Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

TL triết vai trò của ý thức xã hội và việc xây dựng ý thức xã hội mới việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.78 KB, 15 trang )

Lời mở đầu
Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng ý thức xã hội mới là vấn đề
bức thiết. Xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng, trên cơ sở xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Xây dựng ý thức xã hội mới,
chúng ta cần phải đẩy mạnh công cuộc xây dựng đời sống kinh tế mới, văn hố
mới, con người mới; khơng ngừng hồn thiện ý thức xã hội theo hướng khoa học,
cách mạng, tiến bộ; đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức
xã hội mới.
Nhằm làm rõ hơn nội dung này, em lựa chọn vấn đề “Vai trò của ý thức xã
hội và việc xây dựng ý thức xã hội mới ở Việt Nam hiện nay”để làm bài thu
hoạch môn Triết học Mác-Lênin.

1


Chương 1
Ý thức xã hội
1. Khái niệm
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm tồn bộ những
quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng,... của những cộng đồng xã
hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn
phát triển nhất định.
Có sự khác nhau tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân. Ý thức của
cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội với mức độ khác nhau. Do đó, nó khơng thể
khơng mang tính xã hội. Song ý thức cá nhân không phải bao giờ cũng thể hiện
quan điểm tư tưởng, tình cảm phổ biến của một cộng đồng, một tập đoàn xã hội,
một thời đại xã hội nhất định.
Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng
với nhau, thâm nhập vào nhau và làm phong phú nhau.


Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội có cấu trúc hết sức phức tạp. Có thể
tiếp cận kết cấu của ý thức xã hội từ những phương diện khác nhau.
Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội, ý thức xã hội bao gồm
các hình thái khác nhau: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý
thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ, triết học,...
Theo trình độ phản ánh có thể phân biệt ý thức xã hội thông thường và ý
thức lý luận.
Ý thức xã hội thơng thường là tồn bộ những tri thức, những quan niệm...
của những con người trong một cộng đồng người nhất định, được hình thành một
cách trực tiếp từ hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hóa, khái quát
hóa thành lý luận. Trong ý thức xã hội thông thường, tâm lý xã hội là bộ phận rất
quan trọng.
Ý thức xã hội thông thường, thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt
cuộc sống hàng ngày của con người, thường xuyên chi phối cuộc sống đó. ý thức
thơng thường tuy là trình độ thấp so với ý thức lý luận, nhưng những tri thức kinh
nghiệm phong phú đó có thể trở thành tiền đề quan trọng cho sự hình thành các lý
thuyết xã hội.
Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hóa, khái
quát hóa thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm,
phạm trù, quy luật. ý thức lý luận (lý luận khoa học) có khả năng phản ánh hiện
thực khách quan một cách khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra các mối liên hệ
bản chất của các sự vật và hiện tượng. ý thức lý luận đạt trình độ cao và mang tính
hệ thống tạo thành các hệ tư tưởng.
2. Bản chất của ý thức xã hội

2


Bản chất của ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, bị quy định bởi tồn
tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. tuy nhiên, đó khơng phải là sự phản ánh

một cách giản đơn, trực tiếp mà đa dạng, phong phú bằng nhiều hình thức đặc thù,
trải qua các khâu trung gian. Khơng phải bất cứ tư tưởng, quan điểm, lý luận hình
thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế
của thời đại mà chỉ xét đến cùng thì chúng ta mới thấy rõ những mối quan hệ kinh
tế được phản ánh bằng cách này, cách khác trong các tư tưởng ấy. Mặt khác, sự
phản ánh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội còn bị chi phối bởi cái chủ quan
của chủ thể cộng đồng phản ánh.
3. Tính giai cấp của ý thức xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật chất
khác nhau, những lợi ích khác nhau do địa vị xã hội của mỗi giai cấp quy định, do
đó, ý thức xã hội của các giai cấp có nội dung và hình thức phát triển khác nhau
hoặc đối lập nhau.
Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở tâm lý xã hội cũng như ở hệ tư
tưởng. Về mặt tâm lý xã hội, mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, thói quen
riêng, có thiện cảm hay ác cảm với tập đoàn xã hội này hoặc tập đồn xã hội khác.
ở trình độ hệ tư tưởng thì tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện sâu sắc hơn
nhiều. Trong xã hội có đối kháng giai cấp bao giờ cũng có những quan điểm tư
tưởng hoặc những hệ tư tưởng đối lập nhau: tư tưởng của giai cấp bóc lột và giai
cấp bị bóc lột, của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Những tư tưởng thống trị
của một thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế và chính
trị ở thời đại đó.
Nếu hệ tư tưởng của giai cấp bóc lột thống trị ra sức bảo vệ địa vị của giai
cấp đó thì hệ tư tưởng của giai cấp bị trị, bị bóc lột thể hiện nguyện vọng và lợi ích
của quần chúng lao động chống lại xã hội người bóc lột người, xây dựng một xã
hội cơng bằng khơng có áp bức bóc lột.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp
công nhân, ngọn cờ giải phóng của quần chúng bị áp bức, bóc lột, phản ánh tiến
trình khách quan của sự phát triển lịch sử. Hệ tư tưởng Mác - Lênin đối lập với hệ
tư tưởng tư sản - hệ tư tưởng bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, bảo vệ chế độ
người bóc lột người. Cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô

sản hàng thế kỷ nay diễn ra gay gắt trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực
hệ tư tưởng.
Trong điều kiện xã hội ngày nay, cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực ý
thức hệ vẫn đang tiếp tục diễn ra. Trước những khó khăn và thử thách trên con
đường phát triển của chủ nghĩa xã hội, các thế lực thù địch đang ra sức tiến công
vào chủ nghĩa Mác - Lênin, muốn phủ nhận, xố bỏ nó. Do vậy bảo vệ và phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện thế giới ngày nay, là một nhiệm vụ
3


quan trọng của cuộc đấu tranh vì mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa
xã hội của nhân dân ta và nhân dân tiến bộ trên thế giới nói chung.
Khi khẳng định tính giai cấp của ý thức xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử
đồng thời còn cho rằng, ý thức của các giai cấp trong xã hội có sự tác động qua lại
với nhau. Trong xã hội có áp bức giai cấp, các giai cấp bị trị do bị tước đoạt tư liệu
sản xuất, phải chịu sự áp bức về vật chất nên không tránh khỏi bị áp bức về tinh
thần, không tránh khỏi chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị, bóc lột.
C.Mác và Ph.Ăngghen viết: "Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất vật chất
thì cũng chi phối ln cả những tư liệu sản xuất tinh thần, thành thử nói chung tư
tưởng của những người khơng có tư liệu sản xuất tinh thần cũng đồng thời bị giai
cấp thống trị đó chi phối"1. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của tư tưởng giai cấp
thống trị đối với xã hội tùy thuộc vào trình độ phát triển ý thức cách mạng của giai
cấp bị trị.
Không những giai cấp bị trị chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị,
mà trái lại giai cấp thống trị cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp bị trị. Đặc
biệt ở thời kỳ đấu tranh cách mạng phát triển mạnh, thường thấy một số người
trong giai cấp thống trị, nhất là những trí thức tiến bộ từ bỏ giai cấp xuất thân của
mình chuyển sang hàng ngũ giai cấp cách mạng, chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai
cấp đó. Một số người còn trở thành nhà tư tưởng của giai cấp cách mạng.
Ý thức cá nhân trong xã hội có phân chia giai cấp, về bản chất, là biểu hiện

mức độ này hay mức độ khác ý thức giai cấp, do địa vị và những điều kiện sinh
hoạt vật chất chung của giai cấp quyết định. Nhưng mỗi cá nhân lại có những hoàn
cảnh sinh sống riêng như hoàn cảnh giáo dục, trường đời mà họ trải qua, ảnh
hưởng tư tưởng chính trị và tư tưởng khác do họ tiếp thu được khi sống trong mơi
trường thân cận (gia đình, bạn bè, đồng nghiệp), v.v.. Tất cả những cái đó làm cho
ý thức của mỗi người vừa biểu hiện ý thức giai cấp vừa mang những đặc điểm cá
nhân, tạo thành những cá tính và nhân cách riêng của cá nhân, làm cho thế giới
tinh thần của cá nhân này khác với thế giới tinh thần của những cá nhân khác cùng
giai cấp.
Tuy nhiên, quá nhấn mạnh những điều kiện sinh hoạt của cá nhân, thổi
phồng mặt cá nhân trong ý thức của con người sẽ dẫn tới hiểu sai bản chất của ý
thức cá nhân. Vì vậy, khi đánh giá các hiện tượng ý thức trong xã hội có giai cấp
phải nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa ý thức giai cấp và ý thức cá nhân.
Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội không chỉ mang dấu ấn của những
điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp, mà còn phản ánh những điều kiện sinh
hoạt chung của dân tộc; những điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
điều kiện tự nhiên hình thành trong quá trình phát triển lâu dài của dân tộc. Vì vậy,
trong ý thức xã hội, ngồi tâm lý và hệ tư tưởng xã hội của giai cấp, còn bao gồm
tâm lý dân tộc, tình cảm, ước muốn, tập qn, thói quen, tính cách, v.v. của dân
tộc, phản ánh những điều kiện sinh hoạt chung của dân tộc, thấm sâu vào mọi lĩnh
4


