Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM VỀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ c NAM TRONG THỜI ĐẠI MỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.76 KB, 21 trang )

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Tên đề tài:
PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM VỀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ GIA ĐÌNH VIỆT NAM
TRONG THỜI ĐẠI MỚI

1


MỤC LỤC

PHẦN 1. MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đang thực hiện
q trình cơng nghiệp hố- hiện đại hố mà thực chất là sự chuyển đổi căn bản toàn
diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, nghiệp vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công
nghệ hiện đại và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo nên năng suất lao động xã hội cao.
Cùng với sự phát triển của xã hội, nhiều vấn đề mới nảy sinh, trong đó có vấn đề gia
đình cũng có nhiều biến đổi phức tạp và trở thành một vấn đề thời sự được nhân
loại quan tâm. Tuy nhiên, sự chuyển biến kinh tế xã hội mạnh mẽ đó khơng thể tác
động sâu đến gia đình, một thiết chế lâu đời, bền vững song cũng rất nhạy cảm với
mọi sự biến đổi của xã hôi. Xuất phát từ bối cảnh đó khiến chúng ta phải đặt ra vấn
đề: quan điểm về xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Từ thực tế hiện nay đề xuất giải pháp xây dựng và củng cố gia đình Việt Nam
trong thời đại mới ? Đó là đề tài mà em lựa chọn để củng cố hơn về kiến thức cho
môn học này.
Trong q trình tham khảo và làm tiểu luận khơng tránh khỏi những sai xót
rất mong q thầy cơ góp ý và chỉnh sửa để em rút kinh nghiệm và hoàn thiện tốt
hơn ở các bài sau.



2


PHẦN 2. NỘI DUNG
2.1. Mục tiêu
- Phân tích quan điểm về xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
- Từ đó đưa ra những giải pháp củng cố xây dựng gia đình trong thời đại mới.
- Giúp cho sinh viên có cái nhìn thực tế, đúng đắn và có trách nhiệm hơn với gia
đình, xây dựng mối quan hệ trong gia đình tốt hơn.
2.2 Phương pháp nghiên cứu
2.2.1 Phương pháp thu nhập thông tin thứ cấp
- Tìm hiểu thơng tin về đề án thơng qua các cơ sở pháp lí
- Nghiên cứu các nội dung nguyên lí từ cơ sở thực tiễn
2.2.2 Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu
- Tổng hợp các tài liệu, thơng tin đã tìm được, phân tích đánh gá để có nền tảng xây
dựng bài tiểu luận:
+ Phân loại và hệ thống hóa lí thuyết: phân loại tài liệu thu thập được thành các
mảng khác nhau nhằm hệ thống lại các lý thuyết để áp dụng vào những mảng khác
nhau của đề tài.
+ Phân tích và tổng hợp lý thuyết: sau khi phân loại tài liệu cần nghiên cứu phân
tích để áp dụng những tri thức có liên quan đến đối tượng nghiên cứu để lưu lại và
tổng hợp thành một hệ thống lý thuyết chặt chẽ làm nền tảng cho đề tài.

2.3. Khái niệm, vị trí, chức năng của gia đình
2.3.1. Khái niệm gia đình
Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành duy trì
và củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi
dưỡng, cùng với những quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia

đình.
Khái niệm về gia đình mang tính pháp lý ở Việt Nam được ghi trong Luật
Hơn nhân và gia đình (Điều 8. Giải thích từ ngữ ): “Gia đình là tập hợp những
người gắn bó với nhau theo hơn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi

3


dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo qui định của
Luật này”.
2.3.2. Vị trí của gia đình
- Gia đình là tế bào của xã hợi:
Gia đình có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội, là nhân tố
tồn tại và phát triển của xã hội, là nhân tố cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Gia
đình như một tế bào tự nhiên, là đơn vị nhỏ nhất để tạo nên xã hội. Khơng có gia
đình để tái tạo ra con người thì xã hội khơng tồn tại và phát triển được. Chính vì vật,
muốn xã hội tốt thì phải xây dựng gia đình tốt.
Tuy nhiên mức độ tác động của gia đình đối với xã hội còn phụ thuộc vào bản chất
của từng chế độ xã hội. Trong các chế xã hội dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sx, sự
bất bình đẳng trong quan hệ gia đình, quan hệ xã hội đã hạn chế rất lớn đến sự tác
động của gia đình đối với xã hội.
- Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hợi
Mỡi cá nhân chỉ có thể sinh ra trong gia đình. Khơng thể có con người sinh
ra từ bên ngồi gia đình. Gia đình là mơi trường đầu tiên có ảnh hưởng rất quan
trọng đến sự hình thành và phát triển tính cách của mỡi cá nhân. Và cũng chính
trong gia đình, mỡi cá nhân sẽ học được cách cư xử với người xung quanh và xã
hội.
- Gia đình là tổ ấm mang lại các giá trị hạnh phúc
Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống
của mỗi thành viên, mỗi công dân của xã hội. Chỉ trong gia đình, mới thể hiện mối

quan hệ tình cảm thiêng liêng giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái.
Gia đình là nơi ni dưỡng, chăm sóc những cơng dân tốt cho xã hội. Sự hạnh phúc
gia đình là tiền đề để hình thành nên nhân cách tốt cho những cơng dân của xã hội.
Vì vậy muốn xây dunwjg xã hội thì phải chú trọng xây dựng gia đình. Hồ chủ tịch
nói: “Gia đình tốt thì xã hội tốt, nhiều gia đình tốt cộng lại thì làm cho xã hội tốt
hơn”

