Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Thúc đẩy xuất khẩu thủy sản vào thị trường châu âu.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.71 KB, 89 trang )

LỜIMỞĐẦU
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế Việt Nam thì xuất khẩu đóng góp
một vai trò không nhỏ. Xuất khẩu giúp tăng thu ngoại tệ tạo cơ sở nhập khẩu
máy móc thiết bị hiện đại phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Bên cạnh đó xuất khẩu còn góp phần giải quyết các vấn đề còn nhiều bất cập ở
Việt Nam như việc giải quyết vấn đề việc làm, chuyển dịch cơ cấu ngành nghề
vùng kinh tế cũng như góp phần mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới.
Trong đó xuất khẩu thủy sản luôn là một trong những mặt hàng có kim ngạch
xuất khẩu cao nhất của nước ta bởi lẽ nước ta được thiên nhiên ban tặng cho
những lợi thếa mà không phải nước nào cũng cóđược nhưđường bờ biển dài
hàng ngàn kilomet, hệ thống sông ngòi kênh rạch chằng chịt rất thuận lợi cho
việc khai thác và nuôi trồng thủy sản.
Trong số các thị trường xuất khẩu thủy sản chủ yếu của Việt Nam thì thị
trường châu âu đóng một vai trò quan trọng. Trong suốt nhiều năm liền thị
trường này (cùng thị trường Mỹ và Nhật Bản) là một trong ba thị trường xuất
khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam nhưng xét cả về khối lượng và giá trị xuất
khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường này đều chưa thể hiện hết được nhu
cầu của thị trường đầy tiềm năng này.
Do đó tôi quyết định chọn đề tài
“Thúc đẩy xuất khẩu thủy sản vào thị trường châu âu”
để có thể hiểu rõ hơn những lý do khiến thủy sản của nước ta trong nhiều năm
qua luôn gặp khó khăn khi xâm nhập thị trường này dù tiềm lực thủy sản của
thủy sản là rất lớn. Đề tài này gồm cho 3 phần chính:
+) Chương 1: Lý luận chung về thúc đẩy xuất khẩu thủy sản
sang thị trường châu âu
+) Chương 2: Thực trạng xuất khẩu thủy sản sang thị trường
châu âu
+) Chương 3: Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu thủy sản sang thị
1
trường châu âu
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn GS.TS Hoàng Đức Thân và thư viện


trường Đại học Kinh tế quốc dân đã giúp tôi hoàn thành đềán này. Xin chân
thành cảm ơn.
2
Chương 1: Lý luận chung về thúc đẩy xuất khẩu thủy sản sang
thị trường châu âu
1.1 Tầm quan trọng của xuất khẩu thủy sản với nền kinh tế quốc dân
Xuất khẩu nói chung và xuất khẩu thủy sản nói riêng có một vai trò quan trọng
đối với nền kinh tế quốc dân.
Trước hết xuất khẩu thủy sản giúp cho nước ta tăng thu ngoại tệ, từđó có thể
nhập khẩu những công nghệ cần thiết phục vụ cho quá trình thực hiện công
nghiệp hoá-hiện đại hoáđất nước
Trong những năm gần đây, thủy sản đã có những bước phát triển vô cùng
mạnh mẽđể trở thành một trong những ngành xuất khẩu có vai trò vàđóng góp
lớn nhất cho nền kinh tế nước ta. Ngành thủy sản đã có nhưng bước tiến vượt
bậc trong thời gian qua và kim ngạch xuất khẩu của ngành luôn chiếm khoảng
10% kim ngạch xuất khẩu cả nước trong những năm gần đây. Cụ thể là nếu như
năm 1981 kim ngạch xuất khẩu xủa ngành thủy sản chỉđạt 19,9 triệu USD thìđến
năm 2007 con số này là 3,8 tỷ USD ( tăng 191 lần so với năm 1981 vàđứng thứ
tư trong số các mặt hàng chủ lực của Việt Nam). Đây là một cơ sở, một tiền đề
quan trọng đối với các nước, đặc biệt là với một đất nước còn nghèo đang trong
thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá như nước ta hiện nay.Việc tăng thu ngoại
tệ sẽ giúp cho đất nước có thêm điều kiện để nhập khẩu thêm máy móc, thiết bị,
công nghệ hiện đại để góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoáở nước ta diễn ra nhanh hơn vàđạt hiệu quả cao hơn.
Bên cạnh đó, xuất khẩu thủy sản còn góp phần vào việc thực hiện
chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, vùng kinh tế, kích thích sản xuất phát triển theo
cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Điều đóđược thể hiện rõ trong các điều
+) Tạo điều kiện cho các ngành liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới thủy
sản như nuôi trồng thủy sản, khai thác và chế biến thủy sản có cơ hội phát triển.
+) Tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ cho ngành thủy sản mà

không chỉ bó hẹp ở thị trường trong nước, điều đó sẽ góp phần ổn định sản xuất
các mặt hàng thủy sản ở trong nước, cũng như mở ra các cơ hội mới cho ngành
thủy sản có thể mở rộng về quy mô sản xuất.
+) Góp phần thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài đó làđiều kiện thuận lợi để
thực hiện hiện đại hoá nền kinh tế trong nước và mở rộng quy mô, nâng cao chất
lượng của các sản phẩm chế biến từ thủy sản.
Ngoài ra xuất khẩu thủy sản còn góp phần giải quyết vấn đề cấp bách đối
với một đất nước đang tiến hành thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoáđó là
vấn đề việc làm cho người dân.Việc tiến hành hoạt động xuất khẩu thủy sản sẽ
tạo ra nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm cho người dân bởi lẽ các hoạt động liên
quan đến xuất khẩu thủy sản như nuôi trồng thủy sản, khai thác chế biến thủy
sản đồi hỏi một lượng lao động tương đối lớn. Bên cạnh đó các hoạt động khác
như dịch vụ hậu cần trong ngành thủy sản cũng thu hút được một lượng lao
động khá lớn. Chính vì vậy xuất khẩu thủy sản đã góp phần ổn định đời sống
người lao động của nước ta thông qua đó góp phần ổn định kinh tế chính trị tạo
điều kiện phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.
Cuối cùng, xuất khẩu là cơ sởđể mở rộng giao lưu, quan hệ với các quốc gia
khác trên thế giới. Thông qua xuất khẩu nói chgung và xuất khẩu thủy sản nói
riêng, chúng ta đã ký kết nhiều hoạt động quan hệ quốc tế, cũng như phần nào
giới thiệu được những nét văn hoáđặc trưng cũng như con người Việt Nam với
bạn bè thế giới. Từđó tạo điều kiện cho việc các quốc gia tiến đến ký kết các
hoạt động giao lưu văn hoá, cũng như thu hút các du khách nước ngoài đến tham
quan và tìm hiểu về con người Việt Nam.
1.2 Đặc điểm của thị trường châu âu
1.2.1 Giới thiệu khái quát về kinh tế, xã hội các nước châu âu
*) Đối với khu vực EU, kinh tế trong thời gian qua vẫn duy trì với tốc độ
tăng trưởng cao. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 1996 là 1,6%, năm 1997 là
2,5%, năm 1999 là 2%. Năm 2000, GDP của EU tăng 2,6% đạt 9785 tỷ USD,
lớn hơn Mỹ 13%, Nhật 38% (trong đó các thị trường chính như Anh, Pháp, Đức,
Italia chiếm tới 72% GDP của EU). Đến năm 2005, tốc độ tăng trưởng GDP đạt