vực đời sống tinh thần của dân tộc, truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác tạo thành
truyền thống dân tộc.
Tâm lý dân tộc tuy phản ánh những điều kiện sinh hoạt chung của dân tộc
và mang tính chất tồn dân tộc, nhưng có mối liên hệ hữu cơ với ý thức giai cấp.
Giai cấp cách mạng tiến bộ phát huy những giá trị tinh thần của dân tộc, ngược lại
những tư tưởng giai cấp phản động mâu thuẫn sâu sắc với các giá trị đó.
Giai cấp cơng nhân được vũ trang bằng hệ tư tưởng Mác - Lênin luôn luôn

quan tâm sâu sắc đến việc bảo vệ và phát triển những truyền thống văn hóa tốt đẹp
của dân tộc.
4. Ý thức xã hội mới ở Việt Nam
Ý thức xã hội mới ở Việt Nam thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội,
là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt
đẹp… của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân tư tưởng là chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân Việt Nam nhằm phục vụ
sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới.
Ý thức xã hội mới ở Việt Nam là ý thức xã hội theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, bắt nguồn từ ý thức cách mạng của giai cấp vô sản, là sự kế tục tư tưởng xã
hội cao đẹp về bình đẳng xã hội trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, là sự vận
dụng kế thừa phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều
kiện thực tiễn Việt Nam.
Ý thức xã hội mới ở Việt Nam là ý thức cách mạng của giai cấp vơ sản, hình
thành và phát triển trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ cũ, xây dựng xa hội mới
vì sự phát triển của cộng đồng dân tộc. Nó kế thừa những giá trị tốt đẹp từ truyền
thống của dân tộc Việt Nam; đồng thời, cũng là sự kế tục tư tưởng xã hội cao đẹp
trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Vì vậy, ý thức xã hội mới ở Việt Nam hiện
nay mang tính khóa học, tiên tiến, cách mạng và dân tộc.
Việc xây dựng ý thức xã hội mới ở nước ta có tầm quan trọng lớn lao nhưng
là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp. Đó khơng phải là sản phẩm hình thành một cách
tự phát mà chủ yếu là kết quả của hoạt động tự giác, đòi hỏi sự chủ động tham gia
của đông đảo nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đội tiên phong
cahsc mạng của giai cấp cách mạng, cũng là đội tiên phong của toàn dân tộc. Đảng
cũng chỉ có thể hồn thành sứ mệnh đó bằng cách làm cho hoạt động lãnh đạo trở
thành một q trình, trong đó có sự thống nhất giữa cải tạo xã hội và tự cải tạo
chính mình.
Ý thức xã hội mới Việt Nam có 03 vai trị chính: Về tư tưởng chính trị; về
văn hóa, con người và về kinh tế - xã hội. Quan điểm duy vật lịch sử về ý thức xã
hội giúp chúng ta thấy rõ vị trí và vai trị đặc biệt quan trọng của việc xây dựng ý

5


thức xã hội mới, xây dựng văn hóa, tinh thần trong công cuộc xây dựng xã hội
mới; đồng thời, giúp chúng ta tránh rơi vào chủ nghĩa chủ quan duy ý chí trong
việc thực hiện nhiệm vụ đó.