4


Xây dựng gia đình là một trách nhiệm, một bộ phận cấu thành trong chỉnh
thể các mục tiêu phấn đấu của xã hội, vì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Thế nhưng, các cá nhân không chỉ sống trong quan hệ gia đình mà còn có những
quan hệ xã hội. Mỗi cá nhân không chỉ là thành viên của gia đình mà còn là thành
viên của xã hội. Khơng thể có con người bên ngồi xã hội. Gia đình đóng vai trò
quan trọng để đáp ứng nhu cầu về quan hệ xã hội của mỗ cá nhân.
Ngược lại, bất cứ xã hội nào cũng thơng qua gia đình để tác động đến mỗi cá nhân.
Mặt khác, nhiều hiện tượng của xã hội cũng thơng qua gia đình mà có ảnh hưởng
tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển của mỗi cá nhân về tư tưởng, đạo đức, lối
sống.
2.3.3. Chức năng của gia đình
- Chức năng tái sinh sản, tái sản xuất con người:
Đây là chức năng quan trọng nhất của gia đình, việc thực hiện chức năng
sinh sản vừa là quy luật sinh tồn tự nhiên đồng thời là quy luật xã hội. Tái suất con
người và sức lao động khơng chỉ có ý nghĩa với từng gia đình mà còn có tác động
đến sự ổn định, phát triển bền vững của quốc gia.
- Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng:
Là một trong những chức năng cơ bản của gia đình, thể hiện trên hai khía
cạnh: sàn xuất và tiêu dùng, cả hai khía cạnh này đều nhằm thỏa mãn những nhu
cầu thiết yếu của các thành viên trong gia đình.

- Chức năng giáo dục, xã hội hóa cá nhân:
Gia đình là một thiết chế đặc thù vừa tạo dựng nên xã hội, vừa duy trì thúc
đẩy xã hội phát triển. Gia đình chính là môi trường xã hội, môi trường giáo dục đầu
tiên và quan trọng nhất của cá nhân. Giáo dục gia đình được thực hiện thông qua
cách thức tổ chức đời sống gia đình, quá trình tổ chức các hoạt động của trẻ và cơ
bản là dựa trên nền tảng căn bản là sự gương mẫu, sự nêu gương của các bậc cha,
mẹ. Giáo dục gia đình thực sự là một quá trình diễn ra liên tục trong suốt cả cuộc
đời mỡi con người; là sự tác động một cách kiên trì, thường xuyên, tổng thể và sâu
sắc của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách mỡi con người.

5


- Chức năng thỏa mãn nhu cầu tinh thần, tâm lý, tình cảm:
Gia đình là một cộng đồng đặc biệt mà ở đó mối quan hệ hơn nhân, huyết
thống, quan hệ ni dưỡng, quan hệ tình cảm, trách nhiệm gắn bó các thành viên
trong gia đình bằng những sợi dây liên hệ thường xuyên, lâu dài và suốt đời người.
Có thể nói, khơng có một cộng đồng nào, tổ chức nào có thể mang lại tình cảm ấp
áp, sâu sắc và thiêng liêng bằng gia đình. Do vậy, gia đình là nơi thỏa mãn các nhu
cầu chăm sóc về tinh thần, tâm lý, tình cảm của các thành viên gia đình trong cuộc
sống thường ngày hoặc mỡi khi họ gặp khó khăn, bất ổn.

2.4. Quan điểm về xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên
xã hội chủ nghĩa
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, dưới tác động của nhiều yếu tố
khách quan và chủ quan: phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, cơng nghiệp hóa hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, xu thế
tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học và cơng nghệ hiện đại, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về gia đình…, gia đình Việt Nam đã có
sự biến đổi tương đối tồn diện về quy mô, kết cấu, các chức năng cũng như quan

hệ gia đình. Ngược lại, sự biến đổi của gia đình cũng tạo ra động lực mới thúc đẩy
sự phát triển của xã hội.
2.4.1. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội
2.4.1.1. Biến đổi quy mô, kết cấu của gia đình
Gia đình Việt Nam ngày nay có thể được coi là “gia đình quá độ” trong bước
chuyển biến từ xã hội nông nghiệp cổ truyền sang xã hội công nghiệp hiện đại. Gia
đình đơn hay còn gọi gia đình hạt nhân đang được gọi rất phổ biến ở các đô thị hay
cả nơng thơn – thay thế cho kiểu gia đình truyền thống từng giữ vai trò chủ đạo
trước đây.
Quy mô gia đình ngày nay tồn tại xu hướng thu nhỏ hơn so với trước kia, số
thành viên trong gia đình trở nên ít đi. Gia đình hiện đại chỉ có hai thế hệ cùng sống

6


chung với nhau: cha mẹ - con cái và số con trong gia đình cũng khơng nhiều như
trước.
Quy mơ gia đình Việt Nam ngày càng thu nhỏ, đáp ứng nhu cầu và điều kiện
thời đại mới đặt ra. Sự bình đẳng nam nữ được đề cao hơn, cuộc sống riêng tư của
con người được tôn trọng hơn tránh được mâu thuẫn trong đời sống gia đình của gia
đình truyền thống. Sự biến đổi của gia đình cho thấy nó đang làm chức năng tích
cực thay đổi chính bản thân gia đình và cũng thay đổi hệ thống xã hội làm cho xã
hội trở nên thích nghi và phù hợp hơn với tình hình mới, thời đại mới.
Bên cạnh đó, q trình biến đổi đó cũng gây những phản chức năng như tạo
ra sự ngăn cách giữa các thành viên, tạo khó khăn, trở lực trong việc gìn giữ tình
cảm cũng như các giá trị văn hóa truyeneg thống. Xã hội ngày càng phát triển, mọi
người đều phải cuốn theo công việc riêng của mình với mục đích kiếm thêm thu
nhập nên thời gian dành cho nhau cũng ít dần đi. Các thành viên trong gia đình càng
ít quan tâm lo lắng đến nhau và giao tiếp ít hơn, làm cho mối quan hệ gia đình trở

