pháp luận và cũng phải
coi phương pháp thống nhất với phương pháp luận ở chỗ phương pháp luận là cơ
sở để nghiên cứu các phương pháp cụ thể, còn phương pháp cụ thể phải xuất phát
từ quan điểm, nguyên tắc của phương pháp luận.
II. Ý nghĩa của phương pháp luận
Phương pháp luận là gì là điều mà chúng ta cứ mãi thắc mắc và đã được hé lộ ở
trên. Thế ý nghĩa phương pháp luận ra sao, nó có thật sự quan trọng hay khơng?
Có phương pháp luận, bài nghiên cứu của bạn khơng những logic trong cấu trúc
câu từ mà nội dung có sức thuyết phục rất cao. Phương pháp luận có ý nghĩa như

cách để xác định hướng đi cho tiến trình nghiên cứu một đề tài và tìm ra cấu trúc
logic nhất cho các cơng trình khoa học hiện tại.Phương pháp luận cũng chú ý đến

8


phương pháp tổ chức, quản lý nghiên cứu hoạt động nghiên cứu khoa học và công
nghệ, cách để nâng cao tiềm lực khoa học và để các cơng trình khoa học đạt hiệu
quả cao. Trong nghiên cứu khoa học, phương pháp luận là những hệ thống,
nguyên lý, quan điểm làm cơ sở để xây dựng các phương pháp và định hướng cho
việc nghiên cứu khoa học. Các quan điểm mà phương pháp luận nghiên cứu khoa
học đưa ra thường mang khuynh hướng triết học, tuy nhiên không đồng nhất với
triết học. Một số phương pháp nghiên cứu khoa học riêng gắn liền với từng bộ
môn khoa học nhất định như kinh tế học, tốn học, hóa học,… Do đó, những
phương pháp luận khoa học sẽ được làm sáng tỏa khi thực hành nghiên cứu đúng
chủ đề đó. Phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học cũng được xem như là
một hệ thống lý thuyết về phương pháp nhận thức khoa học bao gồm đốc các lý
thuyết về cơ chế sáng tạo. Phương pháp luận chính là một trong ba bộ phận quan
trọng của khoa học. Nghiên cứu khoa học luôn là sáng tạo và cách mạng, trong
mỗi giai đoạn phát triển của khoa học hiện đại địi hỏi phải có cách tiếp cận mới
đối với khoa học, phải tìm ra các phương pháp nghiên cứu mới, phải phát hiện ra
các con đường mới để ứng dụng khoa học vào thực tiễn. Có thể nói: Hồn thiện
về phương pháp luận là sự đòi hỏi thường xuyên của sự phát triển khoa học hiện
đại. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là kết quả của quá trình khái quát lý
thuyết và thực tiễn nghiên cứu khoa học và nó trở thành cơng cụ sắc bén để chỉ
dẫn tất cả các nhà khoa học và các nhà quản lý trong công tác tổ chức, quản lý và
thực hành sáng tạo khoa học. Ngày nay trong thế giới hiện đại, để hồn thành có
chất lượng bất cứ một loại công việc nào, nhà chuyên mơn cũng phải là người
sáng tạo, có ý thức tìm tòi các con đường, các phương pháp tạo động mới. Thiếu
tinh thần sáng tạo khơng có chỗ đứng trong cuộc sống đầy sôi động. Cải tiến

chuyên môn thông qua con đường hoạt động thực tiễn của mình đã góp phần làm
phát triển khoa học và công nghệ. Như vậy, nắm vững phương pháp luận nghiên
cứu khoa học khơng chỉ có nghĩa đối với các nhà nghiên cứu khoa học chuyên
nghiệp, mà cịn đối với các nhà chun mơn trong các lĩnh vực hoạt động thực
tiễn.Tóm lại, phương pháp luận nghiên cứu khoa học là một bộ phận quan trọng
của khoa học. Hoàn thiện phương pháp luận nghiên cứu khoa học là sự tự ý thức
về sự phát triển của bản thân khoa học. Như vậy, nắm vững phương pháp luận