Chương 2
Vai trị của ý thức xã hội
Nói đến vai trị của ý thức xã hội mới Việt Nam chính là đề cập khía cạnh
tác động tích cực, nói đến việc phát huy sức mạnh của ý thức xã hội trong quá
trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1. Vai trò về tư tưởng chính trị
Ý thức xã hội mới Việt Nam góp phần củng cố chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, phát triển hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, định hướng thống
nhất về quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng… trong cộng đồng, củng cố
tình cảm, niềm tin vào Đảng, Nhà nước, chế độ và sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa… Ý thức xã hội mới góp phần định hướng tư tưởng chính trị, đấu tranh
chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng chính trị. Đây là một
nội dung quan trọng của cuộc đấu tranh giai cấp, một nhiệm vụ quan trọng của
công tác xây dựng Đảng, xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp
đổi mới đất nước
2. Vai trị về văn hóa
Ý thức xã hội mới Việt Nam góp phần định hướng tư tưởng, văn hóa xã hội;
góp phần xây dựng thế giới quan khoa học; tư tưởng, tình cảm, nhân cách, lối sống
tích cực, chủ động, sáng tạo trong cộng đồng. Đây chính là vai trò đặc biệt của ý
thức xã hội mới.
Thưc tế cho thấy, nền tảng văn hóa, tư tưởng vững chắc sẽ làm cho con
người ln gắn bó với cộng đồng, tạo sức mạnh nội sinh, sự đồng thuận xã hội,
truyền thống u nước, thương nịi, khối đại đồn kết tồn dân tộc và sự phát triển

bền vững trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nếu tư tưởng văn hóa khơng
vững, sẽ dẫn đến sự thiếu đồng thuận vì mục tiêu chung, phân hóa về tưt ưởng
trong xã hội; lai căng, xuống cấp về bản sắc văn hóa; suy thối về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống; người dân thiếu niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản
lý của Nhà nước và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc. Điều đó sẽ dẫn
đến hậu quả: Chính trị khủng hoảng, kinh tế trì trệ, pháp luật kém hiệu lực, nền
6


tảng xã hội lung lay, tạo mảnh đất màu mỡ để các thế lực thù địch “tự tưng tự tác”
bằng những âm mưu, thủ đoạn để chuyển hóa, thay đổi chế độ. Từ đó, sẽ dẫn đến
“tự chuyển hóa”, “tự diễn biến” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và trong xa hội,
gây nên những tổn thất khó lường đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, ảnh
hưởng xấu đến vai trò lãnh đạo của Đảng và đe dọa sự tồn vong của chế độ.
3. Vai trò về kinh tế và xã hội
Ý thức xã hội mới Việt Nam góp phần hình thành văn hóa kinh doanh Việt
Nam, xây dựng niềm tự hào dân tộc, ý thức tự lực, tự cường trong sản xuất kinh
doanh. Ý thức xã hội mới Việt Nam còn giúp con người Việt Nam chủ động, tích
cực hội nhập quốc tế, đồng thời biết xây dựng được nền kinh tế độc lập, tự chủ. Ý
thức xã hội mới Việt Nam góp phần vào việc giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa của quá trình phát triển kinh tế thị trường.
4. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng ý thức xã hội mới
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã xác định: Xã hội xã hội
chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu,
nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế
phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hố tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất cơng, có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt
Nam bình đẳng, đồn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Có
thể nói, mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã xác định đó là định hướng
có tính chiến lược trong việc xây dựng ý thức xã hội mới ở nước ta hiện nay.
Cùng với định hướng cơ bản trong việc phát triển các lĩnh vực của đời sống
xã hội, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X cũng tiếp tục khẳng định một
số định hướng lớn trong quá trình xây dựng ý thức xã hội mới. Vấn đề này có thể
khái quát lại trên một số điều cơ bản sau:
Thứ nhất, xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Về bản chất, xã hội mới là xã hội dân chủ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: Nước ta là nước dân chủ; Bao nhiêu quyền lợi đều vì dân; Bao nhiêu
quyền hạn đều của dân; Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân; Sự
nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân; Chính quyền từ xã đến Chính
phủ Trung ương do dân cử ra; Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.
Đây là tư tưởng cơ bản khẳng định chủ thể tích cực cũng là đối tượng phục
vụ chính của xã hội mới. Ý thức xã hội mới phản ánh lợi ích của nhân dân và
chính do nhân dân xây dựng. Tinh thần này được thể hiện trong các quan điểm,
7