4
1,8%, năm 2007 đạt 2,6%. Tuy nhiên, tình hình lạm phát ở EU đang có xu
hướng đi lên. Năm 1998, tỷ lệ lạm phát là 1,5%, đến năm 1999 con số này giảm
xuống còn 1,3% nhưng đến năm 2000 lại tăng lên 1,8% vàđến năm 2007 tình
hình lạm phát đã khá cao (lên đến 3,1%) tuy nhiên vẫn ở trong tầm kiểm soát.
Nguyên nhân là do tác động của giá dầu thế giới tăng cao.
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng và lạm phát ở EU
(Tính đến tháng 10/2007)
Nước
GDP
Mức thay đổi (%)
2005 2006 2007* 2008
*
Chỉ số giá tiêu dùng
Mức thay đổi (%)
2005 2006 2007* 2008*
EU 1,8 3,0 2,6 2,4 2,3 2,3 2,3 2,0
Đức 0,8 2,9 2,7 2,2 2,0 1,7 2,0 2,0
Pháp 1,8 2,2 2,0 2,3 1,9 1,9 1,5 1,8
Italia 0,2 1,9 2,0 1,8 2,2 2,2 2,0 2,0
Tây Ban Nha 3,6 3,9 4,0 3,0 3,4 3,6 2,7 2,8
Hà Lan 1,5 2,9 2,5 2,3 1,5 1,7 1,5 1,5
Bỉ 1.4 3,0 2,8 2,3 2,5 2,3 1,8 2,3
Áo 2,0 3,1 3,0 2,5 2,1 1,7 1,8 1,8
Hy Lạp 3,7 4,3 3,3 3,3 3,5 3,3 2,8 2,8
BồĐào Nha 0,5 1,3 2,0 2,0 2,1 3,0 2,3 2,0
Phần Lan 2,9 4,9 4,3 2,5 0,8 1,3 1,7 1,8
Ireland 5,9 5,7 5,0 4,0 2,2 2,7 3,0 2,8
Anh 1,8 2,8 2,9 2,4 2,0 2,3 2,3 1,8
Đan Mạch 3,2 3,3 2,3 2,2 0,5 1,4 2,0 2,2

Thụy Điển 2,9 4,5 3,3 2,8 2,0 2,3 1,9 2,2
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu châu âu
Ghi chú: (*) mức dự báo
Bên cạnh đó các vấn đề xã hội của khu vực EU đãđược giải quyết tốt. Tỷ lệ thất
nghiệp đã giảm xuống trên toàn châu âu nhờ những thành tựu kinh tế mà khu
vực này đạt được: từ 11% dân số thất nghiệp năm 1995 đến năm 1998 tỷ lệ này
giảm còn 10,2%, đến năm 2000 xuống còn 9%.Và thời gian gần đây, nhờ các tác
5
động của sự phát triển kinh tế dự kiến số việc làm mới được tạo trong giai đoạn
2007-2009 sẽ là 8 triệu việc làm, điều này sẽ giúp cho tỷ lệ thất nghiệp của năm
2009 giảm còn 6,6%. Bên cạnh đó EU còn quan tâm hơn đến sức khoẻ của
người dân thông qua việc phát triển các nguồn thực phẩm phục vụ hàng ngày
cũng như tăng cường chất lượng và tiện ích của các dịch vụ trong đời sống như
tiến hành hạ cước phíđiện thoại di động khi thực hiện các cuộc gọi giữa các
nước là thành viên EU, cũng nhưđược quyền lựa chọn nhà cung cấp điện và
khíđốt cho mình. Cũng trong thời gian này Eu cũng rất chúýđến các dịch vụđi
lại tiện ích cũng như bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng như sự kiện Microsoft bị
thua kiện do sử dụng vị thếđộc quyền của mình để giới hạn việc chuyển dữ liệu
với các hệđiều hành qua đó giới hạn khả năng lựa chọn của người dân.
*) Đối với khu vực SNG
Trong những năm đầu thập niên 90, kinh tế của khu vực này liên tục rơi
vào suy thoái giảm sút. So với những năm trước đó, GDP năm 1992 giảm
khoảng 14%, năm 1995 GDP giảm 5,3% trong đó ngay cả những nước được coi
là phát triển nhất của khu vực mhư Nga, Ukraine cũng liên tục sụt giảm kinh tế.
Năm 1992, GDP của Nga giảm 14,5%, của Ukraine giảm 9,9% đến năm 1995
con số này của Nga là giảm 4,1%, của Ukraine là giảm 12,9%. Cũng trong giai
đoạn này mức lạm phát của khu vực luôn ở mức hai con số. Tuy nhiên trong
thời gian từ năm 2000 trở lại đây, kinh tế của khu vực này đã có nhiều khởi sắc.
Mức tăng trưởng kinh tế của khu vực luôn ở mức khá cao như năm 2000 GDP
của khu vực tăng 8,3%, năm 2003 con số này là 7,8% và năm 2005 con số này

là 6,8%. Tuy nhiên mức độ lạm phát của dùđã giảm nhưng vẫn ở mức cao trên
hai con số. Về vấn đề xã hội thì khu vực này vẫn còn nhiều bất ổn về chính trị,
xã hội vẫn còn nhiều biến động, tiêu cực. Đời sống của người dân vẫn còn ở
mức thấp, tỷ lệ người thất nghiệp vẫn còn ở mức cao. Việc thực thi pháp luật
còn lỏng lẻo, tuỳ tiện thiếu nghiêm túc. Điều đóảnh hưởng lớn đến kinh tế xã hội
khu vực này.
6
Bảng 2: Nhịp độ tăng trưởng của một số nước khu vực SNG
trong những năm gần đây
Tên nước 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Belarut 5,8 4,7 4,7 7 11,4 9,2
Nga 9 5 4,3 7,3 7,2 6,4
Ukraine 5,9 9,1 4,1 9,6 12,1 2,6
Grudia 1,9 4,5 5,4 11,1 5,9 9,3
Acmenia 5,9 9,6 12,9 11,2 10,2 26,4
Mondova 2,1 6,1 7,2 6,6 7,4 7,1
Cadacxtan 11,1 9,9 10,6 9,3 9,6 9,5
Nguồn: Tạp chí kinh tế Nga+ www.cisstat.com
1.2.2 Đặc điểm thị trường tiêu thụ thủy sản châu âu
*) Về tập quán, thị hiếu tiêu dùng của thị trường châu âu
Với thị trường EU do mỗi quốc gia có một đặc điểm tiêu dùng riêng nên
có thị trường châu âu có nhu cầu vô cùng phong phú vàđa dạng về các mặt
hàng.Tuy nhiên do có trình độ phát triển kinh tế, xã hội văn hoá khá tương đồng
nên người dân châu âu cũng có các đặc điểm chung khi tiêu dùng. Đối với hàng
thủy sản, người tiêu dùng châu âu ngày nay có xu hướng sử dụng nhiều đồ thủy
sản hơn so với các loại thịt. Ngoài ra họ cũng sẽ không sử dụng các mặt hàng bị
nhiễm độc do các tác động của môi trường hoặc do sử dụng các chất không
được phép theo quy định.Với các sản phẩm thủy sản đãđược chế biến thì họ chỉ
sử dụng các sản phẩm có ghi rõ nguồn gốc xuất xứ, các điều kiện bảo quản.
Hiện nay mặt hàng thủy sản xuất khẩu vào thị trường châu âu đang bị hàng rào