9


nghiên cứu khoa học khơng chỉ có nghĩa đối với các nhà nghiên cứu khoa học
chuyên nghiệp, mà còn đối với các nhà chuyên môn trong các lĩnh vực hoạt động
thực tiễn. Từ mối quan hệ không thể tách rời của hai mặt khách quan và chủ quan
trong các hoạt động của các chủ thể trong xã hội, chúng ta tiếp cận được đến bản
chất của sự vật hiện tượng, hiểu và áp dụng một cách đúng đắn quy luật vận động
và phát triển của sự vật hiện tượng.Thứ nhất, nghiên cứu mối quan hệ biện chứng
giữa khách quan và chủ quan, có thể thấy rằng: Khách quan là nhân tố giữ vai trị
quyết định chủ quan. Do đó, khi áp dụng trong lý luận và thực tiễn, cần phải nắm
vững nguyên tắc khách quan trước. Nguyên tắc này là một vấn đề có ý nghĩa
phương pháp luận đã được các triết gia nghiên cứu nhiều thế kỷ trước. Vì vậy, khi
tư duy hay hành động phải luôn tôn trọng khách quan, xuất phát từ thực tế khách
quan. Đồng thời, các chủ thể cũng phải biết phát huy tính năng động, sáng tạo chủ
quan trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.Thứ hai, khi nghiên cứu vấn đề lý
luận và thực tiễn, cần phải lấy thực tế khách quan làm căn cứ, cần phải tôn trọng
và hành động theo quy luật khách quan. Cùng với đó, chủ thể phải tơn trọng sự
thật, tránh thái độ chủ quan, nóng vội, định kiến, thiếu trung thực. Nhận thức
đúng đắn khách quan là tiền đề xác định mục tiêu, phương hướng, nội dung, biện
pháp phù hợp làm cơ sở cho hoạt động thực tiễn của chủ thể từng bước cải biến
khách quan theo mục đích đặt ra.Thứ ba, trong mối quan hệ biện chứng giữa

khách quan và chủ quan, nhân tố chủ quan ln đóng vai trị mang tính chủ động,
sáng tạo. Do đó, trong nhận thức và thực tiễn, chủ thể phải biết dựa trên cơ sở tôn
trọng khách quan để phát huy cao độ tính năng động chủ quan. Khi tư duy và hoạt
động thực tiễn cần biết phát huy tính năng động chủ quan và đồng thời bao hàm
việc phê phán, đấu tranh khắc phục tư tưởng thụ động, ỷ lại, bó tay, phó mặc
trước khó khăn của hiện thực cuộc sống.Từ những ý nghĩa này ta có thể nhận
thức và hành động đúng đắn hơn trong lý luận và thực tiễn.Do vậy khi áp dụng
mối quan hệ biện chứng khách quan và chủ quan vào lý luận, cần có cái nhìn
khách quan về sự vật hiện tượng, nghiên cứu các mặt khách quan trước rồi dựa
theo tư duy năng động chủ quan của ta để hiểu biết về sự vật hiện tượng. Khi vận
dụng mối quan hệ khách quan và chủ quan vào nghiên cứu lý luận sẽ giúp chủ thể
nghiên cứu đúng đắn, khoa học và chính xác sự vật hiện tượng đó, khơng cịn bị

10


mắc chứng tư duy chủ quan hay chỉ chú tâm nghiên cứu các lý do khách quan bên
ngoài, dù là cách nào mà không nghiên cứu chúng trong mối liên hệ biện chứng
giữa khách quan và chủ quan đều dẫn đến những tri thức sai lầm, thất bại.Mối
quan hệ biện chứng giữa khách quan và chủ quan còn giúp hoạt động thực tiễn trở
lên đúng đắn, ổn định và phát triển. Đối với nhận thức và thực tiễn phương pháp
luận có vai trị chỉ đạo sự tìm kiếm. Xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương
pháp để thực hiện hoạt động nhận thức, thực tiễn, đóng vai trị định hướng trong
q trình tìm tịi, lựa chọn, vận dụng phương pháp.Triết học Mác – Lê nin là hạt
nhân lý luận về vị trí, vai trị của con người trong thế giới đó. Trong đó triết học
giữ vai trị định hướng cho sự củng cố. Đồng thời phát triển thế giới quan của mỗi
cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử. Trang bị thế giới quan chỉ là một khía cạnh
nhỏ của triết học Mác – Lê nin. Phương pháp luận của triết học Mác – Lênin đã
góp phần quan trọng chỉ đạo, định hướng cho con người trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn.TheoV.I.Lênin, chúng ta cần hiểu điều kiện khách quan là những