chủ trương của Đảng và Nhà nước, trong các chính sách cụ thể của từng ngành,
từng địa phương. Vì vậy, mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước đều có sự tham gia xây dựng của nhân dân, phản ánh lợi ích của nhân dân.
Nhân dân có quyền và trách nhiệm trong việc xây dựng, hoạch định và thi hành
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; xây dựng, tuyên truyền, quảng
bá, phát triển ý thức xã hội mới.
Như vậy, có thể nói, sự nghiệp đổi mới khơng thể thành cơng nếu thiếu sự
đóng góp của nhân dân; cơng cuộc xây dựng nền văn hố mới, bảo tồn giá trị

truyền thống dân tộc, kế thừa những cái tốt, lọc bỏ những thói hư tật xấu, chống sự
xuyên tạc, bóp méo của các thế lực thù địch khơng thể thành cơng nếu thiếu sự
đóng góp của nhân dân. Mặt khác, phải thấy rằng, việc xây dựng ý thức xã hội
mới cũng không thể thành công nếu thiếu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đội
tiên phong của giai cấp cách mạng, cũng là đội tiên phong của toàn dân tộc, bởi
Đảng ta là một tổ chức chính trị bao gồm những cá nhân ưu tú nhất của xã hội.
Tuy nhiên, để làm tốt vai trò lãnh đạo, Đảng phải đổi mới, tự chỉnh đốn
nhằm nâng cao năng lực, sức chiến đấu mà trước hết là bản lĩnh chính trị, trình độ
trí tuệ của Đảng.
Thứ hai, xây dựng ý thức xã hội mới trên cơ sở đẩy mạnh sự nghiệp xây
dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn
hoá thực sự trở thành mục tiêu, động lực của phát triển, thành nền tảng tinh thần
của xã hội.
Sự phát triển xã hội khơng chỉ có đời sống vật chất, mà cịn có đời sống tinh
thần. Đó là hai mặt khơng thể thiếu và giữa chúng có sự gắn bó, tác động tương hỗ
có thể làm giàu, phong phú cho nhau và cũng có thể kìm hãm nhau trong q trình
phát triển. Bên cạnh kinh tế, văn hố ln đóng vai trị quyết định trong q trình
phát triển và sự trường tồn của mỗi quốc gia, dân tộc. Hơn nữa, từ trong bản chất,
văn hố đã mang tính nhân văn, chứa đựng cái đúng, cái tốt, cái đẹp được cộng
đồng dân tộc sáng tạo, lưu giữ, truyền lại cho thế hệ sau thành truyền thống văn
hoá, thành hồn thiêng dân tộc. Các truyền thống này được chuyển tải vào các lĩnh
vực chính trị, đạo đức, pháp luật, nghệ thuật, tơn giáo, v.v. tạo thành mơi trường
văn hố ni dưỡng đời sống tinh thần mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Trong điều
kiện hiện nay, văn hố cịn đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế
thị trường theo hướng phát triển bền vững, hạn chế bớt những mặt trái của kinh tế
thị trường. Chính vì vậy, xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc là nội dung cốt lõi trong đời sống tinh thần xã hội, là nhiệm vụ quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Quan điểm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc đã được Đảng ta đề cập đến từ rất sớm, được phản ánh trong Đề cương văn

hóa Việt Nam (năm 1943), trong các văn kiện sau đó của Đảng. Ngay trong Đề
cương văn hố Việt Nam, Đảng ta đã xác định văn hoá là một trong ba mặt trận:
8


kinh tế, chính trị, văn hố và ba mặt trận này có quan hệ biện chứng với nhau, tạo
thành động lực đưa cách mạng tới thành công. Và cũng ở đây, văn hoá được xác
định "gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật". Như vậy, văn hóa là cốt lõi của ý
thức xã hội và xây dựng nền văn hóa mới là cốt lõi của việc xây dựng ý thức xã
hội mới. Với quan niệm đó, Đảng ta đã xác định ba phương châm xây dựng văn
hóa mới là: dân tộc, khoa học và đại chúng.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội được thông qua tại Đại hội VII (1991), Đảng ta đã chỉ rõ, xã hội mà chúng ta
xây dựng là xã hội có nền văn hố tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Mốc đánh giá
sự đổi mới tồn diện trong tư duy về văn hóa của Đảng thể hiện ở Nghị quyết
Trung ương 5 khóa VIII - Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong Văn kiện này, Đảng ta đã khẳng định: trong
quá trình xây dựng nền văn hóa mới, chúng ta khơng chỉ chú ý giữ gìn, kế thừa
những giá trị và bản sắc văn hóa dân tộc, mà cịn phải chú trọng tiếp thu, kế thừa
tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Gần đây nhất, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI và Văn kiện Đại hội XII
của Đảng xác định: Xây dựng nền văn hóa con người Việt Nam phát triển tồn
diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân
chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tàng tinh thần vững chắc của xã
hội, là sức mạnh nội sunh quan trọng, bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn
minh”.
Thứ ba, xây dựng ý thức xã hội mới gắn với tăng cường học tập lý luận,
tuyên truyền, giáo dục, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác -Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, làm cho hệ tư tưởng của Đảng trở thành nền tảng và kim chỉ