kỹthuật khống chế rất khắt khe. Đặc biệt người tiêu dùng châu âu thích tiêu
dùng các nhãn hiệu nổi tiếng, có chất lượng dù giá cóđắt hơn so với các sản
phẩm khác cùng loại nhưng không có thương hiệu, không đảm bảo chất lượng.
Với thị trường SNG, nhìn chung thị hiếu người tiêu dùng được chia làm
hai loại. Loại một là những người có thu nhập cao thì họ có xu hướng giống với
người tiêu dùng ở thị trường EU là hàng phải có uy tín chất lượng cao, nguồn
7
gốc xuất xứ rõ ràng dù giá có cao cũng được. Loại hai là những người có thu
nhập thấp thì họ chỉ mua hàng rẻ tiền, chất lượng chấp nhận được. Do đó hành
thủy sản của Việt Nam khi xâm nhập thị trường này cần xác định rõđối tượng
khách hàng của mình là ai để có thểđáp ứng nhu cầu của họ.
*) Về kênh phân phối của thị trường châu âu
Hiện nay, hệ thống các kênh phân phối của châu âu được xem là một
trong những hệ thống phức tạp nhất trên thế giới hiện nay. Chúng bao gồm
nhiều thành phần khác nhau trong đó nổi bật là các công ty xuyên quốc gia. Các
công ty này tổ chức mạng lưới tiêu thụ từ khâu mua hàng cho đến khâu phân
phối hàng cho các mạng lưới bán lẻ do đó họ luôn có mối quan hệ vô cùng chặt
chẽ với các nhà thầu nước ngoài. Với các công ty xuyên quốc gia này, hệ thống
phân phối của EU hình thành một mạng lưới rất chặt chẽ. Hai hình thức phổ
biến nhất của các kênh phân phối bao gồm theo tập đoàn và không theo tập
đoàn. Theo hình thức phân phối theo tập đoàn, các nhà sản xuất của tập đoàn chỉ
cung cấp hàng cho các hệ thống cửa hàng, siêu thị của tập đoàn mà không cung
cấp cho các nhà bán lẻ bên ngoài. Còn hình thức không theo tập đoàn thì nhà sản
xuất hay nhập khẩu có thể cung cấp hàng cùng lúc cho nhiều hệ thống bán lẻ
trên thị trường
Bên cạnh các công ty bán lẻ và các siêu thịở thị trường châu âu thường
không mua hàng trực tiếp từ các đầu mối nước ngoài mà thông qua các trung
tâm thu mua lớn ở châu âu. Nhờđó màđảm bảo cho việc cung cấp nguồn hàng
luôn ổn định vàđảm bảo về mặt chất lượng. Hình thức phân phối của thị trường
châu âu tạo ra một chuỗi liên kết rất chặt chẽ thông qua các hợp đồng kinh tế,

vìvậy đây sẽ làđiều khó khăn cho các nhà xuất khẩu muốn xâm nhập thị trường
châu âu (trong đó có Việt Nam ). Chính vì vậy hang thủy sản Việt Nam muốn
xâm nhập thị trường châu âu cần tìm các nhà nhập khẩu để xuất khẩu trực tiếp
(có thể tìm thông qua các đại sứ quán các nước hoặc các thương vụ Việt Nam ở
châu âu) hoặc liên doanh với các công ty xuyên quốc gia ở châu âu để trở thành
công ty con
8
Bảng 3: Các trung tâm thu mua lớn tại châu âu
Nguồn: eurostar
*) Về chính sách
ngoại thương của châu
âu
Đối với liên minh châu âu EU thì tất cả các nước thành viên đều áp dụng một
chính sách ngoại thương chung với các nước ngoài khối. Chính sách ngoại
thương của EU gồm: chính sách thương mại tự do và chính sách thương mại
chung đảm bảo các nguyên tắc không phân biệt đối xử, cạnh tranh công bằng:
+) Biểu thuế quan chung của EU. Khi xem xem xét về vấn đề này thì cần
chúýđến quy định biểu thuế quan liên quan đến xuất xứ của hàng hoá. Đối với
sản phẩm được sản xuất toàn bộ tại lãnh thổ các nước được hưởng ưu đãi thuế
quan GSP thìđược xem như có xuất xứ vàđược hưởng GSP. Với các sản phẩm
sản xuất tại các nước hưởng GSP phải đạt 60% tổng giá trị hàng hoá liên quan,
tuy nhiên đối với một nsố mặt hàng thì con số này có thể thấp hơn. Đây là
những đặc điểm mà các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của Việt Nam cần hết
sức lưu ý khi xuất khẩu hàng sang EU.
+) Để giúp cho hàng hoá của các nước đang phát triển có thể xâm nhập
vào thị trường EU thì liên minh châu âu đãđề ra chương trình hỗ trợ thuế quan
GSP để giúp đỡ cho hàng hoá các nước này. Chương trình này được xây dựng
trên các nguyên tắc tự nguyện, không đòi hỏi cóđi có lại vàđơn phương quyết
định. EU chia sản phẩm dược hưởng GSP thành 4 nhóm chính trong đó các sản
phẩm bán nhạy cảm bao gồm các mặt hàng như thủy sản đông lạnh, hàng công

nghiệp dân dụng được hưởng mức thuế GSP bằng 35% mước thuế suất thông
thường. Đây là mặt hàng được khuyến khích nhập khẩu.
STT Trung tâm Nước Doanh số
(tỷ Franc)
1 Bigr Đức 280
2 Eurogroup Đức 240
3 Cem Bỉ 240
4 Deurobuying Thụy Sĩ 310
5 Naf Đan Mạch 240
9
Trong tương lai thì hàng nhập khẩu của các nước đang phát triển sẽ
không được hưởng GSP nữa khi đó sẽ tạo ra nhiều khó khăn và thách thức đối
với các nước này.
+) Ngoài ra EU còn áp dụng chính sách chống bán phá giá với các hàng
hoá vào thị trường EU. Từ khi gia nhập WTO thì EU chỉđược áp dụng chính
sách chống bán phá giá trong trường hợp các ngành của EU bịảnh hưởng do các
hàng nhạp khẩu bán phá giá. Đến năm 1996 thì quy chếáp dụng chính sách
chống bán phá giá chỉđược áp dụng trong các trường hợp:
-) giá xuất khẩu của sản phẩm bán trên thị trường EU thấp hơn giá bán
các sản phẩm đóở thị trường nước xuất khẩu.
-) hàng xuất khẩu của nước xuất khẩu có thể gây ra tổn thất cho các
ngành kinh doanh ở EU.
-) chi phí mà EU bỏ ra thực hiện các biện pháp không được tỷ lệ nghịch
với lợi ích thu được.
+) Quyền lợi của người tiêu dùng EU phải luôn được bảo vệ do đó EU
đãđề ra các biện pháp bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng của mình. Khác với
trước đây, ngày nay EU đã tiến hành kiểm tra các sản phẩm buônlưu thông trên
thị trường ngay từ nơi sản xuất và các nước thuộc EU đã có sự liên kết với nhau
đểđảm bảo an toàn ngày càng cao cho người tiêu dùng. Ngoài ra các tổ chức
nghiên cứu đại diện cho quyền lợi người tiêu dùng cũng đưa ra các quy chế