hồn cảnh khơng phụ thuộc vào ý chí và ý thức, mơ ước và lý thuyết của những
cá nhân này hay khác nhưng lại là cơ sở hoạt động của con người, xác định xu
hướng, tính chất và các nhiệm vụ phát triển xã hội, chế định ý chí và các dự định
của các chủ thể hành động lịch sử, trực tiếp xác định nội dung hoạt động của họ.
Vì vậy, các đường lối, chính sách của Đảng ta ln phải nhận thức được hồn
cảnh kinh tế - xã hội để từ đó có tư duy chỉ đạo đúng đắn giúp đất nước ngày
càng phát triển đi lên theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Hay ngay cả trong
cuộc sống của mỗi chúng ta cũng vậy, xác định được các điều kiện khách quan
giúp ta xác định được hoàn cảnh khách quan của bản thân để tạo dựng ý chí tiến
lên, có góc nhìn đúng đắn và năng động sáng tạo khi đưa ra quyết định. Không
được đổ lỗi lên hiện thực khách quan, mà từ khách quan giúp chúng ta biết phải
tư duy chủ động, sáng tạo như thế nào là phù hợp nhất. Khi nhận thức về bất kỳ
vấn đề nào chúng ta cũng cần đặt nó trong mối tương quan giữa khách quan và
chủ quan.
III. Phân loại phương pháp luận
Phương pháp luận bộ môn (nghành) Phương pháp luận bộ môn hay phương pháp
luận mơn học có cấp độ hẹp nhất. Ở phương pháp này, các nguyên tắc và quan

11


điểm được rút ra từ một lý thuyết khoa học chuyên ngành, nó phải phản ánh được
quy luật của một lĩnh vực cụ thể như triết học, kiểm toán, văn học, toán học,…
Phương pháp luận chung
Phương pháp luận chung nhất: Là phương pháp thể hiện chung nhất để mô tả tổng
quan nhất các nguyên tắc, quan điểm khái quát. Phương pháp này được sử dụng
như cơ sở để xác định phương pháp luận chung và phương pháp luận ngành.
Phương pháp luận chung: Là phương pháp dùng để xác định phương pháp hay
phương pháp luận của nhóm có đối tượng được nghiên cứu chung.
Ví dụ phương pháp luận

Đối với phương pháp luận trong kinh tế học, các nhà kinh tế có thể chấp nhận
những phương pháp luận trong ngành tự nhiên, nhưng thực tiễn xã hội là một hệ
thống mở. Đó có thể là có nhiều biến số can thiệp, hoặc khơng nhất thiết phải
kiểm sốt mọi yếu tố như trong phịng thí nghiệm.Về chủ nghĩa thực chứng, lý
thuyết phải nhất quán với nhau và thể hiện được sự logic của nội dung. Ví dụ một
số phát biểu về phương pháp luận “Khơng gì có thể được chứng minh là ln
ln đúng”:
Chúng ta không bao giờ chắc chắn được rằng mô hình của mình là hồn chỉnh
hoặc đã thiết lập quan hệ nhân quả.
Chúng ta tiến bộ nhờ chứng minh vấn đề là sai bằng cách lặp lại các thử nghiệm
và loại bỏ những vướng mắc khơng có tác dụng.

KẾT LUẬN
Các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất. Từ vận động cơ học đến vận
động xã hội là sự khác nhau về trình độ của sự vận động, những trình độ này
tương ứng với trình độ của các kết cấu vật chất. và trong sự tồn tại của mình, mỗi

12


sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau. Để tạo thuận lợi
cho việc tìm hiểu quan điểm biện chứng về vận động, tác giả của các sách giáo
khoa triết học cần phải đơn giản hóa cách trình bày quan điểm biện chứng về vận
động. Triết học Mác – Lê nin là hạt nhân lý luận về vị trí, vai trị của con người
trong thế giới đó. Trong đó triết học giữ vai trị định hướng cho sự củng cố. Đồng
thời phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử. Trang
bị thế giới quan chỉ là một khía cạnh nhỏ của triết học Mác – Lê nin. Phương
pháp luận của triết học Mác – Lênin đã góp phần quan trọng chỉ đạo, định hướng
cho con người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.


13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tập bài giảng giáo trình triết học Mác-Lênin

14



×