Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Tuyển tập 32 bài nghị luận văn học bồi dưỡng HSG và ôn thi vào lớp 10 THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1001.56 KB, 79 trang )

Tuyển tập 32 bài nghị luận văn học bồi dưỡng HSG và ôn thi vào lớp 10 THPT
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––

Bài số 1. Em hãy phân tích bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.
Bài viết tham khảo:
Ðồng chí là một bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Chính Hữu và của thơ ca Việt Nam hiện
đại. Hễ nói tới thơ Chính Hữu là người ta khơng thể khơng nghĩ đến Ðồng chí.
Bài thơ được sáng tác vào năm 1948, sau chiến dịch Việt Bắc năm 1947, đánh dấu sự
xuất hiện cuả một nhà thơ mới trong thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ lúc đầu
dán ở báo tường đơn vị, sau in vào báo Sự thật, rồi được chép vào sổ tay các cán bộ, chiến sĩ,
được phổ nhạc, trở thành tải sản chung của mọi người.
Ðồng chí là bài thơ ca ngợi một tình cảm mới, quan hệ mới giữa người và người trong
cách mạng và kháng chiến. "Ðồng chí" trong ngơn ngữ sinh hoạt chính trị và đời thường đã
thành tiếng xưng hô quen thuộc, khi lý tưởng cách mạng đồn kết, gắn bó mọi người đã bắt rễ
sâu vào đời sống. Nhưng mấy ai đã cảm nhận được nội dung tình cảm phong phú mới mẻ
chứa đựng trong hai tiếng ấy?
Ðể làm hiện lên nội dung mới lạ trong những từ ngữ quen thuộc, nhà thơ phải dùng phép
"lạ hóa". Khơng phải ngẫu nhiên mà bài thơ bắt đầu từ những cái khác biệt và xa lạ. Ðây là lời
của những người đồng chí tự thấy cái mới lạ của mình:
Q hương anh nước mặn đồng chua
Làng tơi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi hai người xa la
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Mỗi người một quê, đất đai canh tác khác nhau, tập quán, phong tục hẳn là cũng khác.
Miền biển nước mặn, đất phèn. Vùng đồi trung du đất ít hơn sỏi đá. Những con người tự nhận
là xa lạ, cách nhau cả một phương trời và chẳng hẹn hò quen nhau. Ấy thế mà có một sức
mạnh vơ song, vơ hình biến họ thành đôi tri kỷ:
Súng bên súng đầu gác bên đầu
Ðêm rét chung chăn thành đơi tri kỷ.
Ðó là cuộc sống và chiến đấu chung đã làm thay đổi tất cả. Hai dịng thơ chỉ có một chữ
"chung": "Ðêm rét chung chăn", nhưng cái chung đã bao trùm tất cả. "Súng bên súng" là


chung chiến đấu, "đầu sát bên đầu" thì chung rất nhiều: không chỉ là gần nhau về không gian
mà còn chung nhau ý nghĩ, lý tưởng. "Ðêm rét chung chăn" là một hình ảnh thật cảm động và
đầy ắp kỷ niệm. Những người từng kháng chiến ở Việt Bắc hẳn không ai quên cái rét Việt Bắc
và của vùng rừng núi nói chung. Hồi ấy nhà thơ Tố Hữu từng viết: "Rét Thái Nguyên rét về
Yên Thế, Gió qua rừng Ðèo Khế gió sang". Cũng khơng ai qn được cuộc sống chung gắn bó
mọi người: "Bát cơm sẻ nữa, chăn sui đắp cùng". Ðắp chăn chung trở thành biểu tượng của
tình thân hữu, ấm cúng, ruột thịt. Những cái chung ấy đã biến những con người xa lạ "thành
đơi tri kỷ"
Hai chữ "Ðồng chí" đứng riêng thành một dịng thơ là điều rất có ý nghĩa. Nhà thơ hồn
tồn có thể viết thế này: "Ðêm rét chung chăn thành đơi đồng chí". "Ðồng chí" và "tri kỷ" đều
cùng một vần bằng, vần trắc, hai chữ hồn tồn có thể thay thế nhau mà không làm sai vận
luật, mà bài thơ có thể rút ngắn được một dịng. Nhưng nếu viết như thế thì hỏng. Ðêm rét
chung chăn có nghĩa hai chữ "Ðồng chí" rộng lớn vơ cùng. "Tri kỷ" là biết mình và suy rộng
Gmail:

1


Tuyển tập 32 bài nghị luận văn học bồi dưỡng HSG và ôn thi vào lớp 10 THPT
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––

ra là biết về nhau. "Ðồng chí" thì khơng phải chỉ biết nhau, mà cịn phải biết được cái chung
rộng lớn gắn bó con người trên mọi mặt.
Hai chữ "Ðồng chí" đứng thành một dịng thơ đầy sức nặng suy nghĩ. Nó nâng cao ý thơ
đoạn trước và mở ra ý thơ các đoạn sau. "Ðồng chí" là cái có thể cảm nhận mà khơng dễ nói
hết.
Phần hai bài thơ nói đến tình cảm chung của những người đồng chí. Những câu thơ chia
thành "anh, tôi", nhưng giữa họ đều là chung cả. Ðoạn hai của bài thơ được mở đầu bằng
những dòng tâm sự nhớ nhà. Bây giờ họ chia sẻ với nhau những tình cảm quê hương và gia
đình. Ðối với các chàng trai áo nâu ra trận lần đầu nhớ nhà là nỗi niềm thường trực:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà khơng mặc kệ gió lung lay.
Ðối với người nông dân, làm ruộng là quan trọng nhất, những việc ấy đành nhờ bạn thân
làm hộ. Gian nhà tổ ấm cũng đành chịu hy sinh: "mặc kệ gió lung lay". Câu thơ ngang tàng,
đượm chất lãng mạn như muốn nâng đỡ con người vượt lên cái bất đắc dĩ của hồn cảnh. Thử
hỏi ai có thể "mặc kệ" để cho gió làm xiêu đổ nhà mình? Ðó là một thống tếu nhộn làm se
lịng người. Hai dịng thơ đầy ắp nỗi nhớ, mặc dù tới dịng thứ ba thì chữ "nhớ" mới xuất hiện"
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
Người lính trong thơ Chính Hữu đã rất nhớ nhà, nhớ quê nhưng họ thương nhất vẫn là
người ở nhà nhớ họ, dõi theo tn tức của họ, những người ở nơi nguy hiểm. Hình ảnh "giếng
nước" là nơi dân làng gặp gỡ sáng sáng, chiều chiều. "Gốc đa" là nơi dân làng nghỉ ngơi
những khi trưa nắng. Những lúc ấy họ sẽ hỏi thăm những người trai ra trận. Nhưng "giếng
nước, gốc đa" cũng là nơi hò hẹn, tình tự lứa đơi: "Trăm năm dầu lỗi hẹn hị, Cây đa bến cũ
con đò khác đưa". Biết bao là nhớ nhung,hưng người lính khơng nói là mình nhớ, chỉ nói ai
khác nhớ. Ðó cũng là cảnh mình tự vượt lên mình, những dịng thơ nén tình riêng vì sự nghiệp
chung, bằng những lời ý nhị, không một chút ồn ào.
Bảy dịng cuối của đoạn thơ dành nói riêng về nỗi gian khổ. Cái gian khổ của bộ đội
trong buổi đầu kháng chiến đã được nói đến rất nhiều.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.
Trong kháng chiến, ở chiến khu, bệnh sốt rét cơn là phổ biến nhất. Hai câu thơ nêu đủ
các triệu chứng của bệnh sốt rét cơn. Những ai nhiễm bệnh, thoạt đầu cảm thấy ớn lạnh, sau
đó liền cảm thấy lạnh tới lúc người run cầm cập, đắp bao nhiêu chăn cũng khơng hết rét, trong
khi đó thì thân nhiệt lại lên cao tới 40, 41 độ người vã cả mồ hơi, vã vì nóng và vì yếu. Phải
trải qua bệnh này thì mới hiểu hết cái thật của câu thơ. Sau cơn sốt đó là da xanh, da vàng,
viêm gan, viêm lá lách…
Ngoài khổ về bệnh tật là khổ về trang bị. Những ngày đầu kháng chiến, chưa có đủ áo
quần đồng phục phát cho bộ đội. Người lính mang theo áo quần ở nhà đi chiến đấu, khi rách
thì vá víu, có người cịn khơng có kim chỉ để vá, lấy dây mà buộc túm chỗ rách lại, người ta
gọi đùa là "Vá túm", ở đây "anh rách, anh vá" thông cảm cho nhau.

Áo anh rách vai
Quần tơi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Gmail:

2


Tuyển tập 32 bài nghị luận văn học bồi dưỡng HSG và ôn thi vào lớp 10 THPT
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––

Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
"Miệng cười buốt giá" hẳn là cười trong buốt giá, vì áo quần khơng chống được rét, mà
cũng là nụ cười vượt lên trên buốt giá, mặc dù trời lạnh hẳn nụ cười cũng khó mà tươi. Cũng
có thể là nụ cười coi thường gian khổ. Nhà thơ không viết "nụ cười buốt giá" mà viết "Miệng
cười buốt giá" hẳn là vì từ "nụ cười" quá trừu tượng, vả lại, nụ cười ở đây không buốt giá, mà
nhà thơ thì muốn nói một cách cụ thể đến cái miệng với đôi môi nhợt nhạt ấy.
"Chân không giày" cũng là một thực tế phổ biến, và cái nỗi lên là tình thương yêu đồng
đội: "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay", một hình ảnh hết sức ấm áp. Chỉ có năm dịng thơ,
tác giả đã vẽ lên chân dung "anh bộ đội Cụ Hồ" buổi đầu kháng chiến, nghèo khổ, thiếu thốn
nhưng tình đồng chí sưởi ấm lịng họ.
Nếu đoạn một nói về sự hình thành đồng chí, đoạn hai nói về tình cảm hiện đại, thì
đoạn ba nói về hành động chiến đấu của họ:
Ðêm nay rừng hoang sương muối
Ðứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Ðầu súng trăng treo.
Từ nhận thức chung, tình cảm chung, bài thơ kết vào hành động. Thời gian, không gian
trở nên cụ thể, công việc cũng cụ thể, nhưng không vì thế mà sự việc thay thế chất thơ. Câu
kết bài thơ là một hình ảnh nổi tiếng cơ đọng, giàu ý vị: đầu súng trăng treo.