chuẩn theo từng quốc gia hay dùng chung cho toàn EU. Hiện nay ở EU tồn tại
song song cùng lúc các cơ quan định chuẩn làủy ban châu âu vềđịnh chuẩn, ủy
ban châu âu vềđịnh chuẩn điện tử, viện định chuẩn viễn thông châu âu. Dưới
đây là một số quy chế bảo đảm an toàn mà EU áp dụng với những loại sản phẩm
tiêu dùng trong đó với sản phẩm thủy đóng hộp (như thủy sản đóng hộp) phải
ghi rõ tên sản phẩm, thành phần, nhãn mác, trọng lượng tịnh, thời gian bảo quản,
cách sử dụng, nơi sản xuất, điêù kiện bảo quản. Còn với sản phẩm thủy sản tươi
sống thì cần phải vượt qua được sự kiểm tra sát sao của các cơ quan kiểm tra
10
chất lượng của EU và phải đăng ký . Nếu được các cơ quan có thẩm quyền cho
phép thì mới được lưu thông trên thị trường EU.
+) Bên cạnh đó EU còn áp dụng các hàng rào phi thuế quan như:
-) Hạn ngạch: là công cụđể hạn chế số lượng hoặc giá trị một số mặt
hàng nhập khẩu vào EU và nó cũng ảnh hưởng tới việc phân bổ hạn ngạch cho
các nước đang phát triển theo chương trình GSP. Hiện một số mặt hàng thủy sản
của Việt Nam đang phải chịu sự quản lý này.
-) Hàng rào kỹ thuật: là quy chế nhập khẩu chung và là biện pháp bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng EU thông qua 5 tiêu chuẩn bắt buộc của sản phẩm
gồm tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, tiêu chuẩn an toàn,
tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và tiêu chuẩn về lao động. Trong đó các mặt hàng
như thủy sản phải thực hiện nghiêm túc các tiêu chuẩn này. Nếu thiếu bất kỳ
một tiêu chuẩn nào thì các mặt hàng (trong đó có thủy sản) sẽ gặp rất nhiều khó
khăn khi muốn xâm nhập và phát triển trên thị trường này.
-) Các công cụ hành chính khác để quản lý nhập khẩu. Ngoài các biện
pháp đãáp dụng như chính sách chống bán phá giá, chống trợ cấp xuất khẩu thì
EU còn áp dụng một số các biện pháp khác như không nhập khẩu các mặt hàng
ăn cắp bản quyền. Bên cạnh đó thì trong một thời gian dài EU coi Việt Nam là
một nước không có nền kinh tế thị trường do đó hàng hoá của Việt Nam luôn
bịđối xử phân biệt gây bất lợi cho các mặt hàng của Việt Nam. Mãi cho tới
14/05/2000 thì EU mới chính thức coi Việt Nam là một nước áp dụng kinh tế thị

trường thì hàng hoá của Việt Nam mới được đối xử công bằng như các nước
khác.
Với thị trường SNG, trong những năm gần đây các nước của khu vực này
đã thông qua nhiều văn bản luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh , thương mại
thuế tạo điều kiện cho hàng hoá các nước xâm nhập thị trường này. Và với Việt
Nam, dùđã có nhiều động thái tích cực song lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam
sang khu vực này vẫn rất hạn chế (bao gồm cả thủy sản).
1.3 Các nhân tốảnh hưởng tới xuất khẩu thuỷ sản
11
1.3.1 Các nhân tố bên trong
+) Nguồn lực con người
Từ xưa đến nay con người luôn có một vai trò vô cùng quan trọng trong
mọi hoạt động của đời sống. Ngày nay khi máy móc, thiết bị hiện đại phát triển
thì vai trò của con người ngày càng quan trọng hơn. Máy móc phải có con người
diều khiển mới có thể vận hành tốt, làm ra những sản phẩm, hàng hoá cóích.
Một doanh nghiệp muốn phát triển phải có người lãnh đạo, đề ra các mục tiêu
chiến lược, các định hướng đểđạt được các mục tiêu đó. Cũng cần có con người,
đặc biệt là những người có trình độ cao để tiếp nhận các thông tin, từđó tiến đến
xử lý các thông tin rồi ra các quyết định cho phù hợp. Bởi vậy nguồn lực con
người có tính quyết định tới sự thành công hay thất bại của một dựán, công
trình. Trong ngành xuất khẩu thuỷ sản cũng vậy, nếu những người lãnh đạo
không có năng lực không đề ra được các chiến lược phương hướng đúng đắn,
công nhân không có tay nghề cao thì sản lượng thuỷ sản xuất khẩu đi sẽ thấp và
ngược lại.
+) Năng lực tài chính
Năng lực tài chính có thểđược hiểu là quy mô vốn và khả năng thanh
toán của mỗi doanh nghiệp. Điều đó cho phép doanh nghiệp thường xuyên nâng
cao, cải tiến về kỹ thuật công nghệ từđó góp phần nâng cao chất lượng sản
phẩm, thay đổi mẫu mã cho phù hợp thị hiếu người tiêu dùng. Đối với mặt hàng
thủy sản thì vấn đề về tài chính cũng vô cùng quan trọng. Nếu một doanh nghiệp

xuất khẩu thủy sản có khả năng tài chính lớn thì doanh nghiệp đó sẽ có nhiều cơ
hội thâm nhập các thị trường cũng như khả năng tiêu thụ các sản phẩm cao hơn.
+) Năng lực công nghệ
Làđiều kiện để có thể tăng sức cạnh tranh của các mặt hàng do tạo ra
được các sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mãđẹp, giá thành hạ từđó có thể xâm
nhập vào các thị trường các nước và có thể cạnh tranh với hàng hoá các nước
đó. Điều này rất quan trọng đói với ngành xuất khẩu thủy sản của ta do các thị
trường thủy sản lớn của ta đều là các thị trường khó tính đòi hỏi chất lượng sản
12
phẩm rất cao như thị trường EU, Nhật, Mỹ. Do đó năng lực công nghệ có vai trò
thúc đẩy để hàng thủy sản Việt Nam có thể xuất khẩu sang các nước bạn.
+) Văn hoá doanh nghiệp
Văn hoá doanh nghiệp có thểđược hiểu là cách ứng xử của những người
trong cùng một doanh nghiệp với nhau hoặc giữa những người trong doanh
nghiệp với các đối tác, khách hàng của doanh nghiệp.
Văn hoá doanh nghiệp ở mỗi doanh nghiệp thì rất khác nhau do nóđược
xây dựng từ các triết lý kinh doanh và các sứ mệnh khác nhau mà doanh nghiệp
đang theo đuổi. Vàđó cũng là sự khác biệt giữa các doanh nghiệp.
Nếu văn hoá doanh nghiệp được xây dựng trên cơ sở hoà thuận, thân
thiện thì nó sẽ tạo điều kiện cho các nhân viên trong doanh nghiệp phát huy hết
khả năng cũng như sức sáng tạo của mình để cống hiến cho công ty. Ngược lại
thì các nhân viên sẽ chán nản không thích cống hiến nhiều khi gây ra không khí
thùđịch, gây mất đoàn kết nội bộ. Do đó văn hoá doanh nghiệp ảnh hưởng đến
khả năng phát triển của một doanh nghiệp. Chính vì vậy các doanh nghiệp muốn
phát triển phải tạo ra được một sựđồng lòng trong nội bộ, sự bình đẳng để người
lao động yên tâm đóng góp cho doanh nghiệp.
1.3.2 Các nhân tố bên ngoài
+) Về chính trị
Một quốc gia muốn thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào để phát triển thị
trường trong nước thì yếu tốđầu tiên phải tính đén đó là chính trị. Không một