nên rời rạc, lỏng lẻo,…
2.4.1.2. Biến đổi các chức năng của gia đình
* Chức năng tái sản xuất ra con người
Với những thành tựu của y học hiện đại, hiên nay việc sinh đẻ đã được các
gia đình tiến hành một cách chủ động, tự giác khi xác định được số lượng con cái và
thời điểm sinh con. Hơn nữa, việc sinh con còn chịu sự điều chỉnh bởi chính sách xã
hội của Đảng và Nhà nước, tùy theo tình hình dân số và nhu cầu về sức lao động
của xã hội. Ở nước ta, từ những năm 70-80 của thế kỉ XX, nhà nước ta tuyên truyền,
phổ biến và áp dụng rộng rãi các phương tiện và biện pháp kĩ thuật tránh thai và tiến
hành kiểm sốt dân số thơng qua cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch, khuyến khích
mỡi cặp vợ chồng chỉ nên có 1 đến 2 con. Sang thập niên đầu thế kỉ XXI dân số
Việt Nam đang chuyển sang giai đoạn già hóa. Để đảm bảo lợi ích của gia đình và
sự phát triển bền vữn của xã hội, thơng điệp mới trong kế hoạch hóa gia đình là mỗi
cặp vợ chồng nên sinh đủ hai con

7


Nếu như trước kia, do ảnh hưởng của phong tục, tập quán và nhu cầu sản
xuất nông nghiệp, trong gia đình truyền thống, nhu cầu về con cái thể hiện trên ba
phương diện: phải có con, con càng đơng càng tốt và nhất thiết phải có con trai để
nối dõi thì ngày nay nhu cầu ấy có những thay đổi cơ bản; thể hiện ở việc giảm mức
sinh ở người phụ nữ, gỉam số con mong muốn và giảm nhu cầu nhất thiết phải có
con trai. Trong gia đình hiện đại, sự bền vững của hôn nhân phụ thuộc vào rất nhiều
vào các yếu tố tâm lý, tình cảm, kinh tế, chứ khơng phải chỉ là các yếu tố có con hay
khơng có con, có con trai hay con gái như các gia đình truyền thống trước kia.
2.4.1.3. Biến đởi chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
Xét theo một cách khái quát, cho đến nay kinh tế gia đình đã có hai bước
chuyển mang tính bước ngoặt. Thứ nhất, từ kinh tế tự cấp tự túc thành kinh tế hàng
hóa tức là từ một đơn vị kinh tế khép kín sản xuất để đáp ứng nhu cầu của gia đình

thành đơn vị mà sản xuất chủ yếu để đáp ứng nhu cầu của người khác hay xã hội.
Thứ hai, từ đơn vị kinh tế mà đặc trưng là sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu của
thị trường quốc gia thành tổ chức kinh tế của nên kinh tế thị trường hiện đại đáp
ứng nhu cầu của thị trường tồn cầu.
Hiện nay, kinh tế gia đình đang trở thành một bộ phận quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế và cạnh tranh sản
phẩm hàng hóa với các nước trong khu vực và trên thế giới, kinh tế gia đình gặp rất
nhiều khó khăn, trở ngại trong việc chuyển sang hướng sản xuất kinh doanh hàng
hóa theo hướng chuyên sâu trong kinh tế thị trường hiện đại. Nguyên nhân là do
kinh tế gia đình phần lớn có quy mơ nhỏ, lao động ít và tự sản xuất là chính.
Sự phát triển của kinh tế hàng hóa và nguồn thu nhập bằng tiền của gia đình
tăng lên làm cho gia đình trở thành một đơn vị tiêu dùng trong xã hội. Các gia đình
Việt Nam đang tiến tới “tiêu dùng sản phẩm do người khác làm ra” tức là sử dụng
hàng hóa và dịch vụ xã hội
2.4.1.4. Biến đởi chức năng giáo dục (xã hợi hóa)
Trong xã hội Việt Nam truyền thống giáo dục, gia đình là cơ sở giáo dục xã
hội thì ngày nay, giáo dục xã hội bao trùm lên giáo dục gia đình và đưa ra những

8


mục tiêu những yêu cầu của giáo dục xã hội cho giáo dục gia đình. Điểm tương
đồng giữa giáo dục gia đình truyền thống và giáo dục xã hội mới là tiếp tục nhấn
mạnh sự hi sinh của cá nhân cho cộng đồng.
Giáo dục gia đình hiện nay phát triển theo xu hướng sự đầu tư tài chính của
gia đình cho giáo dục con cái tăng lên. Nội dung giáo dụng gia đình hiện nay khơng
chỉ nặng về giáo dục đạo đức ứng xử trong gia đình, dòng họ, làng xã mà hướng
đến giáo dục kiến thức khoa học hiện đại, trang bị công cụ để con cái hòa nhập với
thế giới
Tuy nhiên, sự phát triển của hệ thống giáo dục xã hội cùng với sự phát triển