Một hình ảnh bất ngờ. "Súng" và "trăng" là hai vật cách xa nhau trong khơng gian, lại
chẳng có gì chung để liên tưởng. Hình ảnh này chỉ có thể là phát hiện của người lính, súng
lăm lăm trong tay chờ giặc, và bất ngờ thấy mặt trăng treo lửng lơ trên đầu súng. Người không
cầm súng không thể cảm thấy được. Rừng hoang sương muối là rất buốt, những người lính
rách rưới đứng cạnh bên nhau và trăng như cũng đứng chung với người. Trăng là biểu trưng
của trong sáng và mộng mơ. "Ðầu súng" chiến đấu của người đồng chí có thêm mặt trăng đã
mở ra biết bao liên tưởng phong phú. Ðồng thời câu thơ bốn tiếng như cũng nén lại, dồn vào
bên trong, tạo thành cái kết không lời. Ðoạn một và hai toàn những lời tâm sự. Ðoạn cuối lại
là bức tranh cổ điển, hàm súc.
Ðồng chí là bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách cô đọng, kiệm lời của nhà thơ Chính
Hữu.
---------------------------Hết------------------------Bài số 2. Em hãy phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ Đồng chí
của Chính Hữu.
Bài viết tham khảo:
Khơng biết tự bao giờ ánh trăng đã đi vào văn học như một huyền thoại đẹp. Ở truyền
thuyết “Chú cuội cung trăng” hay Hằng Nga trộm thuốc trường sinh là những mảng đời sống
tinh thần bình dị đậm đà màu sắc dân tộc của nhân dân ta. Hơn thế nữa, trăng đã đi vào cuộc
chiến đấu, trăng bảo vệ xóm làng, trăng được nhà thơ Chính Hữu kết tinh thành hình ảnh “đầu
súng trăng treo” rất đẹp trong bài thơ “Đồng chí” của mình.

Gmail:

3


Tuyển tập 32 bài nghị luận văn học bồi dưỡng HSG và ôn thi vào lớp 10 THPT
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––

Sau hơn mười năm làm thơ, Chính Hữu cho ra mắt tập “Đầu súng trăng treo”. Thế mới
biết tác giả đắc ý như thế nào về hình ảnh thật đẹp, thơ mộng, rất thực nhưng khơng thiếu nét

lãng mạn đó.
Đầu súng trăng treo- đó là một hình ảnh tả thực một bức tranh tả thực và sinh động. Giữa
núi rừng heo hút “rừng hoang sương muối” giữa đêm thanh vắng tĩnh mịch bỗng xuất hiện
một ánh trăng treo lơ lửng giữa bầu trời. Và hình ảnh này cũng thật lạ làm sao, súng và trăng
vốn tương phản với nhau, xa cách nhau vời vợi bỗng hồ quyện vào nhau thành một hình
tượng gắn liền. Nhà thơ không phải tả mà chỉ gợi, chỉ đưa hình ảnh nhưng ta liên tưởng nhiều
điều. Đêm thanh vắng người lính bên nhau chờ giặc tới, trăng chếch bóng soi sáng rừng hoang
bao la rộng lớn, soi sáng tình cảm họ, soi sáng tâm hồn họ. Giờ đây, người chiến sĩ như khơng
cịn vướng bận về cảnh chiến đấu sắp diễn ra, anh thả hồn theo trăng, anh say sưa ngắm ánh
trăng toả ngời trên đỉnh núi, tâm hồn người nông dân “nước mặn đồng chua” hay “đất cày trên
sỏi đá” cằn cỗi ngày nào bỗng chốc trở thành người nghệ sĩ đang ngắm nhìn vẻ đẹp ánh trăng
vốn có tự ngàn đời. Phải là một người có tâm hồn giàu lãng mạn và một phong thái ung dung
bình tĩnh lạc quan thì anh mới có thể nhìn một hình ảnh nên thơ như thế. Chút nữa đây khơng
biết ai sống chết, chút nữa đây cũng có thể là giây phút cuối cùng ta còn ở trên đời này nhưng
ta vẫn “mặc kệ”, vẫn say sưa với ánh trăng.
Ánh trăng như xua tan cái lạnh giá của đêm sương muối, trăng toả sáng làm ngời ngời
lòng người, trăng như cùng tham gia, cùng chứng kiến cho tình đồng chí đồng đội thiêng liêng
của những người lính. Trăng truyền thêm sức mạnh cho họ, tắm gội tâm hồn họ thanh cao
hơn, trong sạch hơn, trăng cũng là bạn, là đồng chí của anh bộ đội Cụ Hồ.
Đầu súng trăng treo- hình ảnh thật đẹp và giàu sức khái quát. Súng và trăng kết hợp
nhau; súng tượng trưng cho chiến đấu- trăng là hình ảnh của thanh bình hạnh phúc. Súng là
con người, trăng là đất nước quê hương của bốn nghìn năm văn hiến. Súng là hình ảnh người
chiến sĩ gan dạ kiên cường- Trăng là hình ảnh người thi sĩ. Sự kết hợp hài hoà tạo nên nét lãng
mạn bay bổng vừa gợi tả cụ thể đã nói lên lí tưởng, mục đích chiến đấu mà người lính ấy đang
tham gia. Họ chiến đấu cho sự thanh bình, chiến đấu cho ánh trăng mãi nghiêng cười trên đỉnh
núi. Ta hãy tưởng tượng xem: giữa đêm khuya rừng núi trập trùng bỗng hiện lên hình ảnh
người lính đứng đó với súng khốc trên vai, nịng súng chếch lên trời và ánh trăng lơ lửng
ngay nịng ngọn súng. Đó là biểu tượng Khát Vọng Hồ Bình, nó tượng trưng cho tư thế lạc
quan bình tĩnh, lãng mạn của người bảo vệ Tổ quốc.
Cái thân của câu thơ “Đầu súng trăng treo” nằm ở từ “treo”, ta thử thay bằng từ mọc thì

thật thà q, làm sao cịn nét lãng mạn?. Và hãy thay một lần nữa bằng từ “lên” cũng khơng
phù hợp, vì nó là hiện tượng tự nhiên: trăng trịn rồi khuyết, trăng lên trăng lặn sẽ khơng cịn
cái bất ngờ màu nhiệm nữa. Chỉ có trăng “treo”. Phải, chỉ có “Đầu súng trăng treo” mới diễn
tả hết được cái hay, cái bồng bềnh thơ mộng của một đêm trăng “đứng chờ giặc tới”, chẳng
thơ mộng chút nào. Ta nên hiểu bài thơ dường như được sáng tác ở thời điểm hiện tại “đêm
nay” trong một không gian mà mặt đất là “rừng hoang sương muối” lạnh lẽo và lịng đầy phấp
phỏng giặc sẽ tới có nghĩa là cái chết có thể đến từng giây từng phút. Thế nhưng người lính ấy
vẫn đứng cạnh nhau để tâm hồn họ vút lên nở thành vầng trăng. Nếu miêu tả hiện thực thì
vầng trăng ấy sẽ có hình khối của khơng gian ba chiều. Ở đây, từ điểm nhìn xa, cả vầng trăng
và súng đều tồn tại trên một mặt phẳng và trong hội hoạ nó mang tính biểu tượng cao. Tố Hữu
cũng có một câu thơ kiểu này: “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” và Phạm Tiến Duật thì
“Và vầng trăng vượt lên trên quầng lửa” hay Hồng Hữu “Chỉ một nửa vầng trăng thôi một
nửa. Ai bỏ qn ở phía chân trời…”. Nhưng có lẽ cơ kết nhất, hay nhất vẫn là “Đầu súng
trăng treo”.
Gmail:

4


Tuyển tập 32 bài nghị luận văn học bồi dưỡng HSG và ơn thi vào lớp 10 THPT
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––

Như đã nói ở trên, khơng phải ngẫu nhiên mà Chính Hữu lấy hình ảnh “Đầu súng trăng
treo” làm tựa đề cho tập thơ của mình. Nó là biểu tượng, là khát vọng và cũng là biểu hiện
tuyệt vời chất lãng mạn trong bài thơ cách mạng. Lãng mạng nhưng khơng thốt li, khơng
qn được nhiệm vụ và trách nhiệm của mình. Lãng mạn vì con người cần có những phút
sống cho riêng mình. Trước cái đẹp mà con người trở nên thờ ơ lãnh đạm thì cuộc sống vơ
cùng tẻ nhạt. Âm hưởng của câu thơ đã đi đúng với xu thế lịch sử của dân tộc. Hình ảnh trăng
và súng đã có nhiều trong thơ Việt Nam nhưng chưa có sự kết hợp kì diệu nào bằng hình ảnh
Đầu súng trăng treo của Chính Hữu.

Nếu như Elsa Trioslet – nữ văn sĩ Pháp có nói “Nhà văn là người cho máu” thì tơi hãnh
diện nói với văn sĩ rằng: Chính Hữu đã cho máu để tạo nên câu thơ tuyệt vời để cống hiến cho
cuộc kháng chiến của chúng ta. Và bạn ơi! Bạn hãy thả cùng tôi những chú chim trắng trên
bầu trời, hãy hát vang lên ca khúc Hoà Bình vì hình ảnh đầu súng trăng treo mà nhà thơ đã gởi
vào đó bao nhiêu khát vọng nay đã thành hiện thực.
Phải chăng chất lính đã thấm dần vào chất thi ca, tạo nên dư vị tuyệt vời cho tình "Đồng
chí"!.
Nói đến thơ trước hết là nói đến cảm xúc và sự chân thành. Khơng có cảm xúc, thơ sẽ
khơng thể có sức lay động hồn người, khơng có sự chân thành chút hồn của thơ cũng chìm vào
quên lãng. Một chút chân thành, một chút lãng mạn, một chút âm vang mà Chính Hữu đã gieo
vào lịng người những cảm xúc khó qn. Bài thơ " Đồng chí" với nhịp điệu trầm lắng mà như
ấm áp, tươi vui; với ngơn ngữ bình dị dường như đã trở thành những vần thơ của niềm tin yêu,
sự hy vọng, lòng cảm thông sâu sắc của một nhà thơ cách mạng.
Phải chăng, chất lính đã thấm dần vào chất thơ, sự mộc mạc đã hòa dần vào cái thi vị của
thơ ca tạo nên những vần thơ nhẹ nhàng và đầy cảm xúc?
Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương nhiên,hình
ảnh những người lính, những anh bộ đội sẽ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành
niềm tin yêu và hy vọng của cả dân tộc. Mở đầu bài thơ "Đồng chí", Chính Hữu đã nhìn nhận,
đã đi sâu vào cả xuất thân của những người lính:
"Quê hương anh đất mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"
Sinh ra ở một đất nước vốn có truyền thống nơng nghiệp, họ vốn là những người nơng
dân mặc áo lính theo bước chân anh hùng của những nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa. Đất nước
bị kẻ thù xâm lược, Tổ quốc và nhân dân đứng dưới một trịng áp bức. "Anh" và "tơi", hai
người bạn mới quen, đều xuất than từ những vùng quê nghèo khó. Hai câu thơ vừa như đối
nhau, vừa như song hành, thể hiện tình cảm của những người lính. Từ những vùng quê nghèo
khổ ấy, họp tạm biệt người thân, tạm biệt xóm làng, tạm biệt những bãi mía, bờ dâu, những
thảm cỏ xanh mướt màu, họ ra đi chiến đấu để tìm lại, giành lại linh hồn cho Tổ quốc. Những
khó khăn ấy dường như khơng thể làm cho những người lính chùn bước:
"Anh với tơi đơi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ"
Họ đến với Cách mạng cũng vì lý tưởng muốn dâng hiến cho đời. "Sống là cho đâu chỉ
nhận riêng mình". Chung một khát vọng, chung một lý tưởng, chung một niềm tin và khi
Gmail:

5


Tuyển tập 32 bài nghị luận văn học bồi dưỡng HSG và ôn thi vào lớp 10 THPT
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––

chiến đấu, họ lại kề vai sát cánh chung một chiến hào....Dường như tình đồng đội cũng xuất
phát từ những cái chung nhỏ bé ấy. Lời thơ như nhanh hơn, nhịp thơ dồn dập hơn, câu thơ
cũng trở nên gần gũi hơn:
"Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí !..."
Một loạt từ ngữ liệt kê với nghệ thuật điệp ngữ tài tình, nhà thơ khơng chỉ dưa bài thơ
lên tận cùng của tình cảm mà sự ngắt nhịp đột ngột, âm điệu hơi trầm và cái âm vang lạ lùng
cũng làm cho tình đồng chí đẹp hơn, cao quý hơn. Câu thơ chỉ có hai tiếng nhưng âm điệu lạ
lùng đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm, thân thương trong lịng người đọc. Trong mn vàn nốt
nhạc của tình cảm con người phải chăng tình đồng chí là cái cung bậc cao đẹp nhất, lí tưởng
nhất. Nhịp thở của bài thơ như nhẹ nhàng hơn, hơi thở của bài thơ cũng như mảnh mai hơn..
Dường như Chính Hữu đã thổi vào linh hồn của bài thơ tình đồng chí keo sơn, gắn bó và một
âm vang bất diệt làm cho bài thơ mãi trở thành một phần đẹp nhất trong thơ Chính Hữu.
Hồi ức của những người lính, những kỉ niệm riêng tư quả là bất tận:
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay"

Cái chất nơng dân thuần phác của những anh lính mới đáng quý làm sao! Đối với những
người nông dân, ruộng nương, nhà cửa là những thứ quý giá nhất. Họ sống nhờ vào đồng
ruộng, họ lớn lên theo câu hát ầu ơ của bà của mẹ. Họ lớn lên trong những "gian nhà không
mặc kẹ gió lung lay". Tuy thế, họ vẫn yêu, yêu lắm chứ những mảnh đất thân quen, những mái
nhà thân thuộc....Nhưng...họ đã vượt qua chân trời của cái tôi bé nhỏ để đến với chân trời của
tất cả. Đi theo con đường ấy là đi theo khát vọng, đi theo tiếng gọi yêu thương của trái tim yêu
nước. Bỏ lại sau lưng tất cả nhưng bóng hình của q hương vẫn trở thành nỗi nhớ khơn ngi
của mỗi người lính. Dẫu rằng" mặc kệ" nhưng trong lịng họ vị trí của quê hương vẫn bao
trùm như muốn ôm ấp tất cả mọi kỉ niệm. Không liệt kê, cũng chẳng phải lối đảo ngữ thường
thấy trong thơ văn, nhưng hai câu thơ cũng đủ sức lay đọng hồn thơ, hồn người:
"Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính"
Sự nhớ mong chờ đợi của quê hương với những chàng trai ra đi tạo cho hồn quê có sức
sống mãnh liệt hơn. Nhà thơ nhân hóa"giếng nước gốc đa" cũng có nỗi nhớ khơn ngi với
những người lính. Nhưng khơng kể những vật vơ tri, tác giả cịn sử dụng nghệ thuật hốn dụ
để nói lên nỗi nhớ của những người ở nhà, nỗi ngóng trơng của người mẹ đối với con, những
người vợ đối với chồng và những đôi trai gái yêu nhau....
Bỏ lại nỗi nhớ, niềm thương, rời xa quê hương những người lính chiến đấu trong gian
khổ:
"Anh với tơi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần anh có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày"
Gmail:

6


Tuyển tập 32 bài nghị luận văn học bồi dưỡng HSG và ôn thi vào lớp 10 THPT

––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––

Câu thơ chầm chậm vang lên nhưng lại đứt quãng, phải chăng sự khó khăn, vất vả, thiếu
thốn của những người lính đã làm cho nhịp thơ Chính Hữu sâu lắng hơn. Đất nước ta cịn
nghèo, những người lính cịn thiếu thốn qn trang, quân dụng, phải đối mặt với sốt rét rừng,
cái lạnh giá của màn đêm.....Chỉ đôi mảnh quần vá, cái áo rách vai, người lính vẫn vững lịng
theo kháng chiến, mặc dù nụ cười ấy là nụ cười giá buốt, lặng câm. Tình đồng đội quả thật
càng trong gian khổ lại càng tỏa sáng, nó gần gũi mà chân thực, khơng giả dối, cao xa....Tình
cảm ấy lan tỏa trong lịng của tất cả những người lính. Tình đồng chí:
"Là hớp nước uống chung, nắm cơm bẻ nửa
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà
Chia nhau đứng trong chiến hào chặt hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết"
( Nhớ- Hồng Nguyên)
Một nụ cười lạc quan, một niềm tin tất thắng, một tình cảm chân thành đã được Chính
Hữu cơ lại chỉ với nụ cười - biểu tượng của người lính khi chiến đấu, trong hịa bình cũng như
khi xây dựng Tổ quốc, một nụ cười ngạo nghễ, yêu thương, một nụ cười lạc quan chiến thắng.
"Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới"
Nhịp thơ đều đều 2/2/2 - 2/2/3 cô đọng tất cả nét đẹp của những người lính. Đó cũng
chính là vẻ đẹp ngời sáng trong gian khổ của người lính. Vượt lên trên tất cả, tình đồng đội,
đồng chí như được sưởi ấm bằng những trái tim người lính đầy nhiệt huyết. Vẫn đứng canh
giữ cho bầu trời Việt Nam dù đêm đã khuya, sương đã xuống, màn đêm cũng chìm vào quên
lãng. Hình ảnh người lính bỗng trở nên đẹp hơn, thơ mộng hơn. Đứng cạnh bên nhau sẵn sàng
chiến đấu. Xen vào cái chân thực của cả bài thơ, câu thơ cuối cùng vẫn trở nên rất nên thơ:
" Đầu súng trăng treo"
Ánh trăng gần như gắn liền với người lính:
"Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ"

( Ánh trăng- Nguyễn Duy)
Một hình ảnh nên thơ, lãng mạn nhưng cũng đậm chất chân thực, trữ tình. Một sự
quyện hịa giữa khơng gian, thời gian, ánh trăng và người lính. Cái thực đan xen vào cái
mộng, cái dũng khí chiến đấu đan xen vào tình u làm cho biểu tượng người lính khơng
những chân thực mà cịn rực rỡ đến lạ kì. Chất lính hịa vào chất thơ, chất trữ tình hịa vào
chất cách mạng, chất thép hòa vào chất thi ca. Độ rung động và xao xuyến của cả bài thơ có lẽ
chỉ nhờ vào hình ảnh ánh trăng này. Tình đồng chí cũng thế, lan tỏa trong không gian, xoa dịu
nỗi nhớ, làm vơi đi cái giá lạnh của màn đêm. Người chiến sĩ như cất cao tiếng hát ngợi ca
tình đồng chí. Thiêng liêng biết nhường nào, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội cụ
Hồ sát cạnh vai nhau " kề vai sát cánh" cùng chiến hào đấu tranh giành độc lập.
Quả thật, một bài thơ là một xúc cảm thiêng liêng, là một tình yêu rộng lớn, trong cái
lớn lao nhất của đời người. Gặp nhau trên cùng một con đường Cách mạng, tình đồng chí như
được thắt chặt hơn bằng một sợi dây u thương vơ hình.
Gmail:

7


Tuyển tập 32 bài nghị luận văn học bồi dưỡng HSG và ôn thi vào lớp 10 THPT
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––

Bài thơ " Đồng chí" với ngơn ngữ chân thực, hình ảnh lãng mạn, nụ cười ngạo nghễ
của các chiến sĩ đã lay động biết bao trái tim con người. Tình đồng chí ấy có lẽ sẽ sống mãi
với quê hương, với Tổ quốc, với thế hệ hôm nay, ngày mai hay mãi mãi về sau.
----------------------Hết----------------------Bài số 3. Trong bài “Tiếng nói văn nghệ”, Nguyễn Đình Thi có viết: "Một bài thơ
hay khơng bao giờ ta đọc qua một lần mà bỏ xuống được. Ta sẽ dừng tay trên trang giấy
đáng lẽ lật đi và đọc lại bài thơ. Tất cả tâm hồn chúng ta đọc…”. Em hiểu ý kiến trên như
thế nào ? Hãy chứng tỏ rằng bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu là “Một bài thơ hay” như
thế?
Bài viết tham khảo:

Từ thuở thơ ca xuất hiện mang đến hơi thở ấm áp cho hành tinh xanh xanh những đại
dương và điệp trùng những cánh rừng tươi thắm của chúng ta, có thể nói chưa bao giờ tổng
kết được những định nghĩa về thơ. Có người cho thơ là "tơ lơ mơ", "thơ là sự tn trào bột
phát những tình cảm mãnh liệt", thậm chí "thơ là một cái gì mà người ta khơng định nghĩa
được". Phải chăng vì thế mà thơ thuộc một cõi huyền nhiệm, mông lung xa vời vợi? Khơng ,
thơ ca chính bắt nguồn từ những lần ta vơ tình mở lướt qua một bài thơ rồi ta nhận thấy như có
mình trong đó. Và phải chăng thơ ở đây như trong ý kiến của Nguyễn Đình Thi " một bài thơ
hay không bao bao giờ ta đọc qua một lần mà bỏ xuống được. ta sẽ dừng tay trên trang giấy
đáng lẽ lật đi, và đọc lại bài thơ. Tất cả tâm hồn chúng ta đọc khơng phải chỉ có tri thức, cho
đến 1 câu thơ kia người đọc nghe thì thầm mãi trong lịng, mắt không rời khỏi trang giấy". Bài
thơ khiến cho tôi mắt khơng rời trang giấy, tim như hịa cùng nhịp thở của ngày ấy - những
năm tháng kháng chiến chống Pháp ác liệt trong hơi thở và xúc cảm từ "Đồng chí" của Chính
Hữu.
Một chút chân thành, một chút lãng mạn, một chút âm vang mà Chính Hữu đã gieo vào
lịng người những cảm xúc khó qn. Bài thơ "Đồng chí" với nhịp điệu trầm lắng mà như ấm
áp, tươi vui; với ngơn ngữ bình dị dường như đã trở thành những vần thơ của niềm tin yêu, sự
hy vọng, lòng cảm thông sâu sắc của một nhà thơ cách mạngBài thơ được sáng tác vào năm
1948, sau chiến dịch Việt Bắc năm 1947, đánh dấu sự xuất hiện cuả một nhà thơ mới trong
thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ lúc đầu dán ở báo tường đơn vị, sau in vào báo
Sự thật, rồi được chép vào sổ tay các cán bộ, chiến sĩ, được phổ nhạc, trở thành tải sản chung
của mọi người.
Hai câu thơ đầu cấu trúc song hành, đối xứng làm hiện lên hai "gương mặt" người chiến
sĩ rất trẻ, như đang tâm sự cùng nhau. Giọng điệu tâm tình của một tình bạn thân thiết:
"Quê hương anh nước mặn, đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá".
Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khổ, là nơi "nước mặn, đồng chua", là xứ sở "đất
cày lên sỏi đá". Mượn tục ngữ, thành ngữ để nói về làng q, nơi chơn nhau cắt rốn thân u
của mình, Chính Hữu đã làm cho lời thơ bình dị, chất thơ mộc mạc, đáng yêu như tâm hồn
người trai cày ra trận đánh giặc. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc làm
nên tình bạn, tình đồng chí sau này.

