Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

(TIỂU LUẬN) quan điểm duy vật lịch sử về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội và ý nghĩa của việc nghiên cứu đó trong nghiên cứu, học tập của sinh viên NEU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.65 KB, 15 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------

BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài: “Quan điểm duy vật lịch sử về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại
xã hội và ý thức xã hội và ý nghĩa của việc nghiên cứu đó trong nghiên cứu,
học tập của sinh viên NEU/Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện
nay”

Họ và tên: VŨ THỊ PHƯƠNG
Mã số sinh viên: STT 40
Lớp TC: Triết học Mác – Lênin (221)_14
GV hướng dẫn: TS. Lê Thị Hồng

Hà Nội - 2022


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
NỘI DUNG ....................................................................................................... 2
A. Cơ sở lý thuyết .......................................................................................... 2
1. Ý thức xã hội .............................................................................................. 2
1.1. Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản của xã hội ................... 2
1.2. Khái niệm ý thức xã hội và kết cấu của ý thức xã hội ......................... 2
2. Mối quan hệ giữa biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội ........... 3
B. Ý nghĩa của việc nghiên cứu trong học tập của sinh viên NEU/Việt Nam
trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay ..................................................... 6
1. Thực trạng vấn đề học tập của sinh viên Việt Nam hiện nay .................... 6
2. Giải pháp .................................................................................................... 9
3. Liên hệ bản thân ....................................................................................... 10


KẾT LUẬN ..................................................................................................... 12
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
Đời sống xã hội có hai lĩnh vực quan trong đó là lĩnh vực vật chất và lĩnh
vực tinh thần, đó cũng chính là hai lĩnh vực tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Vì
vậy, cùng với việc phân tích các quy luật của sự phát triển xã hội, các quan hệ
kinh tế và các quan hệ chính trị - xã hội thì khơng thể khơng chú trọng đến mặt
quan trọng khác của đời sống xã hội là ý thức xã mội.
Mỗi con người sinh ra đều mang trong mình một sứ mệnh riêng. Cũng
giống như Xukhơm linxki từng nói: “Con người sinh ra khơng phải để tan biến
đi như một hạt cát vô danh. Họ sinh ra để lưu lại dấu ấn trên mặt đất, trong trái
tim người khác”.
Từ xưa đến nay, con người vẫn được xem là tế bào cấu thành nên một
xã hội. Vai trị của con người trong cơng cuộc đổi mới và xây dựng đất nước
vô cùng quan trọng. Ý thức xã hội của mỗi cá nhân là vô cùng quan trọng. Đó
là yếu tố thiết yếu giúp chúng ta vừa có trách nhiệm với bản thân vừa có trách
nhiệm với xã hội. Bởi vậy em đã lựa chọn đề tài: “Quan điểm duy vật lịch sử
về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội và ý nghĩa
của việc nghiên cứu đó trong nghiên cứu, học tập của sinh viên NEU/Việt
Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của
mình.
Do thời gian có hạn và kiến thức bản thân cịn hạn chế nên bài viết sẽ
khơng tránh khỏi những thiếu sót, mong thầy cơ cùng tồn thể bạn đọc có thể
bỏ qua và thơng cảm.
Em xin chân thành cảm ơn!