kinh tế hiện nay vai trò giáo dục của các chủ thể trong gia đình có xu hướng giảm.
Nhưng sự gia tăng của hiện tượng tiêu cực trong xã hội và trong nhà trường, làm
cho sự kỳ vọng và niềm tin của các bậc cha mẹ vào hệ thống giáo dục xã hội trong
việc rèn luyện đạo đức nhân cách cho con em của họ đã giảm đi rất nhiều so với
trước đây. Những tác động trên đây làm giảm sút đáng kể vai trò của gia đình trong
việc thức hiện chức năng xã hội hóa, giáo dục trẻ em ở nước ta thời gian qua.
Hiện tượng trẻ em hư, bỏ học sớm, lang thang, nghiện hút ma túy, mại dâm,
…cũng cho thấy phần nào sự bất lực của xã hội và sự bế tắc của một số gia đình
trong việc chăm sóc giáo dục trẻ em.
2.4.1.5. Biến đổi chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm
Trong xã hội hiện đại, độ bền vững của gia đình khơng chỉ phụ thuộc vào sự
ràng buộc của các mối quan hệ về trách nhiệm, nghĩa vụ giữa vợ và chồng; cha mẹ
và con cái; sự hi sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích gia đình mà nó còn bị chi phối bởi
các mối quan hệ hòa hợp tình cảm giữa vợ chồng; cha mẹ và con cái, sự đảm bảo
hạnh phúc cá nhân, sinh hoạt tự do, chính đáng của mỡi thành viên gia đình trong
cuộc sống chung.
Trong gia đình Việt Nam hiện nay, nhu cầu thỏa mãn tâm sinh lý - tình cảm
đang tăng lên, do gia đình có xu hướng chuyển đổi từ chủ yếu là đơn vị kinh tế sang
chủ yếu là đơn vị tình cảm. Việc thực hiện chức năng này là một yếu tố quan trọng
tác động đến sự tồn tại, bền vững của hơn nhân và hạnh phúc gia đình, đặc biệt là

9


việc bảo vệ chăm sóc trẻ em và người cao tuổi, nhưng hiện nay các gia đình đang
đối mặt với rất nhiều khó khăn thách thức. Đặc biệt trong tương lai gần, khi mà tỉ lệ
các gia đình chỉ có một con tăng lên thời đời sống tâm lí – tình cảm của nhiều trẻ
em và kể cả người lớn cũng kém phong phú hơn, do thiếu đi tình cảm về anh, chị
em trong cuộc sống gia đình.
Tác động của cơng nghiệp hóa và tồn cầu hóa dẫn đến tình trạng phân hóa

giàu nghèo sâu sắc, làm cho một số hộ gia đình có cơ may mở rộng sản xuất, tích
lũy tài sản, đất đai, tư liệu sản xuất để trở nên giàu có, trong khi đại bộ phận các gia
đình trở thành lao động làm th do khơng có cơ hội phát triển sản xuất, mất đất đai
và các tư liệu sản xuất khác khơng có khả năng tích lũy tài sản, mở rộng sản xuất.
Nhà nước cần có chính sách hỡ trợ các hộ nghèo khắc phục khoảng cách giàu nghèo
đang có xu hướng ngày càng gia tăng.
Cùng với đó, vấn đề đặt ra là cần phải thay đổi tâm lí truyền thống về vai trò
của con trai, tạo dựng quan niệm bình đẳng con trai và con gái trong trách nhiệm
ni dưỡng, chăm sóc cha mẹ già và thờ phụng tổ tiên. Nhà nước cần có giải pháp
biện pháp, nhằm đảm bảo an tồn tình dục giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản
cho các thành viên sẽ là chủ gia đình tương lai; củng cố chức năng xã hội hóa của
gia đình xây dựng những chuẩn mực và mơ hình mới về giao dục gia đình, xây
dựng chuẩn mực và mơ hình mới về giáo dục gia đình, xây dựng nội dung và
phương pháp mới về giáo dục gia đình, giúp cho các bậc cha mẹ có định hướng
trong giáo dục và hình thành nhân cách trẻ em; giải quyết thảo đáng mâu thuẫn giữa
nhu cầu tự do, tiến bộ của người phụ nữ hiện đại với trách nhiệm làm dâu theo quan
niệm truyền thống, mâu thuẫn về lợi ích giữa các thế hệ, giữa cha mẹ và con cái. Nó
đòi hỏi phải hình thành những chuẩn mực mới, đảm bảo sự hài hòa lợi ích giữa các
thành viên trong gia đình cũng như lợi ích giữa gia đình và xã hội.
2.4.1.6. Sự biến đởi quan hệ gia đình
❖ Biến đổi quan hệ hôn nhân và quan hệ vợ chồng
Trong thực tế, hôn nhân và gia đình Việt Nam đang phải đối mặt với những
thách thức, biến đổi lớn. Dưới tác động của cơ chế thị trường, khoa học công nghệ

10


hiện đại, tồn cầu hóa… khiến các gia đình gánh nhiều mặt trái như: quan hệ vợ
chồng- gia đình lỏng lẻo; gia tăng tỷ lệ ly hôn, ly thân, ngoại tình, quan hệ tình dục
trước hơn nhân và ngồi hơn nhân, chung sống không kết hôn. Đồng thời, xuất hiện