-Năm câu thơ tiếp theo nói lên một q trình thương mến: từ "đôi người xa lạ" rồi "thành
đôi tri kỉ", về sau kết thành "đồng chí". Câu thơ biến hóa, 7, 8 từ rồi rút lại, nén xuống 2 từ,
cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại. Những ngày đầu đứng dưới lá quân kì: "Anh với
Gmail:

8


Tuyển tập 32 bài nghị luận văn học bồi dưỡng HSG và ôn thi vào lớp 10 THPT
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––

tôi đôi người xa lạ - Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau". Đơi bạn gắn bó với nhau bằng bao
kỉ niệm đẹp:
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đơi tri kỉ
Đồng chí!"
"Súng bên súng" là cách nói hàm súc, hình tượng: cùng chung lí tưởng chiến đấu; "anh
với tôi" cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương, vì độc lập, tự do và sự sống cịn
của dân tộc. "Đầu sát bên đầu" là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bạn tâm giao. Câu
thơ "Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ" là câu thơ hay và cảm động, đầy ắp kỉ niệm một thời
gian khổ. Chia ngọt sẻ bùi mới "thành đôi tri kỉ". "Đôi tri kỉ" là đôi bạn rất thân, biết bạn như
biết mình. Bạn chiến đấu thành tri kỉ, về sau trở thành đồng chí ! Câu thơ 7, 8 từ đột ngột rút
ngắn lại hai từ "đồng chí !" diễn tả niềm tự hào xúc động ngân nga mãi trong lòng. Xúc động
khi nghĩ về một tình bạn đẹp. Tự hào về mối tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lí
tưởng chiến đấu của những người binh nhì vốn là những trai cày giàu lòng yêu nước ra trận
đánh giặc. Các từ ngữ được sử dụng làm vị ngữ trong vần thơ: bên, sát, chung, thành - đã thể
hiện sự gắn bó thiết tha của tình tri kỉ, tình đồng chí. Cái tấm chăn mỏng mà ấm áp tình tri kỉ,
tình đồng chí ấy mãi mãi là kỉ niệm đẹp của người lính, khơng bao giờ có thể qn:
"Ơi núi thẳm rừng sâu
Trung đội cũ về đâu

Biết chăng chiều mưa mau
Nơi đây chăn giá ngắt
Nhớ cái rét ban đầu
Thấm mối tình Việt Bắc..."
("Chiều mưa đường số 5" - Thâm Tâm)
-Ba câu thơ tiếp theo nói lên hai người đồng chí cùng chung một nỗi nhớ: Nhớ ruộng
nương, nhớ bạn thân cày, nhớ gian nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Hình ảnh nào cũng thắm thiết
một tình quê vơi đầy:
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà khơng mặc kệ gió lung lay,
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính".
Giếng nước gốc đa là hình ảnh thân thương của làng quê được nói nhiều trong ca dao
xưa: "Cây đa cũ, bến đò xưa... Gốc đa, giếng nước, sân đình...", được Chính Hữu vận dụng,
đưa vào thơ rất đậm đà, nói ít mà gợi nhiều, thấm thía. Gian nhà, giếng nước, gốc đa được
nhân hóa, đang đêm ngày dõi theo bóng hình anh trai cày ra trận? Hay "người ra lính" vẫn
đêm ngày ơm ấp hình bóng quê hương ? Có cả 2 nỗi nhớ ở cả hai phía chân trời. Tình u q
hương đã góp phần hình thành tình đồng chí, làm nên sức mạnh tinh thần để người lính vượt
qua mọi thử thách gian lao, ác liệt thời máu lửa. Cũng nói về nỗi nhớ ấy, trong bài thơ "Bao
giờ trở lại", Hoàng Trung Thơng viết:
"Bấm tay tính buổi anh đi,
Mẹ thường vẫn nhắc: biết khi nào về ?
Lúa xanh xanh ngắt chân đê,
Gmail:

9


Tuyển tập 32 bài nghị luận văn học bồi dưỡng HSG và ôn thi vào lớp 10 THPT
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––


Anh đi là để giữ quê quán mình.
Cây đa bến nước sân đình,
Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường.
Hoa cau thơm ngát đầu nương,
Anh đi là giữ tình thương dạt dào.
(...) Anh đi chín đợi mười chờ,
Tin thường thắng trận, bao giờ về anh ?"
-Bảy câu thơ tiếp theo ngồn ngộn những chi tiết rất thực phản ánh hiện thực kháng chiến
buổi đầu. Sau 80 năm bị thực dân Pháp thống trị, nhân dân ta đã quật khởi đứng lên giành lại
non sông. Rồi với gậy tầm vông, với giáo mác,... nhân dân ta phải chống lại xe tăng, đại bác
của giặc Pháp xâm lược. Những ngày đầu kháng chiến, quân và dân ta trải qua mn vàn khó
khăn: thiếu vũ khí, thiếu quân trang, thiếu lương thực, thuốc men,... Người lính ra trận "áo vải
chân không đi lùng giặc đánh", áo quần rách tả tơi, ốm đau bệnh tật, sốt rét rừng:
"Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi":
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lanh,
Sốt run người vừng trán ướt mồ hồi.
áo anh rách vai
Quần tơi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày..."
Chữ "biết" trong đoạn thơ này nghĩa là nếm trải, cùng chung chịu gian nan thử thách.
Các chữ: "anh với tôi", "áo anh... quần tôi" xuất hiện trong đoạn thơ như một sự kết dính, gắn
bó keo sơn tình đồng chí thắm thiết cao đẹp. Câu thơ 4 tiếng cấu trúc tương phản: "Miệng
cười buốt giá" thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan của hai chiến sĩ, hai đồng chí. Đoạn thơ
được viết dưới hình thức liệt kê, cảm xúc từ dồn nén bỗng ào lên: "Thương nhau tay nắm lấy
bàn tay". Tình thương đồng đội được biểu hiện bằng cử chỉ thân thiết, yêu thương: "tay nắm
lấy bàn tay". Anh nắm lấy tay tôi, tôi nắm lấy bàn tay anh, để động viên nhau, truyền cho nhau
tình thương và sức mạnh, để vượt qua mọi thử thách, "đi tới và làm nên thắng trận".
Đến cuối bài thơ , tim ta như ngừng lại trước tình cảm cao đẹp của những người chiến sĩ , ta
mới hiểu thêm biết bao điều về chiến tranh. Chiến tranh không hề bi lụy , không hề đau

thương bởi những nhà thơ - người chiến sĩ như Chính Hữu đã khắc họa rõ nét những điều thật
đẹp mà không nơi nào có ngồi những chiến trường, những mặt trận ác liệt
Phần cuối bài thơ ghi lại cảnh hai người chiến sĩ - hai đồng chí trong chiến đấu. Họ cùng
"đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới". Cảnh tượng chiến trường là "rừng hoang sương muối",
một đêm đông vô cùng lạnh lẽo hoang vu giữa núi rừng chiến khu. Trong gian khổ ác liệt,
trong căng thẳng "chờ giặc tới", hai chiến sĩ vẫn "đứng cạnh bên nhau", vào sinh ra tử có
nhau. Đó là một đêm trăng trên chiến khu. Một tứ thơ đẹp bất ngờ xuất hiện:
"Đầu súng trăng treo".
Người chiến sĩ trên đường ra trận thì "ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan". Người lính đi
phục kích giặc giữa một đêm đơng "rừng hoang sương muối" thì có "đầu súng trăng treo".
Cảnh vừa thực vừa mộng. Về khuya trăng tà, trăng lơ lửng trên không như đang treo vào đầu
Gmail:

10


Tuyển tập 32 bài nghị luận văn học bồi dưỡng HSG và ôn thi vào lớp 10 THPT
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––

súng. Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp đất nước thanh bình. Súng mang ý nghĩa cuộc
chiến đấu gian khổ hi sinh. "Đầu súng trăng treo" là một hình ảnh thơ mộng, nói lên trong
chiến đấu gian khổ, anh bộ đội vẫn u đời, tình đồng chí thêm keo sơn gắn bó, họ cùng mơ
ước một ngày mai đất nước thanh bình. Hình ảnh "Đầu súng trăng treo" là một sáng tạo thi ca
mang vẻ đẹp lãng mạn của thơ ca kháng chiến, đã được Chính Hữu lấy nó đặt tên cho tập thơ đóa hoa đầu mùa của mình. Trăng Việt Bắc, trăng giữa núi ngàn chiến khu, trăng trên bầu trời,
trăng tỏa trong màn sương mờ huyền ảo. Mượn trăng để tả cái vắng lặng của chiến trường, để
tô đậm cái tư thế trầm tĩnh "chờ giặc tới". Mọi gian nan căng thẳng của trận đánh sẽ diễn ra
đang nhường chỗ cho vẻ đẹp huyền diệu, thơ mộng của vầng trăng, và chính đó cũng là vẻ đẹp
cao cả thiêng liêng của tình đồng chí, tình chiến đấu.
Bài thơ "Đồng chí" vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị khi nói về đời sống vật chất của
người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng khi nói về đời sống tâm

hồn, về tình đồng chí của các anh - người lính binh nhì buổi đầu kháng chiến.
Ngôn ngữ thơ hàm súc, mộc mạc như tiếng nói của người lính trong tâm sự, tâm tình. Tục
ngữ, thành ngữ, ca dao được Chính Hữu vận dụng rất linh hoạt, tạo nên chất thơ dung dị, hồn
nhiên, đậm đà. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn chung đúc nên hồn
thơ chiến sĩ.
Ý kiến về thơ của Nguyễn Đình Thi quả thật xác đáng cho ta suy nghĩ và nghiền ngẫm.
Thơ đâu phải quả bóng bay xa vời vợi nằm ngồi tầm bắt, Thơ ca luôn nồng nàn ấm áp hơi thở
cuộc đời và mang dấu ấn sáng tạo nghệ thuật của người cầm bút. Thơ là dịng sơng soi bóng
cuộc đời và len vào tâm hồn con người những mạch ngầm cảm xúc dạt dào chảy mãi khơng
thơi. "Đồng chí" là một bài thơ như thế, Chính Hữu đã biết cách thổi vào thơ ca một cái gì đó
man mác, nhẹ dịu với những vần thơ kháng chiến mở ra cánh hoa thơm ngát tơ điểm cho dịng
thơ văn cách mạng. Tơi yêu những vần thơ ấy bởi tôi đã nhận ra được hương vị của cuộc đời,
"chất người" ủ kín bên trong và tôi sẽ đọc đi ,đọc lại ..... rồi lại dừng lại để chiêm nghiệm.
Thật đáng yêu biết bao những vần thơ như thế.
---------------------------Hết------------------------Bài số 4.

Phân tích đoạn thơ sau:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
Súng bền vững, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đơi tri kỉ.
Đồng chí!