1



NỘI DUNG
A. Cơ sở lý thuyết
1. Ý thức xã hội
1.1 Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt
vật chất của xã hội. Đó là quá trình hoạt động, sinh sống vật chất của các cá
nhân cùng với những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ.
Trong toàn bộ sinh hoạt hiện thực của con người, trước hết nói đến vị trí,
vai trị quan trọng quyết định của sản xuất vật chất, đặc biệt là sự sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt. C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Sản xuất ra những tư liệu
sinh ho ạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xu ất ra chính đời sống
vật chất của mình”
Tồn tại xã hội khơng chỉ quyết định sự hình thành của ý thức xã hội mà
còn quyết định cả nội dung và hình thức biểu hiện của nó. Mỗi yếu tố của tồn
tại xã hội có thể được các hình thái ý thức xã hội khác nhau phản ánh từ các
góc độ khác nhau theo những cách thức khác nhau.
1.2 Khái niệm ý thức xã hội và kết cấu của ý thức xã hội
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, là bộ phận hợp thành
của văn hóa tinh thần của xã hội. Văn hóa tinh thần của xã hội mang nặng dấu
ấn đặc trưng của hình thái kinh tế - xã hội, của các giai cấp đã tạo ra nó.
Ý thức xã hội bao gồm tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội. Trong hệ tư
tưởng xã hội thì quan trọng nhất là các quan điểm, các học thuyết và các tư
tưởng. Trong tâm lý xã hội thì có tình cảm, tâm trạng, truyền thống, … nảy sinh
từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội ở những giai đoạn phát triển nhất
định. V.I. Lênin viết: “Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, đó là học thuyết
của Mác”. Tuy nhiên, sự phản ánh này không phải sự phản ánh thụ động, bất
động, trong gương mà là một quá trình biện chứng phức tạp, là kết quả của mối
quan hệ hoạt động, tích cực của con người đối với hiện thực.
Về mặt hình thức thì ý thức xã hội tồn tại dưới nhiều hình thức khác

nhau. Sự đa dạng các ý thức xã hội là do tính nhiều vẻ và đa dạng của đời sống
xã hội quy định; chúng phản ánh xã hội theo những cách thức khác nhau. Tùy
thuộc vào góc độ xem xét người ta thường chia ý thức xã hội thành ý thức xã
hội thông thường và ý thức lý luận tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội.
Ý thức xã hội thông thường hay ý thức thường ngày là những tri thức,
những quan niệm của con người hình thành một cách trực tiếp trong các hoạt
2


động tr ực tiếp hằng ngày nhưng chưa được hệ thống hóa, chưa được tổng hợp
và khái quát hóa.
Ý thức lý luận hay ý thức khoa học là những tư tưởng, những quan điểm
được tổng hợp, được hệ thống hóa và khái quát hóa thành cách học thuyết xã
hội dưới dạng các khái niệm, các phạm trì và các quy luật.
Tâm lý xã hội là ý thức xã hội thể hiện trong ý thức cá nhân. Tâm lý xã
hội bao gồm tồn bộ tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, thói quen, nếp sống, nếp
nghĩ, phong tục, tập quán, ước muốn, v. v. của một người, một tập đoàn người,
một bộ phận xã hội hay của tịan thể xã hội hình thành dưới tác động trực tiếp
của cuộc sống hằng ngày của họ và phản ánh cuộc sống đó. Tâm lý xã hội cũng
phản ánh một cách trực tiếp và tự phát những điều kiện sinh hoạt hằng ngày
của con người cho nên nó chỉ ghi lại những gì dễ thấy, những gì nằm trên bề
mặt của tồn tại xã hội.
Hệ tư tưởng là giai đoạn phát triển cao hơn của ý thức xã hội, là sự nhận
thức lý luận về tồn tại xã hội. Hệ tư tưởng có khả năng đi sâu vào bản chất của
mọi mối quan hệ xã hội; là kết quả của sự tổng kết, sự khái qt hóa các kinh
nghiêm xã hội để hình thành nên những quan điểm, những tư tưởng về chính
trị, pháp luật, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, v.v..
Mặc dù tâm lý xã hội và hệ tư tưởng thuộc hai trình độ khác nhau của ý
thức xã hội nhưng chúng có mối liên hệ qua lại và tác động qua lại lẫn nhau.
Nếu tâm lý xã hội có thể thúc đẩy hoặc cản trở sự hình thành và sự tiếp nhận