nhiều bi kịch, thảm án gia đình, người già cơ đơn, trẻ em sống ích kỉ, bạo hành
trong gia đình và xâm hại tình dục,.. Từ đó, dẫn tới hệ lụy là gái trị truyền thống
trong gia đình bị coi nhẹ, kiểu gia đình truyền thống bị phá vỡ lung lay và hiện
tượng gia tăng số hộ gia đình đơn thân, độc thân, kết hơn đồng tính, sinh con ngồi
giá thú.. Ngồi ra, sức ép từ cuộc sống hiện đại (cơng việc căng thẳng, không ổn
định, di chuyển nhiều…) cũng khiến cho hơn nhân trở nên khó khăn với nhiều
người trong xã hội.
Trong gia đình truyền thống, người chồng là trụ cột của gia đình, mọi quyền
lực trong gia đình đều thuộc về người đàn ông. Người chồng là người chủ sở hữu tài
sản của gia đình, người quyết định mọi cơng việc quan trọng của gia đình, kể ca
quyền dạy vợ, đánh con.
Trong gia đình Việt Nam hiện nay, khơng còn một mơ hình duy nhất là đàn
ơng làm chủ gia đình. Ngồi mơ hình người đàn ơng – người chồng làm chủ gai
đình ra thì còn ít nhất hai mơ hình khác cũng tồn tại. Đó là mơ hình người phụ nữ người vợ làm chủ gia đình và mơ hình cả hai vợ chồng cùng làm chủ gia đình.
Người chủ gia đình được quan niệm là người có những phẩm chất, năng lực và
đóng góp vượt trội, được thành viên trong gia dình coi trọng. Ngồi ra, mơ hình
người chủ gia đình phải là người kiếm ra nhiều tiền cho thấy một đòi hỏi mới về
phẩm chất của người lãnh đạo gia đình trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường
và hội nhập kinh tế.
❖ Biến đổi quan hệ giữa các thế hệ, các giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay, quan hệ giữa các thế hệ cũng như
các giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình khơng ngừng biến đổi. Trong gia đình
truyền thống, một đứa trẻ sinh ra và lớn lên dưới sự dạy bảo thường xuyên của ông
bà cha mẹ ngay từ khi còn nhỏ. Trong gia đình hiện đại, việc giáo dục trẻ em gần
như phó mặc cho nhà trường, mà thiếu đi sự dạy bảo thường xuyên của ông bà, cha

11


mẹ. Ngược lại, người cao tuổi trong gia đình truyền thống thường sống cùng con

cháu, cho nên nhu cầu tâm sinh lí, tình cảm được đáp ứng đầy đủ. Còn khi quy mơ
gia đình bị biến đổi, người cao tuổi phải đối mặt với sự cô đơn thiếu thốn về tình
cảm.
Những biến đổi trong quan hệ gia đình cho thấy, thách thức lớn nhất đặt ra
cho gia đình Việt Nam là mâu thuẫn giữa các thế hệ, do sự khác biệt về tuổi tác, khi
cùng chung sống với nhau. Người già thường hướng về các giá trị truyền thống, có
xu hướng bảo thủ, áp đặt nhận thức của mình đối với người trẻ. Ngược lại, tuổi trẻ
thường hướng tới các giá trị hiện đại, có xu hường phủ nhận yếu tối truyền thống.
Gia đình càng nhiều thế hệ, mâu thuẫn thế hệ càng lớn.
Ngày nay xuất hiện nhiều hiện tượng mà trước đây chưa hề hoặc ít có như:
bạo lực gia đình, ly hơn, ly thân, ngoại tình, sống thử,… Chúng đã làm rạn nứt, phá
hoại sự bền vững của gia đình, làm cho gia đình trở nên mong manh, dễ tan vỡ hơn.
Ngoài ra, các tệ nạn như trẻ em lang thang, nghiện hút, buôn bán phụ nữ qua biên
giới… cũng đang đe dọa, gây nhiều nguy cơ làm tan rã gia đình.

2.5. Phương hướng cơ bản xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nang cao nhận thwusc xã hội
về xây dựng và phát triển kinh tế.
Đẩy mạnh công tác tuyen truyền để các cấp ủy, chính quyền, các tổ chức
đoàn thể từ trung ương đến cơ sở nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò và tầm quan
trọng của gia đình và cơng tác xây dựng, phát triển gai đình Việt Nam hiện nay, coi
đây là một trong những động lực quan trọng, quyết định thành cồn sự phát triển bền
vững kinh tế - xã hội trong thời kì cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng
và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cấp ủy và chính quyền các cấp phải
đưa nội dung, mục tiêu của công tác xây dựng và phsat triển gai đình vào chiến lược
phát triển kinh tế- xã hội và chương trình kế hoạch cơng tác hằng năm của cán bộ.
ngành, địa phương.

12



Thứ hai, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất,
kinh tế hộ gia đình.
Xây dựng và hồn thiện chính sách phát triển kinh tế - xa hội để góp phần
củng cố, ổn định và phát triển kinh tế gia đình; có chính sách ưu tiên hỡ trợ phát
triển kinh tế gai đình cho các gia đình liệt sĩ, gia đình thương binh, bệnh binh, gia
đình các dân tộc ít người, gia đình nghèo, gia đình đang sinh sống ở vùng sâu, vùng
xa, vùng khó khăn.
Có chính sách kịp thời hỡ trợ các gia đình phát triển kinh tế, sản xuất kinh
doanh sản phẩm mới, sản xuất sử dụng nguyên liệu tại chỗ, hỗ trợ các gia đình tham
gia sản xuất phục vụ xuất khẩu.
Tích cực khai thác và tạo điều kiện thuận lợi cho hộ gia đình vay vốn nagwns
hạn và dài hạn nhằm xóa đói giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu sản xuất, mở rộng
phát triển kinh tế, đẩy mạnh loại hình kinh tế trang trại, vươn lên làm giàu chính
đáng.
Thứ ba, kế thừa những giá trị của gia đình truyền thống đồng thời tiếp thu
những tiến bộ của nhân loại về gia đình trong xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay.
Gia đình truyền thống được hun đúc từ lâu đời trong lịch sử dân tộc. Bước
vào thời kì mới gia đình ấy bộc lộ cả những mặt tích cực và tiêu cực. Do vậy, nhà
nước cũng như các cơ quan văn hóa, các ban ngành liên quan cần phải xác định,
duy trì những nét đẹp có ích, đồng thời, tìm ra những hạn chế và tiến tới kahwsc
phục những hủ tục của gai đình cũ. Xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay là xây
dựng mơ hình gia đình hiện đại, phù hợp vơi stieens trình cơng nghiệp háo, hiện đại
hóa đát nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Kế thừa và phát huy những gái trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình
Việt Nam, vừa kết hợp với những giá trị tiên tiến của gia đình hiện đại để phù hợp
với sự vận động phát triển tất yếu của xã hội. Tất cả nhằm hướng tưới thực hiện
mục tiêu làm cho gai đình thực sự là tế bào mạnh của xã hội, là tổ ấm của mỗi
người.