nhàđầu tư nước ngoài nào lại đem tiền của mình đầu tư vào một nước có nền
chính trị mất ổn định, đảo chính bạo loạn đánh nhau xảy ra triền miên bởi những
yếu tốđó sẽ gây ra các rủi ro mà họ không lường trước được và khả năng mất
trắng là rất lớn. Bởi vậy yếu tố chính trị có tác động rất lớn đến các hoạt động
kinh tế cũn như hoạt động xã hội khác( xuất khẩu thủy sản cũng không nằm
ngoài quy luật đó).
+) Về chính sách pháp luật
13
Bất kỳ quốc gia nào muốn tồn tại và phát triển đều phải có hệ thống
chính sách và pháp luật đồng nhất. Trong quá trình xuất khẩu và phát triển kinh
tế cũng vậy, chính sách pháp luật có vai trò vàảnh hưởng lớn đến các quyết định
của các nhàđầu tư cũng như các nhà xuất khẩu. Một quốc gia nếu có chính sách
pháp luật thuận lợi, hợp lý sẽ thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển nhanh cũng
như thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài hơn nếu chính sách pháp luật không
hợp lý gây khó khăn cản trở cho các hoạt động giao lưu trao đổi mua bán. Đối
với hoạt động xuất khẩu thủy sản thì chính sách này càng cóý nghĩa quan trọng.
Các đơn vị xuất khẩu phải tìm hiểu rõ các chính sách pháp luật của thị trường
mình định xuất khẩu sang tránh các trường hợp vi phạm có thể dẫn tới bị phạt
gây ảnh hưởng đến số lượng và kim ngạch xuất khẩu.
+) Về cạnh tranh
Một thị trường nếu có nhiều nhà cung cấp cùng cạnh tranh với nhau thì
thị trường đó sẽ không còn hấp dẫn đối với các nhàđầu tư cung cấp mới. Thực
chất khi một thị trường có quá nhiều đói thủ cạnh tranh thì việc các đói thủ
không cóđủ tiềm lực năng lực bị loại khỏi cuộc đua làđiều dễ hiểu. Bên cạnh đó
co nhiều đói thủ thì lợi nhuận kỳ vọng sẽ bị giảm chưa kểđến những kẻđến sau
sẽ rất khó chiếm được thị trường do những kẻđến trước đã giành được. Mà các
doanh nghiệp của Việt Nam thì tiềm lực có hạn, chất lượng sản phẩm dùđã có
cải thiện tuy nhiên để cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn thìđó làđiều hết sức
khó khăn. Do vậy cạnh tranh cũng là yếu tố tác động lớn đến việc lựa chọn thị
trường và hình thức kinh doanh của doanh nghiệp.

+) Về thị hiếu tập quán của người tiêu dùng nước nhập khẩu
Đây là một yếu tố mà các nhà xuất khẩu muốn đạt được thành công phải hết sức
chúý. Nếu các sản phẩm ta xuất khẩu sang thị trường đó phù hợp với nhu cầu thị
hiếu cuỉa họ thì việc tiêu thụ sản phẩm không gặp khó khăn tuy nhiên nếu các
sản phẩm xuất khẩu không phù hợp với thị hiếu tập quán của họ thì hàng không
thể bán gây khó khăn, thất thu cho doanh nghiệp. Như với thị trường EU, họ tẩy
chay các loại thủy sản có chứa khuẩn Salmonella, độc tố Lustamine, nhiễm
14
V.Cholarae nếu các doanh nghiệp cứ xuất khẩu các loại thủy sản này thì không
thể tiêu thụ sản phẩm. Bởi vậy, khi xuất khẩu hàng sang thị trường nào cần
nghiên cứu kỹ các đặc điểm tập quán, thị hiếu, chính sách để từđó có các đường
lối chính xác.
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu thủy sản sang thị trường châu
âu
2.1 Thực trạng về xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
2.1.1 Thực trạng về tình hình tăng trưởng của thủy sản
Từ trước năm 1981, do đất nước có chiến tranh và những năm sau đó
phải chú trọng khôi phục kinh tế sau chiến tranh và các cơ chế quản lý không
hợp lý cho nên kinh tế thuỷ sản ở thời kỳ này gặp rất nhiều khó khăn. Đến năm
1981, ngành thuỷ sản đãđề xuất áp dụng cơ chế gắn sản xuất với thị trường và
chính đề xuất này đã mởđường cho ngành sự tăng trưởng của ngành thuỷ sản
trong những năm sau này. Vàđến năm 1993, hội nghị ban chấp hành trung ương
Đảng lần thứ năm 5 khoá VII đã quyết định xây dựng ngành thuỷ sản thành
ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta.
Trong thời kỳ này, các định hướng cho các lĩnh vực của ngành thủy sản
đều hướng vào phục vụ cho xuất khẩu. Chính vì vậy ngành đã dẩy mạnh áp
dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ vào sản xuất, tiến hành các hoạt
động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu, đáp ứng các quy định
về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm nhờđó có thể xâm nhập vào các thị
trường lớn. Nhờđó ngành thuỷ sản đãđật được những kết quả rất khả quan trong