một hệ tư tưởng nào đó; có thể giảm bớt sự xơ cứng hoặc công thức cứng nhắc
của hệ tư tưởng, thì trái lại, hệ tư tưởng khoa học có thể bổ sung, làm gia tăng
hàm lượng trí tuệ cho tâm lý xã hội, góp phần thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển
theo chiều hướng tích cực.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Quan điểm duy vật lịch sử khẳng định r ằng, ý thức xã hội và tồn tại xã
hội có mối quan hệ biện chứng; rằng, các hình thái ý thức xã hội không phải là
những yếu tố thụ động; trái lại, mỗi hình thái ý thức xã hội đều có sự tác động
ngược trở lại tồn tại xã hội, trước hết là tác động trở lại cơ sở kinh tế. Đồng
thời, các hình thái ý thức xã hội cũng tác động lẫn nhau theo những cách thức
khác nhau. Tồn tại xã hội nào thì có ý thức xã hội ấy. Tồn tại xã hội quyết định
nội dung, tính chất, đặc điểm, xu hướng vận động, sự biến đổi và sự phát triển
của các hình thái ý thức xã hội. Nếu xã hội còn tồn tại sự phân chia gia cấp thì
ý thức xã hội nhất định cũng mang tính giai cấp. Khi tồn tại xã hội, nhất là
3


phương thức sản xuất thay đổi thì những tư tưởng quan điểm về chính trị, pháp
luật, triết học và cả quan điểm thẩm mỹ lẫn đạo đức dù sớm hay muộn cũng sẽ
có những sự thay đổi nhất định. Tuy nhiên, ý thức xã hội khơng phải là yếu tố
hồn toàn thụ đọng hoặc tiêu cực. Mặc dù chịu sự quy định và chi phối của tồn
tại xã hội nhưng ý thức xã hội khơng có những tính độc lập tương đối, có thể
tác động trở lại mạnh mẽ đối với tồn tại xã hội, mà đặc biệt ý thức xã hội cịn
có thể vượt trước tồn tại xã hội, thậm chí có thể vượt trước rất xa tồn tại xã hội.
Đó chính là điều Ph.Ăngghen đã từng nói răng, nhiều khi logic phải chờ đợi
lịch sử.
Các hình thái ý thức xã hội có đặc điểm chung là mặc dù bị tồn tại xã hội
quy định, song đều có tính độc lập tương đối.
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội thể hiện ở những điểm sau đây:
 Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội

Những nguyên nhân làm cho ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã
hội là do:
Trước hết, do tác động mạnh mẽ và nhiều mặt trong hoặt động thực tiễn
của con người nên tồn tại xã hội diễn ra với tốc độ nhanh hơn khả năng phản
ánh của ý thức xã hội.
Thứ hai, do sức mạnh của thói quen, tập qn, truyền thống và do cả tính
bảo thủ của hình thái ý thức xã hội. Hơn nữa, những điều kiện tồn tại xã hội
mới cũng chưa đủ để làm cho những thói quen, tập quán và truyền thống cũ
hoàn toàn mất đi.
Thứ ba, ý thức xã hội gắn liền với lợi ích của những tập đồn người, của
các giai cấp nào đó trong xã hội. Các tập đồn hay giai cấp lạc hậu thường níu
kéo, bám chặt vào những tư tưởng lạc hậu để abro vệ và duy trì quyền lợi ích
kỷ của họ, để chống lại các lực lượng tiến bộ trong xã hội.
Vì vậy, muốn xây dựng xã hội đổi mới nhất định phải từng bước xóa bỏ
được những tàn dư, những tư tưởng và ý thức xã hội cũ sông song với việc bồi
đắp, xây dựng và phát triển ý thức xã hội mới. Tuy nhiên, khi thực hiện những
nhiệm vụ này thì khơng được nóng vội, khơng được dùng các biện pháp hành
chính như đã từng xảy ra ở các nước xã hội chủ nghĩa.
 Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Triết học Mác – Lênin thừa nhận rằng, ý thức xã hội thường lạc hậu hơn
tồn tại xã hội nhưng cũng có thể vượt trước tồn tại xã hội. Thực tế là rất nhiều
tư tưởng khoa học và triết học trong những điều kiện nhất định có thể vượt
trước được tồn tại xã hội của thời đại rất xa. Sở dĩ ý thức xã hội có khả năng đó
4