13


Thứ tư, tiếp tục phát triển và năng cao chất lượng phịng trào xây dựng gia
đình văn hóa.
Gia đình văn hóa là một mơ hình gia đình tiến bộ, một danh hiệu hay chỉ tiêu
mà nhiều gia đình Việt Nam mong muốn hướng đến. Đó là, gai đình ấm no, hòa
thuận, tiến bộ, khỏe mạnh và hạnh phúc. Thực hiện tốt nghĩa vụ cơng dân, thực hiện
kế hoạch hóa gia đình, đồn kết tương trợ cộng đồng dân cư.
Cần tránh xu hướng chạy theo thành tích, phản ánh khơng thực chất phong
trào và chất lượng gia đình văn hóa. Các tiêu chí xây dựng gia đình văn hóa phải
phù hợp và có ý nghĩa thiết thực với đời sống của nhân dân, cơng tá bình xét danh
hiệu gia dình văn hóa phải được tiến hành theo tiêu chí thống nhất, trên nguyên tắc
cân bằng, dân chủ, đáp ứng được nguyện vọng, tâm tư, tình cảm, tạo được sự đồng
tình hưởng ứng của nhân dân.

2.6. Giải pháp xây dựng – củng cố gia đình Việt Nam trong thời đại mới.
Trong bối cảnh các giá trị gia đình vẫn là giá trị được người dân ưu tiên hàng
đầu trong cuộc sống cũng như quy mơ, cơ cấu, chức năng gia đình đang thay đổi
theo hướng hiện đại hóa, cá nhân hóa, hạt nhân hóa, cần đẩy mạnh thực hiện một số
giải pháp sau:
Một là, tăng cường các hoạt động tuyên truyền, truyền thơng về bình đẳng
giới.
Tiếp tục tun truyền, phổ biến và hỡ trợ phụ nữ tự thốt khỏi các định kiến xã hội
từ cộng đồng và từ chính bản thân về những khắt khe trong hành vi hơn nhân và gia
đình, hướng phụ nữ tới những giá trị được tôn trọng, được bình đẳng trong tiếp cận
dịch vụ chăm sóc sức khỏe và giáo dục, được tự thể hiện bản thân, được hạnh phúc,
đồng thời đóng góp ngày càng nhiều cho xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hóa...

Hai là, xây dựng chính sách và dịch vụ xã hội bảo đảm sự tiếp cận cơng
bằng, bình đẳng giữa các hình thức gia đình hiện nay, như chung sống khơng kết
hơn, gia đình đơn thân, gia đình đồng tính, gia đình có hơn nhân với người nước
ngồi, gia đình ly hôn/ly thân...

14


Ba là, phổ biến kết quả nghiên cứu về các giá trị gia đình mà người dân Việt
Nam đang ủng hộ tới các nhà lập pháp, hoạch định chính sách, quản lý nhà nước về
gia đình để nắm rõ thực tế các giá trị của gia đình hiện nay, đặc biệt là những khác
biệt xã hội về giá trị gia đình thuộc các mức hiện đại hóa khác nhau, trong các bối
cảnh văn hóa khác nhau. Quan tâm đến các giá trị của nhóm thuộc khu vực kém
phát triển, có mức hiện đại hóa thấp để có thể giáo dục, tuyên truyền duy trì những
giá trị truyền thống tốt đẹp đang bảo lưu rõ nét ở khu vực này. Đồng thời, có những
hỡ trợ về dịch vụ xã hội, tư vấn xã hội cho các nhóm hiện đại, đang có xu hướng
theo những giá trị hiện đại của gia đình để phát huy sự tự do cá nhân, cởi mở trong
quan niệm, đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực của chủ nghĩa cá nhân, lối
sống hưởng thụ, ích kỷ.
Bốn là, xem xét xây dựng nội hàm mới cho mục tiêu xây dựng gia đình trong
thời kỳ tới trên cơ sở những giá trị gia đình đã được định hình thơng suốt và thống
nhất về mặt nhà nước là “ấm no”, “bình đẳng”, “chung thủy”, “tiến bộ” và “hạnh
phúc”. Trên thực tế, các giá trị này mang hàm nghĩa rộng mà đời sống xã hội hay
trong quan niệm của nhân dân có thể còn những biểu hiện cụ thể hơn nữa, như giá
trị của hơn nhân, gia đình, các biểu hiện của bền vững gia đình, giá trị con cái, tình
thương u, hiếu thảo, đồn kết cộng đồng, đồng thời bao hàm cả những biến đổi
mạnh mẽ theo mức độ hiện đại hóa của các gia đình hiện nay. Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030 nên xem xét bổ sung nội hàm mới cho mục
tiêu xây dựng gia đình. Trong giai đoạn tới, Việt Nam nên chuyển mục tiêu từ “xây
dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội”

sang “xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc, phồn thịnh, là thiết chế quan trọng của
các quá trình kinh tế - xã hội và nguồn nhân lực ổn định, chất lượng” để tiếp tục
khẳng định vai trò quan trọng của gia đình trong sự phát triển của xã hội, đặt gia
đình trong mối quan hệ “động” hơn với các quá trình kinh tế - xã hội chung.