(Đồng chí - Chính Hữu, Ngữ văn 9, Tập một, NXB Giáo dục, 2019, tr.128)
Bài viết tham khảo:
Bài thơ “Đồng chí” là một trong những bài thơ hay nhất về tình đồng đội, đồng chí của
các anh bộ đội cụ Hồ trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Với cảm nhận tinh tế, tác giả
Chính Hữu – một nhà thơ, chiến sĩ đã xúc động mà sáng tác ra bài thơ. Tình đồng chí đồng đội

sâu nặng dù trong hồn cảnh khó khăn và thiếu thốn được thể hiện rõ nhất trong 7 câu thơ đầu
cảu bài thơ.

Gmail:

11


Tuyển tập 32 bài nghị luận văn học bồi dưỡng HSG và ôn thi vào lớp 10 THPT
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––

Mở đầu đoạn thơ là tác giả đã miêu tả rõ nét nguồn gốc xuất thân của những người lính
cách mạng trong kháng chiến chống Pháp:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Họ là những người xuất thân từ nơng dân, hình ảnh đó được tác giả mô tả rất chân thực,
giản dị mà đầy cao đẹp.Với giọng điệu thủ thỉ, tâm tình như đang kể chuyện, giới thiệu về quê
hương của anh và tôi. Họ đều là những người con của vùng quê nghèo khó, nơi “nước mặn
đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Dù cuộc sống nơi q nhà cịn nhiều khó khăn, đói nghèo
nhưng vì tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà họ sẵn sàng tham gia chiến đấu bảo vệ đất
nước. Đó là sự đồng cảnh ngộ, là niềm đồng cảm sâu sắc giữa những người lính ngày đầu gặp
mặt.
“Anh với tơi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Mỗi người một quê hương, một miền đất khác nhau, họ là những người xa lạ của nhau
nhưng họ đã về đây đứng chung hàng ngũ, có cùng lí tưởng và mục đích chiến đấu bảo vệ Tổ
quốc. Tình đồng chí đã nảy nở và bền chặt trong sự chan hòa, chia sẻ những gian khổ của cuộc
sống chiến trường, tác giả đã sử dụng một hình ảnh rất cụ thể, giản dị và gợi cảm để nói lên
tình gắn bó đó:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đơi tri kỉ”
Hồn cảnh chiến đấu nơi khu rừng Việt Bắc quá khắc nghiệt, đêm trong rừng rét đến
thấu xương.Cái chăn quá nhỏ, loay hoay mãi cũng không đủ ấm, chính từ hồn cảnh khó khăn,
thiếu thốn ấy họ đã trở thành tri kỉ với nhau. Những vất vả, khắc nghiệt và nguy nan đã gắn
kết họ lại với nhau, khiến cho những người đồng chí trở thành người bạn tâm giao gắn bó.
Chính tác giả cũng đã từng là một người lính, nên câu thơ đã chan chứa, tràn đầy tình cảm trìu
mến sâu nặng với đồng đội.
Câu thơ cuối cùng, chỉ 2 tiếng đơn giản “Đồng chí” được đặt riêng, tuy ngắn gọn nhưng
ngân vang, thiêng liêng. Tình đồng chí khơng chỉ là chung chí hướng, cùng mục đích mà hơn
hết đó là tình tri kỉ đã được đúc kết qua bao gian khổ, khó khăn. Chẳng cịn sự ngăn cách giữa
những người đồng chí, họ đã trở thành một khối thống nhất, đoàn kết và gắn bó.
Chỉ với bảy câu thơ đầu của bài “Đồng chí”, Chính Hữu đã sử dụng những hình ảnh chân
thực, gợi tả và khái quát cao đã thể hiện được một tình đồng chí chân thực, khơng phơ trương
nhưng lại vơ cùng lãng mạn và thi vị. Tác giả đã thổi hồn vào bài thơ tình đồng chí tri kỉ, keo
sơn và gắn bó, trở thành một âm vang bất diệt trong tâm hồn những người lính cũng như con
người Việt Nam.
---------------------------Hết------------------------Bài số 5. Em hãy phân tích bài thơ “Đồn thuyền đánh cá” của Huy Cận.
Bài viết tham khảo:
Nhà thơ Huy Cận đã từng gọi bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (1958) của mình là "khúc
tráng ca". Quả đúng như vậy, bài thơ là khúc tráng ca ca ngợi vẻ đẹp khoẻ khoắn của con người lao động trong sự hài hoà với vẻ đẹp tráng lệ của thiên nhiên kì vĩ. Khơng cịn thấy dấu vết
Gmail:

12


Tuyển tập 32 bài nghị luận văn học bồi dưỡng HSG và ôn thi vào lớp 10 THPT
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––

của một "nỗi buồn thế hệ" cô đơn, li tán đã từng dằng dặc, triền miên trong thơ ông hồi trớc
Cách mạng tháng Tám. Đây là cảnh sông nước trong Tràng giang - một trong những bài thơ

tiêu biểu của Huy Cận giai đoạn ấy:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xi mái nước song song
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khơ lạc mấy dịng.
Cịn đây:
Mặt trời xuống biển như hịn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đồn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đồn thoi
Đêm ngày dệt biển mn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đồn cá ơi!
Đó là sự khác nhau của hai nguồn sống, ở hai giai đoạn sống của một tâm hồn. Đồn
thuyền đánh cá là hình ảnh của cuộc sống mới, cuộc sống mà người ta tìm thấy niềm tin vui
bất diệt trong lao động.
Bài thơ miêu tả trọn vẹn một đêm lao động trên biển của đoàn thuyền đánh cá. Hai khổ
thơ đầu là cảnh ra khơi. Khung cảnh thiên nhiên được phác hoạ ít nét mà vẫn cho ta cảm nhận
được vẻ chắc nịch, thấm đậm không khí khẩn trương của một buổi xuất bến ra khơi. Hai câu
thơ đầu gợi tả sự vận động của thời gian, mặt trời xuống biển, những con sóng gợn những nét
ngang luân chuyển qua lại như then cửa và mặt trời xuống đến đâu, cánh cửa đêm như được
kéo xuống đến đó. Khi những ánh sáng mặt trời tắt hẳn cũng là lúc "sóng đã cài then", "đêm
sập cửa". Đúng thời điểm ấy, trong không gian của một đêm đã bắt đầu ấy, thênh thênh vút
lên, bừng sáng tiếng hát của người dân. Khơng phải ánh sáng tốt lên từ cánh buồm trắng
trong một buổi mai nh ở Quê hương của Tế Hanh:
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
(...)
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió...
Mà là ánh sáng của thanh âm, của khúc hát lãng mạn cất lên từ lịng tin, tình u lao động,
của sắc cá bạc đan dệt thành. Những vần trắc trong khổ thơ đầu (lửa, cửa, khơi, khơi) hoà điệu
cùng khúc hát, rất có giá trị trong việc gợi tả vẻ thoáng đạt, sáng láng ấy. Một cách tự nhiên,
những vần thơ mở đầu hút người đọc vào khơng khí lao động của người dân lúc nào không
hay.
Gmail:

13


Tuyển tập 32 bài nghị luận văn học bồi dưỡng HSG và ôn thi vào lớp 10 THPT
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––

Bốn khổ thơ tiếp theo là cảnh lao động trên biển đêm. Những khổ thơ này tập trung nhiều
hình ảnh tráng lệ, vẻ tráng lệ đã được gợi ra từ đầu bài thơ với hình ảnh "Mặt trời... như hịn
lửa". Đến đây, cảnh đánh cá đêm trên biển đợc miêu tả hết sức sinh động. Đó là những động
từ mạnh mẽ (lái gió, lướt, dàn đan, quẫy, kéo xoăn tay,...), là những hình ảnh gợi tả cái kì vĩ,
lớn lao (mây cao, biển bằng, dặm xa, bụng biển, thế trận, vây giăng, đêm thở), là những sắc
màu lộng lẫy, rực rỡ như trẩy hội, và cả những nét thơ mộng, bay bổng (buồm trăng, lấp lánh
đuốc đen hồng, trăng vàng choé, sao lùa, vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông, nắng hồng,...). Vẻ
đẹp của biển trời hoà quyện với vẻ đẹp của con người lao động dệt lên bức tranh tráng lệ, rạo
rực sức sống, rạng rỡ vẻ đẹp giàu say lòng ngời. Có lẽ khơng ở đâu lại có được cái nguồn sống
bất tận diệu kì của biển Đơng hơn ở những câu thơ này:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé,
Đêm thở: sao lùa nớc Hạ Long.
Chỉ một hình ảnh "Đêm thở" mà ta như thấy cả màn đêm phập phồng, thấy cả gió, cả sóng
nước. Theo nhịp thở của vũ trụ, ngàn con sóng dồn đuổi ánh lên những đợt vàng sáng lấp lánh

của vẩy cá phản chiếu ánh trăng, của sao... Thật huyền diệu!
Cá đã đầy khoang, lấp lố trong ánh rạng đơng cũng là lúc đồn thuyền kết thúc một đêm
lao động. Buồm lại căng lên đón ánh nắng sớm. Khổ thơ cuối là cảnh trở về của đồn thuyền
đánh cá:
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đồn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hồng mn dặm phơi
Lại một sự hoà quyện tuyệt vời giữa thiên nhiên và con người. Vẻ đẹp của bài thơ bừng
lên trong ánh sáng huy hoàng, ánh sáng của mặt trời, ánh sáng của sức lao động đã thành
thành quả, của niềm vui lao động chân chính.
Nhìn lại tồn bộ bức tranh mà tác giả đã miêu tả trong bài thơ, ta càng thấy rõ hình ảnh
con người vừa làm chủ tự nhiên (Ra đậu dặm xa dò bụng biển - Dàn đan thế trận lưới vây
giăng), vừa phơ vẻ đẹp hồ quyện cùng thiên nhiên (Thuyền ta lái gió với buồm trăng - Lướt
giữa mây cao với biển bằng; Câu hát căng buồm với gió khơi, Đồn thuyền chạy đua cùng
mặt trời). Trong sự hài hoà ấy, vũ trụ cũng được cảm nhận với sự vận động theo nhịp sống của
con người: Ta hát bài ca gọi cá vào, Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Bài thơ là khúc ca sảng khoái của người lao động đánh cá, thể hiện niềm phấn khởi
trước những thành quả lao động của mình. Hình ảnh con người hiện lên trong bài thơ là hình
ảnh conngười mới làm chủ thiên nhiên, nhiệt tình lao động sản xuất để làm giàu cho tổ quốc,
gắn với biển cả quê hương.
--------------------Hết---------------------

Gmail:

14


Tuyển tập 32 bài nghị luận văn học bồi dưỡng HSG và ôn thi vào lớp 10 THPT
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––