những năm qua:
+) Về cơ cấu sản lượng thuỷ sản
Năm 1981, tổng sản lượng chỉđạt có 596356 tấn (trong đó khai thác
đạt 416356 tấn, nuôi trồng chiếm 180000 tấn). Năm 1986, sản lượng tăng lên
840906 tấn (trong đó khai thác chiếm 598040 tấn còn nuôi trồng đạt 242866
tấn). Nhưng đến năm 2000, tổng sản lượng thuỷ sản đã vượt ngưỡng 2 triệu tấn,
năm 2003 tổng sản lượng đạt 2536361 tấn (trong đó khai thác đạt 1426223 tấn,
15
còn nuôi trồng là 1110138 tấn).Vàđến năm 2005 sản lượng đãđạt tới 3432800
tấn (trong đó khai thác là 1995400, nuôi trồng là 1437400 tấn). Đến năm 2007,
tổng sản lượng thuỷ sản đạt 4,5 triệu tấn tăng 11,5% so với năm 2006 ( trong đó
khai thác đạt 2,06 triệu tấn tăng 1,8% so với năm 2006, nuôi trồng đạt 2,1 triệu
tấn tăng 23,1% so với năm 2006).
+) Về diện tích nuôi trồng thuỷ sản
Diện tích nuôi trồng thủy sản cũng tăng liên tục kể từ năm 1981 chỉđạt
230000 ha, đến năm 1986 tăng lên 384.6 ha vàđến nay thì diện tích nuôi trồng
thủy sản đạt khoảng hơn 1 triệu ha. Như vậy ngành nuôi trồng thủy sản đang
từng bước trở thành một trong những ngành sản xuất chủ lực đông vai trò vô
cùng quan trọng đói với sự phát triển của ngành thuỷ sản nói riêng và các ngành
sản xuất hàng hoá nói chung.
+) Về năng lực tàu thuyền khai thác
Trong ngành khai thác thủy sản, trước đây nước ta chỉ hoạt động với
quy mô nhỏ, khai thác gần bờ thì giờđây đã phát triển thành đánh bắt xa bờ với
đối tượng là các sản phẩm có giá trị và xuất khẩu. Bên cạnh đó là tiếp tục ổn
định, vừa khai thác vừa bảo vệđối với nguồn tài nguyên ven bờ, môi trường sinh
thái. Và từ năm 1991 đến nay số thuyền máy tăng nhanh: năm 1991, số lượng
tàu thuyền máy có 44347 chiếc chiếm 59.6% tổng số thuyền đánh bắt; đến năm
2003 tổng số thuyền máy là 83123 chiếc tổng công suất đạt 3497457 CV, gấp
năm 5 lần năm 1991. Số thuyền có công suất cao dùng đánh bắt xa bờ cũng tăng
khá nhanh trong thời gian qua, từ 5000 chiếc năm 1997 đến năm 2003 là 6258

chiếc do đó tỷ trọng khai thác xa bờđã tăng nhanh chóng, năm 2003 đãđạt
38.8%.
+) Về dịch vụ hậu cần khai thác
Lực lượng tàu làm dịch vụ hậu cần nhằm phục vụ cho tàu khai thác xa
bờ có thểở trên biển dài ngày giảm chi phíđi lại và nâng cao chất lượng sản
phẩm. Tuy nhiên nưng lực của loại tàu này hiện còn thâpso với nhu cầu (mới
chiếm 1% về sản lượng và 3% về công suất trong tổng công suất tàu thuyền cơ
16
giới. Hệ thống cảng cá mới có 49/75 cảng cá tại 25 tỉnh thành phốđược đưa vào
sử dụng. Tuy các cảng đã phát huy được tác dụng dịch vụ hậu cần nhưng nhiều
nơi đã bị quá tải. Về lực lượng khai tháchiện có 900 ngàn lao động. Trong đó lao
động gần bờ và xa bờ có tỷ lệ là 2/3 và 1/3. Nhưng chất lượng lao động còn
thấp.
Bảng 4: Kết quả thực hiện kế hoạch hàng năm của ngành thủy sản
Năm
Tổng sản
lượng thủy
sản (tấn)
Sản lượng
khai thác
hải sản (tấn)
Sản lượng
nuôi thủy
sản (tấn)
Giá trị xuất
khẩu (1000
USD)
Tổng số
tàu
thuyền

(chiếc)
Diện tích
mặt nước
NTTS (ha)
1990 1.019.000 709.000 310.000 205.000 72.723 491.723
1991 1.062.163 714.253 347.910 262.234 72.043 489.833
1992 1.097.830 746.570 351.260 305.630 83.972 577.538
1993 1.116.169 793.324 368.604 368.435 93.147 600.000
1994 1.211.496 878.474 333.022 458.200 93.672 576.000
1995 1.344.140 928.860 415.280 550.100 95.700 581.000
1996 1.373.500 962.500 411.000 670.000 97.700 585.000
1997 1.570.000 1.062.000 481.000 776.000 71.500 600.000
1998 1.668.530 1.130.660 537.870 858.600 71.799 626.330
1999 1.827.310 1.212.800 614.510 971.120 73.397 630.000
2000

2.003.000 1.280.590 723.110 1.478.609 79.768 652.000
2001

2.226.900 1.347.800 879.100 1.777.485 78.978 887.500
2002 2.410.900 1.434.800 976.100 2.014.000 81.800 955.000
2003 2.536.361 1.426.223 1.110.138 2.199.577 83.122 902.229
2004 3.073.600 1.923.500 1.150.100 2.400.781 85.430 902.900
2005 3.432.800 1.995.400 1.437.400 2.738.726 90.880 959.900
2006 3.695.927 2.001.656 1.694.271 3.357.960
Chưa xác
định
1.050.000
Nguồn: Báo cao tổng kết hàng năm của bộ thủy sản
2.1.2 Tình hình về xuất khẩu thủy sản của Việt Nam

17
*) Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam
Tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong những năm gần đây
đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao. Nếu như năm 1990, kim ngạch xuất khẩu
chỉđạt có 205 triệu USD thìđến năm 1998 con số này đã là 858,6 triệu USD. Vậy
là chỉ trong vòng có 8 năm kim ngạch xuất khẩu đã tăng gấp hơn 4 lần, đặc biệt
năm 2000 đánh dấu một cột mốc quan trọng của ngành xuất khẩu thủy sản đó là
kim ngạch xuất khẩu của thủy sản đãđạt tới con số 1478 triệu USD trở thành
một trong sốít các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vượt qua được con số 1 tỷ
USD và có tốc độ phát triển vượt bậc so với năm trước ( tới 52,5%). Đến năm
2002, kim ngạch của ngành đãđạt tới cột mốc hơn 2 tỷ USD bằng tổng giá trị
kim ngạch của giai đoạn 1980-1995 . Tiếp theo những bước tăng trưởng khá cao
đó năm 2006 thì kim ngạch ngành thủy sản đã vượt qua con số 3 tỷ USD (chính
xác đạt 3,3579 tỷ USD) và trong năm 2007 con số này là 3.8 tỷ USD. Dự báo
đến năm 2008 con số này sẽ vượt ngưỡng 4 tỷ USD. Trong số các mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam thì thủy sản luôn duy trìđược vị trí của mình (thứ tư
sau dầu thô, giày dép, quần áo) vàđóng góp lớn vào sự phát triển của kinh tế
nước nhà. Và cũng trong giai đoạn từ năm 1992 đến nay vị trí của ngành thủy
sản đãđược cải thiện đáng kể trên trường quốc tế từ không đáng kể năm 1992 đã
vươn lên đứng thứ 8 năm 2002. Cũng trong gian đoạn từ năm 2003 trở lại đây,
xuất khẩu thủy sản của Việt Nam luôn gặp phải những rào cản và khó khăn lớn,
điển hình là các vụ kiện hàng thủy sản Việt Nam bán phá giáở thị trường Mỹ
nhưng ngành thủy sản vẫn đạt được tốc độ phát triển ( như bảng 5) thìđó là một
điều hết sức đáng khen ngợi.
18
Bảng 5: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
Năm
Sản lượng xuất
khẩu thủy sản
(1000 tấn)

Kim ngạch xuất
khẩu thủy sản
(triệu USD)
Tỷ lệ tăng trưởng
về kim ngạch so
với năm trước
(%)
1996 150,52
670.000
-
1997 206,39
776.000
15,82
1998 200,55
858.600
10,64
1999 229,96
971.120
13,1
2000 291,92
1.478.609
52,26
2001 358,83
1.777.485
20,21
2002 444,04
2.014.000
13,31
2003 458,5
2.199.577