15


2.7. Giải pháp nhằm phát triển gia đình hiện đại trong q trình cơng
nghiệp hố - hiện đại hố đất nước.
Qua các phần đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rõ gia đình có tầm quyết định
quan trọng đối với sự phát triển của mỡi quốc gia nói chung và sự nghiệp cơng
nghiệp hố - hiện đại hố ở nước ta nói riêng. Song như phần trên đã trình bày thực
trạng gia đình Việt Nam còn nhiều bất cập, hạn chế, nhìn chung chưa đáp ứng được
nhiệm vụ phát triển của nước ta hiện nay và cả trong tương lai. Trong thời kỳ quá
độ lên Chủ nghĩa xã hội, các điều kiện để hình thành gia đình mới khơng xuất hiện
và có tác dụng đầy đủ lập tức mà chỉ có thể hồn chỉnh dần từng bước. Đòi hỏi phải
có những giải pháp thích hợp để phát triển gia đình Việt Nam hiện đại trong q
trình cơng nghiệp hố - hiện đại hoá đất nước.
2.7.1. Giải pháp về kinh tế, việc làm.
Cần phải có những chính sách nhằm tạo nhiều công ăn việc làm cho người
lao động mà trước hết phải thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần
nhằm phát huy mặt mạnh của các thành phần kinh tế góp phần giải quyết cơng ăn
việc làm, giải quyết số lao động dưa thừa và tạo điều kiện cho người lao động có cơ
hội lựa chọn ngành nghề. Đặc biệt quan tâm tạo việc làm trong lĩnh vực nơng
nghiệp nơng thơn, vì ở lĩnh vực này số lao động chiếm tỷ lệ cao nhưng chỉ số sử
dụng lại thấp, vẫn còn một lực lượng lớn lao động chưa có việc làm hoặc bán việc
làm. Để làm được điều này cần có cơng tác quy hoạch hoặc kế hoạch hoá dài hạn về
lao động, chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu nông nghiệp, chú trọng đầu tư xây dựng và
phát triển hạ tầng cơ sở kỹ thuật và xã hội ở nông thôn. Chú trọng tạo việc làm cho

người lao động đã qua đào tạo, khơng để tình trạng làm hợp đồng, làm ca, làm tạm
thời.... cần tăng vốn đầu tư, tạo việc làm để người lao động đảm bảo cuộc sống gia
đình của mình. Trước mắt no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc chính là chuẩn
mực cần vươn tới của gia đình mới của nước ta. Sự no ấm phải là kết quả của lao
động cần cù, sáng tạo việc làm ổn định. Gia đình hạnh phúc khơng phải là cái gì
trừu tượng mà là tổng hoà những nét đẹp thường ngày của cuộc sống gia đình.

16


2.7.2. Giải pháp về các chính sách xã hội.
Bên cạnh giải pháp về kinh tế, việc làm thì giải pháp về các chính sách xã
hội cũng góp phần khơng nhỏ vào việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện đại trong
q trình cơng nghiệp hố - hiện đại hố đất nước. Các chính sách xã hội bao gồm
nhiều lĩnh vực khác nhau như vấn đề chăm sóc sức khoẻ về dân số, kế hoạch hố
gia đình. Nói về sức khoẻ thì sự cường tráng về thể chất, sự thoải mái về tâm hồn,
vừa là nhu cầu của bản thân của mỗi con người, vừa là vốn quý đề tạo ra cái tài sản
trí tuệ và vật chất cho tồn xã hội. Trong văn kiện Hội nghị lần thứ IV Ban chấp
hành Trung ương Đảng khố VII đã viết: “Trí tuệ là tài sản quý nhất trong mọi tài
sản, nhưng chính sức khoẻ là tiền đề cần thiết để làm ra tài sản đó”. Muốn gia đình
phát triển tốt cần phải chăm lo sức khoẻ cho mọi thành viên trong gia đình, phải
quan tâm xây dựng và củng cố cơ sở y tế, và làm tốt công tác y tế dự phòng, phòng
các bệnh dịch, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, và phát động mạnh mẽ phong
trào thể dục thể thao trong quần chúng.... bên cạnh vấn đề sức khoẻ thì nâng cao
chất lượng dân số cũng cần được quan tâm và phát triển.Quan tâm một cách thiết
thực và toàn diện hơn nữa đến phụ nữ, phụ nữ vừa là mục tiêu vừa là điều kiện quan
trọng để xây dựng và củng cố gia đình Việt Nam hiện đại. Những quan điểm lớn về
giải phóng phụ nữ đã được ghi nhận trong nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước.
Cần tích cực hơn để đạt được trong những thực tế mục tiêu là có kế hoạch này đưa
ra. Qua đó, phụ nữ Việt Nam có điều kiện làm tốt cơng việc gia đình và làm tròn

trách nhiệm xã hội.
2.7.3. Giải pháp về giáo dục.
Giáo dục trẻ em là điều kiện tất yếu để xã hội tồn tại và phát triển. Muốn xã
hội ngày càng một tiến lên, người lớn đồng thời phải làm hai cơng việc có quan hệ
khăng khít hỡ trợ lẫn nhau: đẩy mạnh lao động sản xuất để nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần và chăm lo nuôi dạy con cái để đào tạo kế tục sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước. Giáo dục con em ta thành lớp người lao động mới là trách nhiệm
của tồn Đảng tồn dân trong đó có các bậc cha mẹ có vai trò và trách nhiệm hết
sức nặng nề, vẻ vang. Gia đình là một trong những lực lượng giáo dục quan trọng