là do nó phản ánh đúng được những mối liên hệ logic, khách quan, tất yếu, bản
chất của tồn tại xã hội.
Vì vậy, trong thời đại chúng ta, chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn đang là thế
giới quan và phương pháp luận chung nhất cho sự nhận thức và cho cơng cuộc

cải tạo hiện thực.
 Ý thức xã hội có tính thừa kế
Tiến trình phát triển đời sống tinh thần của xã hội loài người cho thấy
rằng, các quan điểm lý luận, các tư tưởng lớn của thời đại sau bao giờ cũng dựa
vào những tiền đề đã có từ các giai đoạn lịch sử trước đó. Chính C.Mác và
Ph.Ăngghen cũng đã thừa nhận rằng, “ngay cả chủ nghĩa cộng sản phát triển
cũng trực tiếp bắt nguồn từ chủ nghĩa duy vật Pháp”. Và, “nếu trước đó khơng
có triết học Đức, đặc biệt là triết học Heeghen, thì sẽ khơng bao giờ có chủ
nghĩa xã hội khoa học Đức, chủ nghĩa xã hội duy nhất khoa học tồn tại từ trước
đến nay”. Vì vậy, hồn tồn hợp quy luật rằng, chủ nghĩa Mác khơng chỉ tiếp
thu tất cả những gì là tinh hoa trong lịch sử văn minh nhân loại mà còn kế thừa
trực tiếp từ nền triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa
xã hội không tưởng Pháp.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, trong các xã hội có giai cấp thì các giai cấp
khác nhau sẽ kế thừa những di sản khác nhau của những giai đoạn trước. Giai
cấp tiến bộ đang lên sẽ chọn kế thừa những tư tưởng tiến bộ của thời đại trước,
trái lại, giai cấp lỗi thời, đi xuống bao giờ cũng chọn tiếp thu những tư tưởng
và lý thuyết bảo thủ, phản tiến bộ để cố gắng tìm cách duy trì sự thống trị của
mình
Quan điểm của triết học Mác – Lênin về tính kế thừa của ý thức xã hội
có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng văn hóa tinh thần của dân tộc ta
hiện nay.
 Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội
Các hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội theo những cách khác
nhau, có vai trị khác nhau trong xã hội và trong đời sống của con người. Tuy
nhiên, ở các thời đại lịch sử khác nhau, trong những hoàn cảnh khác nhau dù
vai trị của các hình thái ý thức xã hội khơng giơng nhau nhưng chúng vẫn có
sự tác động qua lại lẫn nhau.
 Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội chịu sự tác động trở lại của ý thức xã hội là một biểu hiện

khác của tình độc lập tương đối của ý thức xã hội.
5


Ph.Ăngghen viết: “Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, v.v. đều dựa trên cơ sở phát triển kinh tế. Nhưng tất
cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế. Vấn đề
hồn tồn khơng phải là chỉ có hồn cảnh kinh tế mới là ngun nhân, chỉ có
nó là tích cực, cịn tất cả những cái còn lại đều chỉ hậu quả thụ động”.
Sự tác động tr ở lại đối với tồn tại xã hội của các hình thái ý thức xã hội
mạnh hay yếu cịn phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể, vào các quan
hệ kinh tế vốn là cơ sở hình thành các hình thái ý thức xã hội; vào trình độ phản
ánh và sức lan tỏa của ý thức đối với các như cầu khác nhau của sự phát triển
xã hội; đặc biệt là vào vai trò lịch sử của giai cấp đại điện cho ngon cờ tư tưởng
đó. Vì vậy, cần phân biệt ý thức xã hội tiến bộ với ý thức xã hội lạc hậu, cản
trở sự tiến bộ xã hội.
B. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đó trong nghiên cứu, học tập của sinh viên
NEU/Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay
1.Thực trạng vấn đề học tập của sinh viên Việt Nam hiện nay
Trong những năm gần đây xã hội đang thay đổi từng ngày với một tốc
độ chóng mặt. Nó bị ảnh hưởng bởi những luồn tư tưởng từ khắp nơi xâm nhập
vào. Vì thế mà xã hội ngày càng phát triển nhưng bên cạnh đó nó cũng làm thay
đổi về tư tưởng, về lối sống của nhiều người. Đặc biệt ở đây, một vấn đề rất
được quan tâm là lối sống của sinh viên ngày nay. Nói đến sinh viên tức là nói
đến thế hệ trẻ đầy sức sống và sức sáng tạo. Họ nắm trong tay tri thức của thời
đại, chìa khóa mở ra cánh cửa tiến bộ xã hội nói chung và sự phát triển đất nước
nói riêng. Họ là lớp người đang được đào tạo toàn diện và đầy đủ nhất, bao gồm
các chuyên ngành học trên khắp các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, khoa học…
Nhưng xã hội ngày càng văn minh hiện đại, công nghệ thông tin ngày
càng phát triển, công cuộc hội nhập với thể giới càng cao, đời sống con người