9,21
2004 518,747
2.400.781
9,15
2005 634,499
2.738.726
14,08
2006 821,679
3.357.960
22,61
2007 3.800.000 13,2
Nguồn: Tổng hợp từ tình hình xuất khẩu thủy sản các năm của Việt Nam
*) Cơ cấu các mặt hàng thủy sản của Việt Nam
Trong nhiều năm qua, bên cạnh kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng
trưởng khá cao thì cơ cấu về các mặt hàng xuất khẩu thủy sản cũng có những
thay đổi đáng kể. Đến nay mặc dù xuất khẩu tôm vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong xuất khẩu thủy sản nhưng tỷ trọng đã giảm đi đáng kể nhường chỗ cho sự
vươn lên của xuất khẩu cá, mực, bạch tuộc và các sản phẩm thủy sản khác.
Mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất là tôm. Trong nhiều năm liên
tiếp tom luôn giữ vị tríđứng đầu về kim ngạch xuất khẩu trong xuất khẩu thủy
19
sản của Việt Nam. Nếu như năm 1986, xuất khẩu tôm chiếm tới 64% kim ngạch
xuất khẩu thìđến giai đoạn hiện nay mặc dù xuất khẩu tôm vẫn chiếm tỷ trọng
lớn nhất nhưng đã có những thay đổi đáng kể. Năm 2001, tỷ trọng tôm trong
kim ngạch xuất khẩu thủy sản là 43,8%, năm 2003 là 48,1% thìđến năm 2005
con số này là 49,7% và năm 2006 là 39,8%.
Mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ hai là cá. Năm 1986, xuất
khẩu cáđóng góp vào kim ngạch xuất khẩu gần như là con số không. Nhưng
những năm gần đây thì sản lượng cá xuất khẩu tăng khá mạnh và tỷ trọng đóng
góp vào tổng kim ngạch xuất khẩu là khá lớn. Năm 1998 là 11,4%, năm 2002 là

21,7%, năm 2004 là 22,8%, năm 2005 là 20,27%. Riêng việc xuất khẩu cá tra,
cá basa đang có xu hướng phát triển mạnh.
Tiếp theo là mực và bạch tuộc. Sản lượng khai thác ở mức thấp. Trong
năm 2005 đạt kim ngạch xuất khẩu là 182253 triệu USD chiếm khoảng 7% tổng
giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản.
Tiếp theo là các mặt hàng khô ( như mực khô, tôm khô, cá khô) chiếm
khoảng 5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2005 vàđến năm 2006 con số
này là 5,2 %. Như vậy mặt hàng này có tốc độ phát triển chậm dần và có xu
hướng giảm trong những năm sắp tới.
Bảng 6: Giá trị xuất khẩu của các mặt hàng thủy sản chính
Mặt hàng 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Tôm 761,5 966,7 1058 1261 1371,55
6
1460,59
Cá 310,1 462,8 466,5 552,4 687,65
9
1145,09
Mực và bạch tuộc 118,4 142,8 113,9 162,5 182,25
3
222,19
20
Hàng khô 188,5 138,3 73,7 101,9 130,35
4
142,2
Thủy sản khác 379 312,2 504,4 323 367,17
8
378,23
Nguồn: Tạp chí thương mại thủy sản VASEP- Bộ thủy sản
*) Cơ cấu về thị trường xuất khẩu thủy sản
Nếu như trước đây thị trường xuất khẩu thủy sản của nước ta còn hết

sức hạn hẹp thì giờđây thủy sản của Việt Nam đã xuất hiện ở hầu hết các vùng
và lãnh thổ trên thế giới, trong đó riêng 3 thị trường chính là EU, Hoa Kỳ và
Nhật Bản đã chiếm tới khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2005
vàđến năm 2006 con số này là 66,4%.
Trong đóđứng đầu là thị trường Nhật Bản. Trong những năm của thập
kỷ 90 Nhật Bản luôn là nước nhập khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam, chiếm
tới khoảng hơn 50% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Nhưng đến
những năm đầu của thiên niên kỷ mới, do kinh tế suy thoái cho nên Nhật Bản đã
phải nhường lại vị tríđứng đầu cho Hoa Kỳ (từ năm 2001-2004). Bắt đầu từ năm
2005 Nhật Bản đã lấy lại vị thế của mình với kim ngạch hàng năm là
823,953603 triệu USD năm 2005 vàđến năm 2006 co số này là 842,613677 triệu
USD.
Thị trường tiếp theo đó là thị trường Hoa Kỳ. Hoa Kỳđược xem là một
trong những thị trường mới của ngành thủy sản tuy nhiên thị trường này đã có
những bước phát triển rất đáng kể. Đặc biệt giai đoạn 2001-2004, Hoa Kỳ trở
thành thị trường tiêu thụ thủy sản lớn nhất của nước ta do đây là thị trường có
sức tiêu thụ lớn và không quá khắt khe về chất lượng như các thị trường lớn
khác như Nhật và EU. Chính vì vậy các doanh nghiệp của Việt Nam coi đây là
thị trường hàng đầu.Tuy nhiên đến năm trong những năm gần đây các sản phẩm
thủy sản của Việt Nam bị kiện do bán phá giáở Mỹ do đó tốc độ tăng trưởng ở
thị trường này bị suy giảm.
Thị trường lớn thứ ba là thị trường EU. Đâylà một thị trường có tiềm
năng rất lớn về nhu cầu cũng như có mức sống của người dân vào loại cao nhất
21
của thế giới. Tuy nhiên do những đòi hổi hết sức khắt khe về tiêu chuản cũng
như an toàn vệ sinh thực phẩm mà trước đây thủy sản của Việt Nam không thể
xân nhập thị trường này. Mãi đến năm 1996, thủy sản Việt Nam mới có cơ hội
vào thị trường này nhờ sợ giúp đỡ của Đan mạch và từđóđã có những bước phát
triển đáng kể. Đến năm 2005, kim ngạch xuất khẩu thủy sản vào EU đạt
441,371591 triệu USD đứng chiếm 16,13% tổng kim ngạch xuất khẩu. Đến năm

2006 con số này đãđạt tới 723,504870 triệu USD chiếm 21,54% và vươn lên
đứng thứ hai trong số các thị trường xuất khẩu lớn nhất của thủy sản Việt Nam
(sauu Nhật Bản). Nhưng theo dự báo trong những năm tới EU sẽ trở thành thị
trường xuất khẩu lớn nhất của thủy sản Việt Nam do EU vẫn tiếp tục được mở
rộng, tiếp nạp nhiều thành viên mới do đó những con số như hiện nay chưa phản
ánh hết nhu cầu của khu vực này.
Bảng 7: Các thị trường xuất khẩu của thủy sản Việt Nam
Thị
trường
2005 2006 8 tháng đầu
2007
Số lượng
(tấn)
Giá trị
(USD)
Số lượng
(tấn)
Giá trị
(USD)
Số lượng
(tấn)
Giá trị
(USD)
Nhật
Bản
129284,
6
82395360
3
123889,

1
84261367
7
64351,
2
39623309
6
EU 132350,
2
44137159
1
219967 72350487
0
162139,
2
52787280
1
Hoa Kỳ 92859,
1
64414562
9
98824,
3
66419552
7
56240,
6
41358921
7
Châu Á