Bài số 6. Phân tích cảnh ra khơi của” Đồn thuyền đánh cá” được miêu tả trong bốn
câu đầu trong bài thơ “ Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận:
”Mặt trời xuống biển như hịn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đồn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Bài viết tham khảo:
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là bài thơ được Huy Cận sáng tác vào năm 1958, nhân
một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hồng Gia - Cẩn Phả - Quảng Ninh. Bài thơ đã dụng được
một khơng khí khẩn trương, hăng say của những người lao động đánh cá trong một đêm trên
biển, với tư thế làm chủ thiên nhiên, biển cả. Bốn câu thơ đầu diển tả cảnh ra khơi của “Đoàn
thuyền đánh cá”, mở đầu cho một đêm đánh cá trên biển.
Hai câu thơ đầu diển tả thời điểm ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”. Thời gian ở đây
là lúc ngày tàn, được miêu tả bằng những chi tiết, hình ảnh cụ thể, giàu giá trị gợi cảm: ”Mặt
trời xuống biển như hịn lửa-sóng đã cài then đêm sập cửa”. Ơ câu thơ này, tác giả đã sử dụng
biện pháp so sánh. Màu đỏ của “mặt trời” được so sánh với “hòn lửa”. Viết về cảnh biển
đêm, ngày tàn, nhưng cảnh vẫn khơng hoang vắng nhờ hình ảnh rực sáng này. Trong cản quan
của Huy Cận, vũ trụ là một ngôi nhà khổng lồ. Khi ngày đã tàn, “Mặt trời xuống biển”, màn
đêm bng xuống “Đêm sập cửa” thì sóng biển như “then cài” đóng lại cánh cửa khổng lồ
ấy. Những hình ảnh ẩn dụ này chứng tỏ nhà thơ có trí tưởng tượng phong phú.
Đối với thiên nhiên thì một ngày đã khép lại, nhưng với đồn thuyền đánh cá thì đây lại
là thời điểm bắt đầu cho công việc đánh cá trên biển trong đêm.
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Từ “lại” nói lên rằng hằng ngày vào cái thời điểm ấy, khi trời yên biển lặng, đoàn thuyền
ra khơi đã thành một cảnh quen thuộc.
Hình ảnh thơ “Câu hát căng buồn cùng gió khơi” là một hình ảnh được xây dựng nhờ
một trí tưởng tượng phong phú. Huy Cận đã miêu tả, đã cụ thể hoá tiếng hát của những người
lao động. Những người lao động đánh cá ra khơi cùng với tiếng hát khoẻ khoắn đến mức tạo

nên một sức mạnh (cùng với gió khơi) làm căng những cánh buồm. Họ ra khơi với một niềm
phấn khởi, niềm tin vào thành quả lao động.
Bốn câu thơ mở đầu miêu tả cảnh ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”. Cảnh ngày tàn
mà vẫn ấm áp, vẫn tràn đầy niềm vui, niềm lạc quan của người lao động. Khơng khí chung
của bốn câu thơ mở đầu này chi phối khơng khí chung của cả bài thơ.
--------------------Hết--------------------

Gmail:

15


Tuyển tập 32 bài nghị luận văn học bồi dưỡng HSG và ôn thi vào lớp 10 THPT
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––

Bài số 7. Em hãy phân tích bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt.
Bài viết tham khảo:
Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn
nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức
mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng
có riêng ơng một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái
bếp lửa thân thương. Khơng chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt cịn là tình cảm
sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông.
Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ “
Bếp lửa” được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô. Bài thơ đã gợi
lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lịng kính yêu,
trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước.
Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất khách
quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Hình ảnh “chờn vờn” gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách chập
chờn như khói bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và toả sáng tâm hồn
đứa cháu thơ ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa của cuộc đời bà đã trải qua “biết
mấy nắng mưa”. Từ đó, hình ảnh người bà hiện lên. Dù đã cách xa nữa vòng trái đất nhưng
dường như Bằng Việt vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu thương, chăm chút từ đôi tay kiên
nhẫn và khéo léo của bà. Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình
u thương bà vơ hạn. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một dịng sơng với con
thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao giờ
quên được và cũng chính
điều đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan toả tồn bài thơ.
Khổ thơ tiếp theo là dịng hồi tưởng cùa tác giả về những kỉ niệm của những năm tháng
sống bên cạnh bà. Lời thơ giản dị như lời kể, như những câu văn xuôi, như thủ thỉ, tâm tình,
tác giả như đang kể lại cho người đọc nghe về câu chuyện cổ tích tuổi thơ mình. Nếu như
trong câu chuyện cồ tích của những bạn cùng lứa khác có bà tiên, có phép màu thì trong câu
chuyện của Bằng Việt có bà và bếp lửa. Trong những năm đói khổ, người bà đã gắn bó bên tác
giả, chính bà là người xua tan bớt đi cái khơng khí ghê rợn của nạn đói 1945 trong tâm trí đứa
cháu. Cháu lúc nào cũng được bà chở che, bà dẫu có đói cũng khơng để cháu thiếu bữa ăn nào,
bà đi mót từng củ khoai, đào từng củ sắn để cháu ăn cho khỏi đói:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mịn đói mỏi
Bố đi đánh xe khơ rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Gmail:

16



Tuyển tập 32 bài nghị luận văn học bồi dưỡng HSG và ơn thi vào lớp 10 THPT
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––

Chính “mùi khói” đã xua đi cái mùi tử khí trên khắp các ngõ ngách. Cũng chính cái mùi
khói ấy đã quện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng năm có trơi qua, những kí ức ấy
cũng sẽ để lại ít nhiều ấn tượng trong lịng đứa cháu để rồi khi nghĩ lại lại thấy “sống mũi còn
cay”. Là mùi khói làm cay mắt người cháu hay chính là tấm lịng của người bà làm đứa cháu
khơng cầm được nước mắt?
“Tám năm rịng cháu cùng bà nhóm bếp
Tu hú kêu trên những cách đồng xa
Khi tu hú kêu bà cịn nhớ khơng bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
“Cháu cùng bà nhóm lửa”, nhóm lên ngọn lửa của sự sống và của tình yêu bà cháy bỏng
của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy. Chính hình ảnh bếp lửa q hương,
bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi
sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người
nơng dân mau thốt khỏi cái đói, và dường như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để
nhắc bà rằng: “Bà ơi, đến giờ bà kể chuyện cho cháu nghe rồi đấy!”. Từ “tu hú” được điệp lại
ba lần làm cho âm điệu câu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng
tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả. Tiếng “tu hú” lúc mơ hồ, lúc văng vẳng
từ những cánh đồng xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiếng chim tu hú khắc khoải làm cho
dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài thơ, rộng hơn trong cái không gian xa thẳm của nỗi nhớ
thương.
Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn bó với tác giả
nhất, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm rịng của cuộc kháng chiến chống Mĩ, tình
cảm bà cháu ấy lại càng sâu đậm:
“Mẹ cùng cha bận công tác không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cách đồng xa”
Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ
phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối
với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ? cùng bà, ngày nào cháu cũng cùng bà
nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện
ra trong câu truyện cổ huyền ảo của cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim
để nâng ước mơ của con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài
lên ngực áo thì đối với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cách chim, là một
cành hoa của riêng ơng. Cho nên, tình bà cháu là vơ cùng thiêng liêng và quý giá đối với ông.
Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn,
giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép
tính đầu tiên. Khơng chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm
người. Những bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người
bà và tình cảm mà bà dành cho cháu đã thật sự là một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn
Gmail:

17


Tuyển tập 32 bài nghị luận văn học bồi dưỡng HSG và ôn thi vào lớp 10 THPT
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––

tinh thần cho đứa cháu bé bỏng. Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn
vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ người cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu
chuyện những ngày ở Huế,... Thi sĩ bỗng tự hỏi lịng mình: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?”.
Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người. Chỉ trong một
khổ thơ mà hai từ “bà”, “cháu” đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần gợi lên hình ảnh hai bà cháu
sóng đơi, gắn bó, quấn qt khơng rời.

Chiến tranh, một danh từ bình thường nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vơ cùng, nó
đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một
nạn nhân của chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi...
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt nghèo, nghị lực của bà càng bền vững,
tấm lòng của bà càng mênh mơng. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà cần cù, nhẫn nại và
giàu đức hi sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương
thân của hai bà cháu nay đã khơng cịn, bà dù có đau khổ thế nào cũng khơng dám nói ra vì sợ
làm đứa cháu bé bỏng của mình lo buồn. Bà cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn, bà
khơng để đứa con đang bận việc nước phải lo lắng chuyện nhà. Điều đó ta có thể thấy rõ qua
lời dặn của bà: “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ / Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”. Lời dặn
của bà nơm na giản dị nhưng chất chứa biết bao tình cảm. Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi nhớ
thương con bà đều phải nén vào trong lòng để yên lòng người nơi tiền tuyến. Hình ảnh người
bà khơng chỉ cịn là người bà của riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho nhữnh người
phụ nữa Việt Nam giàu đức hi sinh, thương con quý cháu.
Kết thúc khổ thơ, Bằng Việt đã nâng hình ảnh bếp lửa trở thành hình ảnh một ngọn lửa:
“Một ngọn lửa lịng bà ln ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.
Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngọn lửa của
tình yên thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng
soi sáng cho con đường đứa cháu. Bà ln nhắc cháu rằng: nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà,
bà sẽ ln ở cạnh cháu. Những dịng thơ cuối bài cũng chính là những suy ngẫm về bà và bếp
lửa mà nhà thơ muốn gửi tới bạn đọc, qua đó cũng là những bài học sâu sắc từ cơng việc nhóm
lửa tưởng chừng đơn giản:

“ Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm”
Một lấn nữa, hình ảnh bếp lửa “ ấp iu”, “nồng đượm” đã được nhắc lại ở cuối bài thơ
như một lần nữa khẳng định lại cái tình cảm sâu sắc của hai bà cháu.
“Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi”
Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương những
người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩa tình,
Gmail:

18


Tuyển tập 32 bài nghị luận văn học bồi dưỡng HSG và ôn thi vào lớp 10 THPT
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––

những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã sống với nhau, những năm tháng mà hai bà
cháu mình cùng chia nhau từng củ sắn, củ mì.
“Nhóm nồi xơi gạo mới sẻ chung vui”
“Nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” của bà hay là lời răn dạy cháu ln phải mở lịng ra với
mọi người xung quanh, phải gắn bó với xóm làng, đừng bao giờ có một lối sống ích kỉ.
“Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”.
Bà khơng chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi
thơ của cháu thêm đẹp, thêm huyền ảo như trong truyện. Người bà có trái tim nhân hậu, người
bà kì diệu đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu
khôn lớn thành người. Người bà kì diệu như vậy ấy, rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì
diệu từ trái tim, ta có thể bắt gặp người bà như vậy trong “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh:
“Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng.”
Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà.

Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm dâng trào lớp lớp sóng vỗ vào bãi biển
xanh thẳm lòng bà. Người bà đã là, đang là và sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất đối với
cháu dù ở bất kì phương trời nào. Bà đã trờ thành một người không thể thiếu trong trái tim
cháu.
Giờ đây, khi đang ở xa bà nửa vịng trái đất, Bằng Việt vẫn ln hướng lịng mình về
bà:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
Xa vòng tay chăm chút của bà để đến với chân trời mới, chính tình cảm cuả hai bà cháu
đã sươỉ ấm lịng tác giả trong cái mùa đơng lạnh giá cuả nước Nga. Đứa cháu nhỏ cuả bà ngày
xưa giờ đã trưởng thành nhưng trong lịng vẫn ln đinh ninh nhớ về góc bếp, nơii nắng mưa
hai bà cháu có nhau. Đứa cháu sẽ khơng bao giờ qn và chẳng thể nào qn được vì đó chính
là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ của đứa cháu đã được ni dưỡng để lớn lên từ đó.
“ Đọc xong bài thơ, nhắm mắt laị tưởng tượng, bạn sẽ hình dung thấy ngay hình ảnh bếp
lửa hồng và dáng người bà lặng lẽ ngồi bên. Hình ảnh có tính sóng đơi này hiện lên thật sống
động, rõ ràng như thể nét khắc, nét chạm vậy...” (Văn Giá). Bài thơ Bếp lửa sẽ sống mãi trong
lòng bạn đọc nhờ sức truyền cảm sâu sắc cuả nó. Bài thơ đã khơi dạy trong lịng chúng ta một
tình cảm cao đẹp đối với gia đình, với những người đã tơ màu lên tuổi thơ trong sáng của ta.
------------------------Hết-----------------------

Gmail:

19


Tuyển tập 32 bài nghị luận văn học bồi dưỡng HSG và ôn thi vào lớp 10 THPT
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––


Bài số 8: Phân tích bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính”của Phạm Tiến Duật.
Bài viết tham khảo:
Phạm Tiến Duật là nhà thơ trẻ và lớn lên “trong sắc áo của anh bộ đội Trường Sơn”
giữa những ngày ác liệt nhất của cuộc chiến tranh nhân dân chống Mỹ.
Tiếng thơ Phạm Tiến Duật hình thành và lớn lên với những bài thơ “Trường Sơn đôngTrường Sơn tây, lửa đèn, giửi em cơ thanh niên xung phong, nhớ....”đã góp phần trẻ hoá thơ
Việt Nam thời chống Mỹ. Bài thơ “bài thơ về tiểu đội xe khơng kính” được rút ra trong tập
thơ “vầng trăng-quầng lửa” của tác giả. Trong bài thơ tác giả đã xây dựng một hìng tượng
độc đáo những “chiếc xe khơng kính” chắn gió vẫn băng băng trên đường ra trận vì chiến
trường miền Nam ruột thịt.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã giải thích vì sao tất cả xe trong tiểu đội đều “khơng có kính”
vì bom đạn giặc Mỹ làm “kính vỡ đi rồi”. Chỉ một chi tiết nhỏ “khơng có kính vì xe khơng có
kính-bom giật, bom rung kính vỡ mất rồi” tác giả đã làm cho người đọc hiểu được sự ác liệt,
tàn bạo của cuộc chiến tranh do đế quốc Mỹ gây ra. Những chiếc xe này đã làm nổi bật hình
ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm chống Mỹ cứu
nước.
Thế mà, những người lính trên những chiếc “xe khơng kính” vẫn “ung dung buồng lái
ta ngồi nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng!”
Thái dộ ung dung và “cái nhìn” của anh lái xe như bất chấp, coi thường tất cả nguy
hiểm ở phía trước mác dù “bụi phun tóc trắng như người già”, cho dù “mưa tn mưa xối
như ngồi trời”...các anh vẫn “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” hoặc tếu táo “phì phèo châm
điếu thuốc” hay “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”
Hình ảnh trong các câu thơ trên đã làm nổi rõ cái hiên ngang, dũng cảm, bất chấp mọi
nguy hiểm của các chiến sĩ lái xe, để lái những chiếc xe không kính ra mặt trận với một niềm
tin niềm vui của tuổi trẻ.
Khung kính đã bị vỡ, khơng có gì để chắn gió trời ùa vào, đập thẳng vào mắt. Thế mà,
tác giả lại viết: “ nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng”.
“Xoa” là cử chỉ nhẹ nhàng vuốt ve âu yếm. Qua cách diễn đạt của câu thơ thì ở đây,
gió khơng làm đau, làm rát mắt của người lái xe mà ngược lại gió cịn vỗ về nhè nhẹ vào đôi
mắt “đắng”. Và, con đường trước mặt- con đường ra trận trở nên gần sát hơn đang chạy
ngược lại “Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Vì khơng có kính chắn, nên người lái

xe có cảm giác và ấn tượng “Con đường chạy thẳng vào tim”. Con đường thực trước mặt đó
củng chính là con đường được nhà thơ nâng lên thành con đường lý tưởng con đường cách
mạng..., con đường ở trong trái tim của người chiến sĩ. Chính là con đường đó đã giúp cho cac
chiến sĩ lái xe thêm sức mạnh, niềm tin, bất chấp bom đạn của kẻ thù, tiến lên phía trước:
“Thấy sao trời và đột ngột cánh chim- như sa như ùa vào buồng lái”. Người lái xe vẫn vui
với “sao trời” và “Cánh chim”, “sao trời và cánh chim” ngày đêm như bầu bạn với người
lính lái xe. Ngày cũng nhưu đêm, thiên nhiên, đất trời luôn sát cánh với người chiến sĩ lái xe
trên suốt chặng đường dài ra trận. Với nghệ thuật nhân hố tài tình, nhà thơ đã biến những khó
khăn trở ngại khio lái những chiếc xe khơng kính trở thành gần gủi gắn bó thân thương hơn.
Giọng điệu thơ có khi thật ngang, tự nhiên, bất chấp gian khổ được thể hiện rõ trong cấu trúc
đựoc lặp lại “Ừ thì...”, “Chưa cần rửa”, “Chưa cần thay” ..., “Lái trăm cây số nữa...”.
Dường như gian khổ nguy hiểm, ác liệt của chiến tranh không làm ảnh hưởng đến tinh thần
Gmail:

20


Tuyển tập 32 bài nghị luận văn học bồi dưỡng HSG và ôn thi vào lớp 10 THPT
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––

của họ, trái lại, những người lính lái xe xem như là một nhịp để rèn thử thách sức mạnh và ý
chí của mình “ chí làm trai” -tuổi trẻ người lính”.
Những người lái xe cịn là những chàng trai trẻ, sơi nổi, vui nhộn, lạc quan. Họ “nhìn
nhau”, “bát tay nhau”, và trên đường ra trận thì “bếp Hồng Cầm ta dựng giữa trời- chung
bát đũa nghĩa là gia đình đấy”, và cứ thế “võng mắc chong chênh đường xe chạy”, trước mắt
họ những chiếc xe lại tiến lê phía trước, là ta cứ đi, lại đi “trời xanh thêm” khơng có gì ngăn
cản đuợc đường ra mặt trận.
Cái gì đẫ làm nên sức mạnh ở họ để coi thường gian khổ bất chấp gian nan như vậy?
Đó chính là ý chí chiến đấu để giải phóng miền nam là tình u nước nồng nhiệt ở tuổi trẻ thời
đánh Mỹ cứu nước.

Những chiếc xe bị bom đạn Mỹ làm cho biến dạng trơ trụi, trụi trần “Khơng có kính rồi
xe khơng đèn- khơng có mui xe, thùng xe có xước” Nhưng điều kì lạ là những chiếc xe trụi
trần ấy vẫn chạy, vẫn băng ra tiền tuyến. Tác giả lại một làn nữa lí giải bất ngờ và rất chí lí:
“chỉ cần trong xe có một trái tim” Trái tim người lính cách mạng- trái tim của lòng quả cảm.
Với lời thơ tự nhiên như lời nói bình thường, giọng điệu thơ gần gủi, vui tươi, dí dỏm,
bài thơ đã nêu bật hình ảnh người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn: dũng cảm hiên ngang,
với niềm vui sôi nổi, lạc quan yêu đời bất chấp mọi khó khăn, nguy hiểm để ra trận vì Miền
Nam ruột thịt thân u. Họ ln đối diện với khó khăn thử thách, mà vẫn cười đùa, tếu táo,
hồn nhiên, tự tin. Đó là nét đặc sắc của bài thơ cũng như ngôn ngữ, giọng điệu riêng của thơ
Phạm Tiến Duật. Hôm nay đất nước dã hồ bình sau hơn 30 năm giải phóng Miền Nam con
đường Trường Sơn đã đi vào lịch sử, đọc lại bài thơ này, chúng ta càng tự hào và khâm phục
biết bao các chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn ngày trước cùng bộ đội Trường Sơn đã góp phần vào
chiến thắng huy hoàng của dân tộc.
-----------------------Hết----------------------Bài số 9: Cảm nhận của em về chân dung người lính lái xe trong “Bài thơ tiểu đội xe
khơng kính” của Phạm Tiến Duật
Bài viết tham khảo:
Phạm Tiến Duật là nhà thơ nổi lên từ phong trào chống Mỹ cứu nước. Năm 1964, tốt
nghiệp khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội I. Ông vào bộ đội và xung phong vào tuyến
lửa khu Bốn.
Từng là lính lái xe nên ơng có những bài thơ viết rất hay về binh chủng này. “ Tiểu đội
xe khơng kính” là một bài thơ tiêu biểu.
Bài thơ là khúc hát ca ngợi những người lính lái xe đã đã vượt lên hiện thực dữ dội, ác
liệt của khói lửa chiến tranh thời chống Mỹ để hồn thành nhiệm vụ.
Bài thơ đã xây dựng một hình tượng độc đáo đó là những chiếc xe, nói cho đúng là cả
một tiểu đội xe khơng có kính chắn gió, chắn bụi băng băng ra trận. Mà độc đáo thật, vì chỉ
gặp ở Việt Nam, ở những chiến sĩ lái xe quân sự thời chống Mỹ. Có thể nói “chất” độc đáo
này được lên men từ chiến trường ác liệt:
“Không có kính khơng phải vì xe khơng có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”


Gmail:

21


Tuyển tập 32 bài nghị luận văn học bồi dưỡng HSG và ôn thi vào lớp 10 THPT
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––

Nguyên nhân xe khơng kính là vậy. Đấy là mội hiện thực trần trụi mà tác giả không thể
hư cấu.
Bên cạnh hiện thực trần trụi đấy là hình ảnh người lính lái xe hiện lên rất đẹp. Cứ tưởng
với hiện thực dữ dội, ác liệt, trớ trêu ấy, người lính lái xe phải bó tay, thế nhưng vẫn nổi lên
với tư thế:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”
Nghĩa là xe cứ đi. Khơng những ung dung mà người lính lái xe còn tỏ ra rất chủ động,
hiên ngang vượt lên tất cả.
Nói đến người lái xe là nói đến con mắt, nói đến cái nhìn. Tơ đậm cái nhìn của người
lái xe, chỉ trong một dòng thơ, tác giả đã sử dụng 3 lần từ “nhìn” (điệp từ). Nhìn trời là để phát
hiện máy bay hay pháo sáng về ban đêm. Nhìn thẳng là cái nhìn nghề nghiệp, hiên ngang. Và
cũng từ ca - bin khơng kính, qua cái nhìn đã tạo nên những ấn tượng, cảm giác rất sinh động,
cụ thể đối với người lái xe:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”
Những cảm giác này, dù mang ý nghĩa tả thực hay tượng trưng, đều thể hiện cái thế
ung dung tinh thần vượt lên của người lái xe.
Hai khổ thơ tiếp, hình ảnh người lái xe được tơ đậm. Cái tài của Phạm Tiến Duật trong khổ
thơ này là cứ hai câu đầu nói về hiện thực nghiệt ngã phải chấp nhận thì hai câu sau nói lên

tinh thần vượt lên hoàn cảnh để chiến thắng hoàn cảnh của người lái xe trong thời gian chiến
tranh ác liệt.
Xe khơng kính nên “bụi phun tóc trắng như người già” là lẽ đương nhiên, xe khơng có
kính nên “ướt áo, mưa tn, mưa xối như ngồi trời” là lẽ tất nhiên.
Những cụm từ “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo” chứng tỏ họ không những đã ý thức được
mà cịn rất quen với những gian khổ đó.
Chính vì thế:
“Chưa cần lửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
Và cao hơn:
”Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khơ thơi.”
Đây là những câu thơ đậm chất người lính, nói rất đúng tinh thần và cuộc sống của
người lính Các động tác “phì phèo châm điếu thuốc” tuy có vụng về nhưng sao đáng yêu thế?.
Cái cười “ha ha” nở ra trên khuôn mặt lấm lem của mọi người sao mà rạng ngời đến thế? Bởi
vậy, đọc những câu thơ này giúp ta hiểu được phần nào cuộc sống của người lính ngồi chiến
trường những năm tháng đánh Mỹ. Đó là cuộc sống gian khổ trong bom đạn ác liệt nhưng tràn
đầy tinh thần lạc quan, yêu đời và tinh thần hoàn thành nhiệm vụ cao.
Gmail:

22


Tuyển tập 32 bài nghị luận văn học bồi dưỡng HSG và ôn thi vào lớp 10 THPT
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––

Hai khổ thơ tiếp nói về cảnh sinh hoạt và sự họp mặt sau những chuyến vận tải trên
những chặng “đường đi tới”. Vẫn những câu thơ có giọng điệu riêng, đậm chất văn xuôi rất
riêng của Phạm Tiến Duật đã thể hiện được tình đồng chí, đồng đội trong kháng chiến. Ở hai
khổ thơ này, tác giả vẫn tơ đậm cái hình tượng thơ “xe khơng kính”, nhưng lại có cách nói

khác rất lính:
“Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
Khổ thơ cuối cùng, kết thúc bài thơ, tác giả muốn nói với chúng ta một điều như một
điều dự báo: đâu chỉ là tiểu đội xe khơng kính mà tương lai cịn là tiểu đội xe không đèn,
không mui xe, ... Hiện thực của cuộc chiến tranh diễn ra còn hết sức ác liệt, người lính lái xe
cịn phải đối mặt với bao nhiêu nghiệt ngã, thử thách: “ Khơng có kính rồi xe khơng đèn,
khơng có mui, thùng xe có xước” nhưng nhất định họ sẽ hồn thành nhiệm vụ, sẽ chiến thắng
bởi vì phía trước họ là miến Nam thân u và vì họ sẵn có một nhiệt tình cách mạng, một trái
tim quả cảm - trái tim người lính Bác Hồ.
“ Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Bài thơ là bức tượng đài nghệ thuật về người lính lái xe trong cuọoc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước của dân tộc ta.
-----------------------Hết----------------------Bài số 10: Phân tích hình ảnh người mẹ Tà -ơi trong bài thơ “Khúc hát ru những em
bé trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm.
Bài viết tham khảo:
Bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
đời giữa những năm tháng quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên cả hai
miền Bắc-Nam. Thời kì này, cuộc sống của cán bộ, nhân dân ta trên các chiến khu (phần lớn
là những vùng miền núi) rất gian nan, thiếu thốn. Cán bộ, nhân dân ta phải bám rẫy, bám đất
để tăng gia sản xuất, vừa sẳn sàng chiến đấu bảo vệ căn cứ. Bài thơ là lời hát ru những em bé
dân tộc Tà-ôi lớn trên lưng mẹ ở vùng chiến khu Trị-Thiên trong thời kì chiến tranh chống
Mỹ.
Hình ảnh người mẹ Tà-ơi trong bài thơ, qua từng đoạn thơ với từng khúc hát ru được
gắn với hồn cảnh, cơng việc cụ thể.
Ơ khúc thứ nhất, người mẹ hiện lên với dáng tần tảo, lam lũ, vất vả với công việc giả
gạo nuôi bộ đội. Mẹ giã gao, con vẫn trên lưng mẹ. Câu thơ: “Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối”
thật cảm động. Mẹ gầy vì cơng việc giúp ni bộ đội đánh giặc. Mẹ gầy vì ni cho con nhanh
lớn. Nhưng trái tim của mẹ vẫn hát về ước mơ:

“Mai sau con lớn vung chày lún sân”
Trong khúc ru thứ hai, diễn tả công việc mẹ lên núi trỉa bắp. Câu thơ: “Lưng núi thì to
mà lưng mẹ nhỏ” hình thành theo kết cấu đối lập làm nổi bật hình ảnh me với cơng việc vất
vả. Núi thì to, nương bắp thì rộng, mà sức mẹ có hạn. Trên lưng mẹ, em vẫn ngủ say:
“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Gmail:

23


Tuyển tập 32 bài nghị luận văn học bồi dưỡng HSG và ôn thi vào lớp 10 THPT
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––

Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”
Hình ảnh “Mặt trời” trong câu thơ sau được chuyển nghĩa (ẩn dụ): Cu Tai là mặt trời
của mẹ. Em còn là tất cả của mẹ, là lí tưởng, là hi vọng của mẹ. Mẹ mơ ước về con:
“Mai sau lớn lên phát mười Ka-lưi”
Đến khổ thứ ba, lời ru đồn đập, mạnh mẻ, gấp rút, bởi “giặc Mỹ đến đánh”, đuổi ta
phải rời suối rời nương “Thằng Mỹ đuổi ta phải rời con suối”. Mẹ phải chuyển lán, đạp rừng ,
cùng tham gia đánh giặc. Mẹ đến chiến trường, em vẩn trên lưng:
“Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường
Từ trong đói khổ em vào Trương Sơn”
Trong khói lửa của chiến tranh mẹ mong ước: “Mai sau con lớn làm người tự do”.
Ba khúc hát ru cũng là ba đoạn thơ điển tả công việc cùng tấm lòng của mẹ ở trong chiến
khu gian khổ, người mẹ Tà-ơi trong bài thơ cịn thắm thiết u con và cũng nặng tình thương
bn làng, q hương, bộ đội và khao khát mong cho đất nước độc lập, tự do. Lời ru gắn với
tình yêu con tha thiết của người mẹ dân tộc Tà-ôi. Lời ru thủ thỉ những điều đang diển tả trong
thực tại mà người con chưa thể biết:
“Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng

Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhơ làm gối
Lưng đưa nơi và tim hát thành lời”
Lời ru theo nhịp giã gạo, mỗi câu bị ngắt nhịp làm hai như theo nhịp chày, nhịp thở.
Hai mẹ con cùng chung một nhịp, mẹ làm việc, con ngủ ngon “Nhịp chày nghiêng giấc ngủ
em nghiêng”. Hai từ “Nghiêng” đứng trong một câu thơ thể hiện niềm say mê của mẹ hoà
cùng giấc ngủ của bé. Mẹ làm việc khổ cực trong hiện tại, nhưng lời ru của mẹ cao vút đến
ngày mai. “Mai sau con lớn vung chày lún sân!!..
Lời ru trên nương khi trỉa bắp ở trên núi Ka-lưi, vẫn theo nhịp “chọc lỗ” trỉa bắp
nhưng hình ảnh lúc này thiên về đối lập “Lưng núi to- lưng mẹ nhỏ” và đối xứng “Mặt trời
của bắp- mặt trời của mẹ”, tất cả toát lên tình thương vơ hạn của người mẹ nghèo vẫn thương
con, thương cách mạng, “mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”- người mẹ vừa chịu đựng cái
nóng vừa tha thiết yêu thương.
Lời ru của mẹ không chỉ hướng vào thực tại mà còn hướng về tương lai:
“Ngủ ngoan A-kay ơi, ngủ ngoan A-kay hỡi
Mẹ thương A-kay, mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka-Lưi”
Khi chuyển lán, trong lời ru thứ ba, nhịp thơ vẫn ngắt đơi, mỗi dịng theo bước chân đi
nhưng lời thơ xếp theo lối hùn điệp, đuổi nhau giục giã, khẩn trương:
“Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng
Thằng Mỹ đuổi ta phải rời con suối
Gmail:

24


Tuyển tập 32 bài nghị luận văn học bồi dưỡng HSG và ơn thi vào lớp 10 THPT
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––


........................................................
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn”.
Cũng như đoạn thơ trên, lời ru của mẹ hướng vào đất nước, hướng vào tương lai chiến
thắng”
“Ngủ ngoan A-kay ơi, ngủ ngoan A-kay hỡi
Mẹ thương A-kay, mẹ thương đất nước
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người tự do”.
Tình yêu thương con của người mẹ gắn liền với tình cảm đối với cán bộ, xóm làng, đất
nước. Tình u của người mẹ Tà- ơi gắn liền với tình cảm cao đẹp khác. Đó là lịng thương
u bộ đội, u thương dân làng, yêu thương đất nước. Những lời ru của người mẹ cịn thể
hiện ước mơ và ý chí của nhân dân ta. Người mẹ mong con lớn lên giúp mẹ giã gạo “vung
chày lún sân”, giúp mẹ trỉa ngô, làm rẫy “phát mười Ka-lưi”. Đó là niềm mong ước mọi
người được sống ấm no “hạt gạo trắng ngần, hạt bắp lên đều”. Lời hát ru còn thể hiện ý chí
chiến đấu, khát vọng tự do và niềm tin vào thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ:
“Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người tự do...”
Bài thơ xây dựng hình ảnh người mẹ Tà-ôi, nuôi con thơ mà làm đủ mọi việc cho cơng
cuộc chống Mỹ, góp phần vào thắng lợi chung cho đất nước. Một người mẹ tuy lao động nhọc
nhằn mà ước mơ bay bổng, toát lên một niềm tin vững chắc cho tương lai. Đây là một hình
tượng hiếm có trong thơ ca cách mạng hiện đại, sánh cùng với những hình tượng khác hình
ảnh người mẹ khác trong hai cuộc chiến của dân tộc ta đó là: mẹ Tơm, mẹ Suốt, người mẹngười cầm súng Út Tịch.....đã góp nên một bài ca của những người mẹ Việt Nam anh hùng:
“Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” với tám chữ vàng mà Bác Hồ trao tặng.
----------------------Hết--------------------Bài số 11.

Phân tích bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.

Bài viết tham khảo:
Trăng - hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành đề

tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu như “Tĩnh
dạ tứ” của Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ quê hương, “Vọng
nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái ung dung và lòng yêu thiên
nhiên tha thiết của Bác thì đến với bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp
hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc. Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.
Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu lắng và thấm đẫm cái hồn của ca dao, dân ca
Việt Nam. Thơ ơng khơng cố tìm ra cái mới mà lại khai thác, đi sâu vào cái nghĩa tình muôn
đời của người Việt. “Ánh trăng” là một bài thơ như vậy. Trăng đối với nhà thơ có ý nghĩa đặc
biệt: đó là vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa và vầng trăng thức tỉnh. Nó như một hồi
chng cảnh tỉnh cho mỗi con người có lối sống quên đi quá khứ.

Gmail:

25


×