càng được nâng cao thì càng đặt ra cho sinh viên, tầng lớp tri thức, giới trẻ ngày
nay càng nhiều thửu thách. Khi mà các nền văn hóa phương tây đang du nhập
vào Việt Nam, có những điều tốt đẹp nhưng cũng khơng ít giá trị văn hóa khơng
thích hợp với tư tưởng, truyền thống của người phương đông, câu hỏi đặt ra là
sinh viên, tầng lớp trí thức sẽ thích ứng như thế nào với một môi trường mới?
Thực trạng sinh viên hiện nay ngày càng trở nên thụ động trong học tập.
Làm thêm, dạy kèm, bán hàng, tiếp thị dẫn đến lơ là học tập, hoặc khơng theo
nổi chương trình đại học là những lý do sinh viên bị buộc thôi học. Tuy nhiên
đó khơng phải lý do chính, vì có những sinh viên vừa học vừa làm thêm nhưng
6


kết quả học tập vẫn đặt điểm cao. Nguyên nhân ở đây là do sinh viên khơng
chịu tìm tịi sách, tài liệu phục vụ cho chun mơn của mình ( mặc dù trong
phương pháp giảng dạy đại học nhiều thầy cô lên lớp chỉ đưa ra hướng dẫn và
đưa ra những tư liệu, đầu sách cần thiết cho sinh viên tìm kiếm tham khảo) và
tâm lý quen với việc “đọc-chép”. Từ đó dẫn đến thực trạng thụ động trong học
tập phần lớn sinh viên hiện nay.
Từ thực tế trên cho thấy bên cạnh chương trình học tập đại học hiện nay
đã nặng nề, thì cơng cụ để truyền tải kiến thức hiện nay cũng chưa lấy gì làm
hài lịng. Số sinh viên tìm đến thư viện khơng nhiều, chỉ lác đác vài bạn đến
thư viện những ngày bình thường và có nhiều hơn một chút khi mùa thi đến.
Nhân viên quản lý thư viện cho biết, một ngày bình quân chỉ có khaonrg vài
chục em đến đây ngồi học, tìm tòi tư liệu.
Tại một hội thảo về cải tiến phương pháp giảng dạy đại học mới đây, một
giáo sư ở Trường ĐH Sư Phạm TP.HCM đã phải cảnh báo khi ông khám phá
ra cách học tập của sinh viên mà ông trực tiếp giảng dạy hiện nay thụ động đến
độ khó tin! Để kiểm nghiệm cách học thụ động này đến đâu, vị giáo sư đã làm
cuộc điều tra bỏ túi: tuần đầu chỉ đứng giảng trên lớp cho sinh viên ghi chép,
kết quả chỉ 40% đạt điểm kiểm tra trên trung bình. Tuần hai, giáo sư lên lớp chỉ