(trừ
Nhật,
ASEAN
)
166771,
3
44238245
1
176160,
6
49379868
0
111860,
5
34063190
7
Châu
Âu (trừ
18554,
7
6044629
0
73921 17420854
7
46181,
3
11847127
3
22
EU)

ASEAN 49195,
1
12515112
6
60295,
7
15088710
1
39487,
8
10810848
9
Châu
Mỹ (trừ
Mỹ)
20645,
2
9268831
5
28661,
8
12437415
2
20809,
2
8604365
8
Châu
Đại
Dương

23185,
7
10235284
4
25849,
6
13358340
6
13146,
8
6882019
1
Châu
Phi
1653,
7
437345
7
3941,
7
922072
6
4993,
2
1373590
2
Nguồn:www.fistenet.gov.
2.2 Thực trạng xuất khẩu thủy sản sang thị trường châu âu
*) Đối với thị trường EU:
Từ năm 1980, thủy sản của Việt Nam đã xuất hiện trên thị trường và ngay

khi xuất hiện đã tạo được những ấn tượng tốt với người tiêu dùng EU. Đây là
một thị trường rộng lớn có tiềm năng phát triển rất cao song lại cóđòi hỏi rất cao
về an toàn vệ sinh thực phẩm, mà công nghệ Việt Nam ở thời kỳ những năm đầu
thập kỷ 90 lại lạc hậu cũ kỹ không đáp ứng được đòi hỏi của thị trường nàycho
nên kim ngạch xuất khẩu thủy sản vào thị trường nay trong thời kỹđó là không
cao. Nhưng nhờ quá trình đổi mới thiết bị cũng như quan tâm hơn đến việc giám
sát dư lượng kháng sinh có hại màđến tháng 11/1999, Việt Nam đãđược công
nhận vào danh sách 1 (list A) các nước xuất khẩu thủy sản vào EU, sản phẩm
được công nhận về pháp lýđể khẳng định chỗđứng trên thị trường EU vàđến
tháng 01/ 01/ 2006 đã có 171 doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
được cấp giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn về chất lượng, vệ sinh an toàn thực
phẩm để xuất khẩu sang thị trường EU. Từ năm 1996 -1999, kin ngạch xuất
khẩu thủy sản của Việt Nam tăng với tốc độ trung bình vào khoảng 54,92%/
năm. Trong đó năm 1996 kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 26,9 triệu USD, năm
23
1997 là 65 triệu USD, năm 1998 là 92,5 triệu USD. Đến năm 1999 kim ngạch
xuất khẩu thủy sản giảm xuống còn 89,1 triệu USD do EU tăng yêu cầu đòi hỏi
về an toàn vệ sinh thực phẩm với các mặt hàng thủy sản xuất khẩu. Tuy nhiên
nhờ sự nỗ lực của mình mà kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đã tăng
trưởng trở lại. Đến năm 2003 con số này đã là 116,7 triệu USD, đến năm 2005
thì con số này đã dạt tới 441,37 triệu USD, năm 2006 là 723,5 triệu USD vàđến
năm 2007 thì kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường EU đạt
920 triệu USD tăng 27% so với năm 2006 (đứng thứ hai thế giới sau Mỹ 1,1 tỷ
USD). Thủy sản cũng là mặt hàng xuất khẩu nhiều thứ tư của Việt Nam vào thị
trường EU. Tuy có những bước phát triển nhanh chóng như vậy song cho đến
nay thì tỷ trọng thủy sản xuất khẩu vào EU của Việt Nam chỉ chiếm có 0,3 -
0,4% giá trị xuất khẩu thủy sản sang thị trường này.
Bảng 8: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang thị trường EU
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Kim ngạch

(tr USD)
71,8 90,7 73,7 116,7 231,5 441,37 723,50
Khối lượng
(tấn)
20290,8 26659,1 28612,8 38186,8 73459,2 123350,2 219967
Nguồn: Trung tâm tin học-bộ thủy sản
Sản phẩm thủy sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam bao gồm cá, tôm, cá ngừ,
bạch tuộc, mực vàđồ hộp. Mặt hàng thủy sản đầu tiên là tôm đông lạnh. Kim
ngạch xuất khẩu tôm đông lạnh của Việt Nam sang thị trường EU năm 2000 đạt
38,6 triệu USD, năm 2001 là 43,6 triệu USD nhưng đến năm 2002 kim ngạch
chỉ còn 15,7 triệu USD. Nguyên nhân chủ yếu là do EU thự hiện chính sách bảo
24
đảm an toàn cho người tiêu dùng quy định dư lượng kháng sinh bằng không hay
chính xác là dưới 0,3 phần tỷ. Đây có thể coi là một yêu sách vô lý của EU. Thời
gian tiếp theo thì xuất khẩu tôm đã có dấu hiệu tăng trưởng trở lại. Năm 2003
Việt Nam đã xuất khẩu sang EU khoảng 5316 tấn tôm tăng 28% so với năm
2002 vàđến năm 2004 thì tôm Việt Nam có xu hướng xâm nhập vào các thị
trường mới tại EU. Cáđông lạnh cũng có xu hướng tăng xuất khẩu sang thị
trường EU. Năm 2003 xuất khẩu cá sang thị trường này đã vượt qua tôm cả về
khối lượng lẫn giá tri, vươn lên đứng thứ hai chỉ sau xuất khẩu vào thị trường
Hoa Kỳ (141 triệu USD) và chiếm 20% tổng giá trị xuất khẩu cá của Việt Nam
(552 triệu USD). Năm 2004 xuất khẩu cá sang thị trường EU đạt 231,5 triệu
USD chiếm gần 50% giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường
này.
Về các thị trường xuất khẩu thủy sản chính của Việt Nam trong năm 2005
thì Bỉ là nước có tỷ trọng xuất khẩu lớn nhất chiếm tới 18% tổng kim ngạch xuất
khẩu thủy sản Việt Nam sang EU. Kếđến làĐức (16%), Italia(15%), Tây Ban
Nha (12%), Hà Lan (10%), Anh và Pháp (9% mỗi nước), Ba Lan (3%), BồĐào
Nha (2%), Đan Mạch và Hy Lạp (1% mỗi nước).
+) Bỉ là bạn hàng số một của Việt Nam tại thị trường EU. Trong những năm

đầu thiên niên kỷ mới mặc dù kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang
Bỉ có giảm do những rào cản về kỹ thuật song đến năm 2005 thì xuất khẩu thủy
sản sang Bỉđạt 19,5 nghìn tấn (đứng thứ tư EU), vàđạt giá trị 76,48 triệu USD
(cao nhất EU). Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Bỉ bao gồm
tôm, ghẹ, cáđông lạnh trong đó nhập khẩu tôm đứng đầu Eu cả về khối lượng và
giá trị .
+) Đức là thị trường lớn thứ hai đối với xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
trong thị trường EU. Năm 2005 xuất khẩu sang Đức đạt 19,9 nghìn tấn vàđạt giá
trị 67,8 triệu USD trong đó cáđông lạnh đạt 39,45 triệu USD ( cá tra chiếm 57%
đạt giá trị 22,6 triệu USD) đứng thứ hai trong các nước nhập khẩu mặt hàng này
của EU, tôm đông lạnh đạt 23,47 triệu USD, là thị trường nhập khẩu cá ngừ lớn
25

×