nam cho nhận thức, hành động của toàn Đảng và nhân dân.
Năm 1939, khi đưa ra quan điểm của mình về đường lối, chủ trương của
Đảng trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ (1936-1939), Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Phải tổ
chức học tập có hệ thống chủ nghĩa Mác - Lênin để nâng cao trình độ văn hóa và
chính trị cho các đảng viên. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đi vào giai
đoạn quyết định, trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ II,
Người đã khẳng định: Học tập chủ nghĩa, dùi mài tư tưởng, nâng cao lý luận,
chỉnh đốn tổ chức - là những việc cần kíp của Đảng. Tại Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ III, trong Diễn văn khai mạc, một lần nữa, Người khẳng định: Chúng ta
phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tăng cường giáo dục tư tưởng trong
Đảng. Vấn đề này tiếp tục được Đảng ta khẳng định qua các thời kỳ cách mạng.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, việc thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW, ngày
15/5/2016 của Bộ Chính trị về tiếp tục học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh - đây được coi là một nội dung quan trọng trong công
tác xây dựng Đảng. Bởi lẽ, để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh u cầu về năng lực, trình độ chun mơn, đạo
9


đức cách mạng, đảng viên cịn phải có phẩm chất chính trị tốt, kiên định lập
trường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội... Do vậy, xây dựng ý thức xã hội mới
cần tiếp tục tăng cường hoạt động lý luận, nghiên cứu sâu rộng và có những bổ
sung về lý luận để làm phong phú kho tàng tri thức của chủ nghĩa Mác - Lênin
trong tình hình mới.
Thứ tư, xây dựng ý thức xã hội mới cần ý thức sâu sắc sự kết hợp chặt chẽ
giữa “xây” và “chống”.
Ý thức xã hội mới là cốt lõi trong đời sống tinh thần xã hội mới; nó khơng
hình thành một cách tự phát trong lịng xã hội cũ; nó cần được chủ động nhận
thức, xây dựng, truyền bá thành ý thức chung của con người trong xã hội mới,
thành động lực tinh thần của con người trong quá trình xây dựng xã hội mới. Vì

vậy, cần xây dựng ý thức xã hội mới đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trong
thời kỳ đổi mới và hội nhập. Trước hết, đó là tri thức, tình cảm, quyết tâm kiên
định con đường xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh đó, cần trang bị cho con người những tri thức mới
của thời đại, tri thức về kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, đặc biệt là những tri
thức về khoa học và cơng nghệ... Đó là u cầu tiên quyết trong quá trình xây
dựng xã hội ta hiện nay. Đi cùng với nó là việc bồi dưỡng lý tưởng sống, hoài bão,
ước mơ, khát vọng cống hiến, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Ngoài ra, cần đẩy
mạnh việc xây dựng và phát huy ý thức làm chủ trong nhân dân, bồi dưỡng và
phát huy lòng yêu nước, ý thức về dân tộc và tinh thần đoàn kết dân tộc; nâng cao
ý thức phòng chống tham nhũng, lãng phí, trước hết là trong đội ngũ cán bộ, đảng
viên.
Cùng với việc xây dựng, bồi dưỡng ý thức xã hội mới, cần chống những
biểu hiện cản trở sự nghiệp xây dựng đó. Về hệ tư tưởng, đó là việc tập trung khắc
phục tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng
viên với các biểu hiện như: dao động về lý tưởng, mục tiêu và con đường phát
triển của dân tộc; phủ nhận thành quả cách mạng và giá trị truyền thống của dân
tộc; thiếu thống nhất với các quan điểm, chủ trương của Đảng, từ đó nói và làm
khơng theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; ý thức mất cảnh giác
trước âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch; khơng
kịp thời và kiên quyết phê phán, đấu tranh với những ý kiến, quan điểm sai trái...
Tại hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ chín, khố IX, Đảng ta đã nhấn
mạnh: Thường xuyên chỉ đạo uốn nắn những nhận thức lệch lạc, mơ hồ, những
biểu hiện dao động về tư tưởng, suy giảm niềm tin vào chủ nghĩa xã hội và sự lãnh
đạo của Đảng, đấu tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa cá nhân, những
biểu hiện cơ hội, thực dụng, bè phái, cục bộ, phê phán bác bỏ các quan điểm sai
trái thù địch, chủ động đối phó với các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực lợi dụng
vấn đề tôn giáo, dân tộc và nhân quyền chống phá cách mạng nước ta.
Khơng dừng ở góc độ hệ tư tưởng, trong tâm lý xã hội cũng cần có những
biểu hiện phải khắc phục. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: “Thói quen và