hướng dẫn đầu sách tham khảo, kết quả trên 60% sinh viên đạt điểm trung bình.
Trong hai tuần này, tinh thần học tập cỉa sinh viên khơng mấy hứng thú, thậm
chí có người nằm ngủ gật! Nhưng đến tuần thức ba, vị giáo sư áp dụng phương
pháp gợi mỏ câu hỏi đề tài, thì cả lớp thảo luận, tranh cãi quyết liệt, và kết quả
học tập khiến cho vị giáo sư hài lịng: 90% đạt điểm kiểm tra trên trung bình.
Ở các nước tiên tiến, một giáo sư khi giảng dạy trên lớp luôn phải đi kèm
từ một đến hai trợ giảng. Những trợ giảng này luôn đảm nhiệm công tác điều
phối khơng khí lớp học, nội dung học tập của sinh viên và tổ chức những cemina
cho sinh viên bàn thảo đề tài học tập, gợi mở kiến thức. Từ đó, người học bị lơi
cuốn theo chiều hướng chủ động và sáng tạo. Nhưng đó là chuyện ở các nước,
cịn ở các trường ĐH chúng ta hiện nay, để làm được việc này vẫn còn khoảng
cách khá xa!
Thêm nữa, tâm lý quen “đọc-chép” mỗi khi trên lớp cũng dẫn đến tình
trạng thụ động của sinh viên, nếu giảng viên khơng đọc thì sinh viên cũng
khơng chép, chỉ ngồi nghe và thực tế là kiến thức đọng lại trong đầu khi đó sẽ
rất ít, thậm chí là khơng có gì. Trong khi đó ính viên cũng khơng có thói quen
đọc giáo trình và các tài liệu liên quan đến mơn học khi đó ở nhà. Rõ ràng khi
ngại phát biểu trong giờ học sẽ dẫn đến ngại phát biểu trong cơ quan làm việc
sau này. Ngại phát biểu cũng đồng nghĩa với việc khơng dám nói lên sự thật,
7


khơng dám nhìn nhận cái sai,… Trong mỗi giờ học, chuyện sinh viên phát biểu
ý kiến là rất ít thay vào đó là “Giảng viên nêu vấn đề, sinh viên cúi mặt xuống
bàn…” Đó là việc các thầy cơ đứng trên bục giảng và yêu cầu nhiều lần các
sinh viên trả lời câu hỏi. Đó khơng phải là những câu hỏi khó. Thơng thường
nó đều nằm tỏng phạm vi hiểu biết và có thể trả lời của sinh viên. Thế nhưng
rất ít có cánh tay nào giơ lên. Điều này ảnh hưởng khá lớn đến khơng khí học
tập trong lớp. Nó gây ra một cảm giác rất áp lực mỗi khi thầy cơ đặt câu hỏi,
sinh viên thì cảm thấy áp lực còn giảng viên cũng cảm thấy chán nản vì chỉ có