17


“gia đình - nhà trường - xã hội” tạo nên một vòng tròn khép kín của q trình giáo
dục có những chỗ mạnh, những khả năng khác nhau đối với việc hình thành nhân
cách trẻ em. Hồ Chủ Tịch đã dạy: “Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng
thiếu giáo dục trong gia đìnhvà ngồi xã hội thì kết quả cũng khơng hồn tồn”.
Thật vậy, gia đình có vai trò và trách nhiệm rất to lớn trong cả hai q trình có quan
hệ khăng khít: ni - dạy. Gia đình là đơn vị giáo huấn đầu tiên của đứa trẻ, là nơi
hun đúc tâm hồn con người Việt Nam mới cho đứa trẻ. Giáo dục gia đình góp phần
đặt nền móng đầu tiên cho nhân cách từng người trong gia đình. Gia đình còn là nơi
chăm sóc giáo dục trẻ em thường xuyên lâu dài và trực tiếp nhất.Chỗ mạnh nhất của
giáo dục gia đình là quan hệ tình cảm ruột thịt, của cha mẹ và con cái. Tình thương
đặc biệt sâu sắc cha mẹ luôn dành cho con cái mình những tình cảm sâu nặng thiết
tha nhất, tạo điều kiện chăm lo cho con cái về nhiều mặt. Nhờ vậy gia đình đã góp
phần cùng nhà trường và xã hội đào tạo một thế hệ trẻ có ích cho xã hội. Bên cạnh
đó, cha mẹ giáo dục con cái về giá trị thẩm mỹ như: dạy con cách ăn mặc sạch sẽ,
chỉnh tề là yếu tố sơ đẳng của cái đẹp trong ăn mặc. Cha mẹ cần giúp các em hiểu
rằng yếu tố quan trọng đầu tiên của cái đẹp chính là sự giản dị. Mặt khác, cũng
đừng hiểu sự giản dị là thô sơ, gặp chăng hay chớ, tự nhiên chủ nghĩa. Cái đẹp chân

chính xa lạ với sự cầu kỳ đối lập với sự phô trương, ga lăng giả tạo. Sự giản dị
chính là những đường nét, hình khối đơn giản, nhẹ nhàng, tránh những chi tiết rườm
rà, nếp gắp nặng nề che lấp vẻ đẹp tự nhiên của con người. Ngồi ra, gia đình còn
phải dạy con cách cư xử ngoài xã hội, cư xử với những người xung quanh mình.
Dạy con cách cư xử nơi công cộng, dạy con về phép xã giao mới.... Như vậy, Việt
Nam đang đứng vào thời điểm đẩy mạnh cơng nghiệp hố - hiện đại hố, cho nên
việc xây dựng và củng cố gia đình mới ở nước ta cần quán triệt những giải pháp
trên.

18


PHẦN 3. KẾT LUẬN
Gia đình là tế bào của xã hội, điều này chứng tỏ gia đình và xã hội có sự
tương tác, thống nhất hữu cơ. Gia đình là sự sống của xã hội, là tế bào hạnh phúc
góp phần phát triển hài hoà xã hội. Xã hội tạo điều kiện cho gia đình phát triển sự
sống. Gia đình là sản phẩm của lịch sử nhưng với tư cách là tế bào của xã hội. Xã
hội được phát triển là do hai loại sản xuất quyết định, một mặt là do trình độ phát
triển của lao động, mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình. Gia đình là tổ
chức cơ sở, là cơ cấu và thiết chế xã hội nhỏ nhất nhưng lại đa dạng và phong phú
trong quá trình vận động và phát triển của nó, vừa tuân thủ quy luật và cơ chế chung
của xã hội. Đó là cầu nối giữa con người thành viên của gia đình với xã hội nhiều
thơng tin ở ngồi. Gia đình là tổ ấm tức là đem lại hạnh phúc cho mỡi con người
trong gia đình, các cá nhân được đùm bọc về mặt vật chất, về tâm hồn, về giáo dục,
trẻ thơ có điều kiện an tồn và khơn lớn, người gia có chỡ nương tựa, người lao
động được phục hồi về sức khoẻ và thoải mái về tinh thần. Ở đó thường ngày diễn
ra mối quan hệ thiêng liêng và sâu đậm nghĩa vợ chồng, cha con, anh em, đó là
những người đồng tâm, đồng cảm và nâng đỡ nhau suốt cả cuộc đời.
Hiện nay, có rất nhiều vấn đề mà ở ngồi xã hội khơng giải quyết được, hoặc
giải quyết không hiệu quả, nhưng nếu đưa vào gia đình lại giải quyết có hiệu quả

cho nên khi nào yên ấm gia đình hữu ái trong xã hội thì cá nhân mới thực sự yên
tâm và sáng tạo..Chính vì những lẽ ấy, việc xây dựng gia đình mới là một trong
những sự nghiệp quan trọng trong sự nghiệp cách mạng Xã hội Chủ nghĩa ở nước
ta, đặc biệt là trong q trình cơng nghiệp hố - hiện đại hoá đất nước.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội số 52/2014/QH13, Luật Hơn nhân và Gia đình, ban hành ngày 19
tháng 06 năm 2014.
Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 –
Quyết định số 629/QĐ-TTg của thủ tướng Chính phủ, ngày 29/05/2012.
Đặng Cảnh Khanh, Lê Thị Quý (2007), Gia đình học, Nxb Thanh niên, Hà
Nội.
Lê Ngọc Văn (2011), Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam, Nxb KHXH,
Hà Nội
PGS.TS Trần Thị Minh Thi (2020), Những biến đổi của gia đình Việt Nam
hiện nay và mợt sớ khún nghị chính sách, Tạp chí cộng sản.
/

20



×