10


truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến
bộ”(7). Hiện nay, chúng ta cần phải khắc phục những biểu hiện tâm lý vốn được
coi là hậu quả của nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp - tâm lý thụ động,
trông chờ, ỷ lại, xin cho, đối phó; khắc phục tâm lý của nền kinh tế tiểu nông, sản
xuất nhỏ lâu dài của lịch sử và hiện vẫn còn tồn tại là tâm lý lạc hậu, kinh nghiệm
chủ nghĩa, tuỳ tiện, đố kỵ, coi thường pháp luật và cả những tâm lý vốn khá phổ
biến ở những nước chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo, như tâm lý trọng nam
khinh nữ, tâm lý gia trưởng... Đặc biệt, trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý,
những tâm lý này cịn có nhiều biểu hiện, biến tướng và gây hậu quả nặng nề, biến
họ thành những kẻ cơ hội, cá nhân chủ nghĩa, v.v..

Chương 3
Một số giải pháp trong xây dựng
ý thức xã hội mới Việt Nam hiện nay
Xây dựng ý thức xã hội mới ở nước ta hiện nay đang đứng trước những
thách thức phức tạp, đòi hỏi chúng ta phải chủ động nhận thức để có những chiến
lược, giải pháp phù hợp. Thách thức trước hết ở ngay trong những biến đổi nhanh
chóng và phức tạp của tồn tại xã hội, cơng cuộc tồn cầu hóa và cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ hay sự chống phá điên cuồng trên lĩnh vực tư tưởng - văn
hóa của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta… Chính vì vậy, để xây
dựng ý thức xã hội mới Việt Nam, chúng ta cần thực hiện đồng bộ các giải pháp
sau:
1. Đẩy mạnh công cuộc xây dựng đời sống kinh tế mới, văn hoá mới,
con người mới. Nghiên cứu sự vận động của lịch sử qua các thời kỳ, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khái quát: Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của
họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ. Ý thức xã hội mới luôn
bị chi phối bởi điều kiện sinh hoạt vật chất, điều kiện kinh tế của xã hội mới. Vì

vậy, xây dựng ý thức xã hội mới phải bắt đầu từ việc xây dựng đời sống vật chất
của xã hội mới. Những biểu hiện lệch lạc trong đời sống tinh thần ở xã hội ta thời
11


gian qua có nguyên nhân từ những yếu kém trong cơng tác tư tưởng, nhưng cũng
có ngun nhân từ những kết quả còn rất hạn chế trong việc xây dựng nền kinh tế
mới. Bên cạnh đó, xây dựng ý thức xã hội mới cũng phụ thuộc rất nhiều vào kết
quả xây dựng nền văn hoá mới, con người mới, bởi giữa kinh tế, văn hố và con
người ln có mối liên hệ chặt chẽ, gắn bó mật thiết với nhau, chi phối và ảnh
hưởng qua lại lẫn nhau.
2. Không ngừng hoàn thiện ý thức xã hội mới theo hướng khoa học,
cách mạng, tiến bộ, đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội mới, con người mới
Về mặt lý luận, chúng ta cần đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn, kịp thời làm sáng tỏ những vấn đề lý luận mà cuộc sống đang đặt ra, như vấn
đề phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề xây dựng
Đảng cầm quyền trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần, vấn đề xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa...
Mặt khác, chúng ta cũng cần chú trọng vấn đề kế thừa và đổi mới những giá
trị truyền thống của dân tộc. Đó khơng chỉ là sự gìn giữ, bảo lưu các giá trị truyền
thống, mà cịn phải tiếp thu có chọn lọc các giá trị tinh thần được du nhập từ bên
ngồi. Q trình này cần được nhìn nhận một cách cụ thể trong điều kiện cụ thể ở
nước ta hiện nay. Lòng yêu nước nồng nàn, lòng tự hào dân tộc là những giá trị
tinh thần truyền thống, song trong điều kiện hiện nay, nó cần được thể hiện ở tinh
thần cần cù, sáng tạo, ý chí quyết tâm vượt khó để cải tạo cuộc sống, đưa đất nước
thốt khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Tinh thần đoàn kết dân tộc phải được thể
hiện thành tinh thần đồng thuận trên cơ sở giải quyết hài hồ lợi ích cá nhân và lợi
ích cộng đồng, xoá bỏ mặc cảm về thành phần, giai cấp, dân tộc, tơn giáo vì một
nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.