sự làm việc một chiều.
Vậy thì tại sao lại xảy ra một hiện tượng kì quặc đến như vậy? Phải nhìn
nhận rằng sự vơ trách nhiệm, thụ động, ỷ lại đang thật sự tồn tại trong một bộ
phận lớn những người chủ tương lai của đất nước.
So với thế giới, sinh viên nước ta còn thụ động. Chỉ có chừng vài phần
trăm sinh viên là chủ động. Điều này làm giảm năng lực tự nhiên cứu của sinh
viên. Khác với học sinh, nhiệm vụ của sinh viên là học và nghiên cứu. Sinh
viên không nên thụ động, lên giảng đường nghe thầy giảng rồi trả lại cho thầy
mà phải tự tìm tài liệu đọc để thảo luận trước lớp. Việc thầy cô gợi ý sinh viên
để thảo luận cũng thể hiện sự chưa chủ động ở sinh viên. Vậy mà thậm chí, có
khi giảng viên nêu vấn đề thảo lu ận rồi mà sinh viên vẫn ngồi im, không hăng
hái tham giá. Điều này làm giảm chất lượng giờ giảng dạy vì giảng viên muốn
nghe những ý kiến sáng tạo, giải quyết vấn đề của sinh viên. Một số giảng viên
phải đưa ra biện pháp cộng điểm cho sinh viên nào tích cực phát biểu. Khơng
đọc trước tài liệu làm tăng tính rụt rè của sinh viên khi phát biểu trước lớp. Kết
quả là bạn trẻ tốt nghiệp đại học mà vẫn nhút nhát và e ngại khi diễn đạt trước
đám đông, dẫn đến sự hạn chế tinh thầm làm việc theo nhóm và khả năng lãnh
đạo của nhóm. Nếu tâm lý nhút nhát này phổ biến rộng rãi thì sẽ ảnh hưởng đến
sự phát triển của đất nước. Theo đó, hầu hết các bạn trẻ nước ta mới ra trường
chưa thể làm “sếp” ngay được, trong khi ở các nước tiên tiến chỉ chừng 30 tuổi
là người ta đã thể hiện rõ chất lãnh đạo của mình. Tự tin phát biểu nghĩa là
mạnh dạn trước công chúng. Điều này càng quan trọng đối với người trong các
ngành khoa học xã hội và nhân văn vì đây là khả năng thuyết phục được người
khác thơng qua lời nói.
Các nghiên cứu về tâm lý học đường cho thấy chương trình đạo tạo với
phương pháp giảng dạy mang tính nhồi nhét kiến thức hiện nay đã tạo ra một
bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên thụ động, thiếu khả năng thích ứng xã hội.
Sinh viên ln thụ động với khối lượng kiến thức về lý thuyết, việc thực hành,

8



thực tập bị xem nhẹ, thậm chí bị bỏ qua, từ đó tạo ra một bộ phận khơng nhỏ
sinh viên thụ động, vụng về, thiếu khả năng thích ứng xã hội.
Thực trạng sinh viên lười lao động và học tập ngày càng một nhiều. Bởi
lẽ gia đình cứ tưởng con em mình đang vất vả, lao tâm khổ tử cày trên giảng
đường, luôn dợ con vất vả hơn bạn bè, gửi tiền dư giả. Nào ngờ một số bạn
luôn ăn chơi sa đà, nhậu nhẹt đến suốt sáng, chơi bài bạc, game… Chờ tới khi
thi, nước tới chân mới nhảy.
2. Giải pháp khắc phục
Trong giai đoạn phát triển của đất nước ta – giai đoạn quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội, thì sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hóa đất nước là nhiệm
vụ trung tâm, là giải pháp quyết định đưa nước ta khắc phục nguy cơ tụt hậu,
là quá tình phấn đấu lâu dài của nhân dân ta. Điều đó được thể hiện trong việc
chỉ đạo của Đảng và Nhà nước những tiền đề tạo nên sự thắng của sự nghiệp
đó. Và trong nguồn nhân lực ấy thì sinh viên – sinh viên lại giữ vai trị quan
trọng, là nguồn lực chủ yếu, bởi họ chiếm một số lượng lớn trong số người ở
độ tuổi lao động của nước ta, họ có một nhiệm vụ hay giữ một trọng trách hết
sức nặng nề những người được đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề nghiệp,
được tổ chức tốt về kiến thức văn hóa, chính trị, đạo đức, lối sống....
- Thứ nhất, sinh viên phải tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ
lý luận chính trị, bồi đắp lý tưởng cách mạng trong sáng. Bối cảnh trong nước
và quốc tế đang tác động lên tất cả các đối tượng sinh viên, tác động một cách
toàn diện lên tư tưởng, tình cảm, lối sống, nhu cầu của từng sinh viên. Do đó,
sinh viên phải rèn luyện để có lập trường tư tưởng vững vàng, có lịng u
nước, có niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội, có đạo đức trong sáng và lối sống lành mạnh; tích cực tham gia vào
các cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước và bảo vệ cương lĩnh, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh chống lại âm mưu
“Diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch và các tiêu cực, tệ nạn xã hội,

tham nhũng…
- Thứ hai, sinh viên cần tích cực học tập và tự học tập để nâng cao
trình độ văn hóa, chun mơn, khoa học, kỹ thuật và tay nghề. Trong thời kỳ
phát triển kinh tế - xã hội trong nước và hội nhập quốc tế, sinh viên nước ta
cần nâng cao trình độ học vấn, tay nghề khả năng thực tế, kỹ năng lao động
9