3. Tăng cường công tác tư tưởng phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục,
phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong quá trình tun
truyền, giáo dục ý thức xã hội mới.
Trong cơng tác tư tưởng, chúng ta cần bám sát thực tiễn, lắng nghe tâm tư,
nguyện vọng và tìm ra những vướng mắc trong tư tưởng của cán bộ, đảng viên và
nhân dân để kịp thời giải đáp. Tăng cường vai trò của báo chí, của các phương tiện
thơng tin đại chúng khác trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước, định hướng dư luận theo chiều hướng tích cực, đồng thời phê phán
những quan điểm sai trái, luận điệu phản động. Trong công tác giáo dục, tuyên
truyền chủ nghĩa Mác -Lênin, cần tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp và hình
thức để việc tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác -Lênin hiệu quả hơn.
4. Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, mở rộng dân chủ, khơi dậy tính
chủ động, tự giác của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
12


Xây dựng ý thức xã hội mới là quá trình đấu tranh gay go, phức tạp nhằm
khắc phục những tư tưởng, tập quán lạc hậu, làm thất bại cuộc tấn công về tư
tưởng của các thế lực phản động, kế thừa những giá trị tích cực trong truyền thống
và hình thành ý thức xã hội mới. Đây là quá trình lâu dài, phức tạp, địi hỏi tính tự
giác cao.
Vì vậy, thơng qua chủ trương, chính sách, Đảng cần phải khắc phục những
biểu hiện của khuynh hướng coi nhẹ vai trò của nhân tố tư tưởng, chính trị, đạo
đức. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức trong các
cơ quan báo chí, khắc phục những biểu hiện lệch lạc trong hoạt động báo chí, xuất
bản, văn hoá, văn nghệ, nhất là những biểu hiện xa rời tơn chỉ, mục đích, chạy
theo thị hiếu thấp kém. Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh... Cùng với sự lãnh đạo của Đảng, cần mở rộng các
hình thức dân chủ để nhân dân có thể tham gia vào quá trình xây dựng ý thức xã
hội mới một cách chủ động và trực tiếp.

Sự nghiệp xây dựng ý thức xã hội mới phải là quá trình tự giác, cần sự đóng
góp của tất cả mọi người, trong đó đội ngũ cán bộ, đảng viên, các chủ thể lãnh
đạo, quản lý có vai trị đặc biệt quan trọng.

Kết luận

Ý thức xã hội mang tính chung của cộng đồng, được phản ánh ở ý thức cá
nhân. Khi ý thức xã hội được hình thành thì nó chi phối trở lại ý thức cá nhân, vì
vậy sự phong phú của đời sống tinh thần xã hội, sự phong phú của ý thức xã hội là
tiền đề cho sự phát triển đời sống tinh thần, ý thức cá nhân. Mặt khác, sự độc đáo,
riêng biệt trong điều kiện sinh hoạt vật chất và tinh thần của cá nhân là những yếu
tố tạo nên sự khác biệt đa dạng của ý thức cá nhân và đó cũng là tiền đề cho sự
phát triển đời sống tinh thần của xã hội, ý thức xã hội.
Vì vậy việc xây dựng ý thức xã hội mới Việt Nam là một việc hết sức cần
thiết đối. Việc xây dựng ý thức xã hội mới Việt Nam sẽ góp phần ngăn chặn, đẩy
lùi sự suy thối về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân.

13


Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị: Triết học Mác-Lênin. NXB Lý luận
chính trị.
2. Các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI – XII. NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
3. C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
4. V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, 1977.
5. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2011.


14


Mục lục

15



×