để thích ứng với thị trường lao động trong nước và thị trường lao động quốc
tế. Sinh viên phải tích cực tham gia xây dựng xã hội học tập với phương
châm: người sinh viên nào cũng phải học ở đâu, làm gì, thời gian nào cũng
phải học, người sinh viên nào cũng phải xác định tham gia họ tập thường
xuyên, suốt đời là quyền và nghĩa vụ của bản thân.
- Thứ ba, sinh viên phải tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể nhân dân. Sinh viên phải tích cực
tham gia bảo vệ và xây dựng hệ thóng chính trị ở các cấp vững mạnh và tham
gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững chắc. Các đối tượng sinh
viên tự nguyện, tự giác tham gia vào các hội của sinh viên, phấn đấu trở thành
đoàn viên, đảng viên của Đảng và hội viên của các quần chúng nhân dân.
- Thứ tư, sinh viên phải tích cực tham gia vào việc xây dựng môi
trường xã hội lành mạnh và mơi trường sinh thái trong lành, sạch đẹp. Tích
cực tham gia phịng chống ơ nhiễm mơi trường, suy thối mơi trường và ứng
phó với biến đổi khí hậu tồn cầu.
- Thứ năm, sinh viên phải xung kích đi đầu trong sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phịng an ninh. Tích cực tham gia các chương
trình, dự án của địa phương; tự nguyện, tự giác tham gia thực hiện nghĩa vụ
quân sự, tham gia các hoạt động bảo vệ Tổ quốc và giữ gìn an ninh trật tự an
toàn xã hội.
- Thứ sáu, sinh viên cần chủ động tham gia vào quá trình hội nhập
quốc tế; tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu; tham gia vào công tác ngoại

giao nhân dân để nâng tầm ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế; chủ
động và tham gia có hiệu quả vào giải quyết các vấn đề tồn cầu như: giữ gìn
hịa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ mơi trường và
ứng phó với biến đổi khí hậu tồn cầu, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng
ngừa và đẩy lùi các dịch bệnh hiểm nghèo…
3.Liên hệ bản thân
Trong q trình học tập và tích lũy kiến thức, cần hiểu được sự cân bằng
giữa “học” và “làm”, hai hành động này ln bổ sung cho nhau. “Học” là q
trình tiếp thu kiến thức từ sách vở, lý thuyết, thầy cơ, bạn bè, cịn “làm” là vận
dụng vào thực tế những gì đã học để khơi dậy khả năng sáng tạo của bản thân.
10


Vì vậy giữa “học” và “làm” có mối quan hệ rất chặt chẽ. Chúng ta cần hiểu
rằng thực hành vừa là mục tiêu vừa là phương pháp học tập. Việc học tập trở
nên vơ ích một khi chúng ta đã lĩnh hội được kiến thức mà không áp dụng vào
thực tế. Vì vậy, việc học hỏi, trau dồi kiến thức, kinh nghiệm chỉ là cơ sở để
mọi người vận dụng vào thực tế, thực hành trong đời sống thực tế.
Không chỉ vậy, mỗi sinh viên đều phải tu dưỡng đạo đức, trau dồi nhân
phẩm như Bác đã từng dạy: “Có tài mà khơng có đức là người vơ dụng, có đức
mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó”. Tài và đức là những phẩm chất khác
nhau nhưng luôn ln gắn bó mật thiết khơng thể tách rời. Có tài mà khơng có
đức là người vơ dụng, bởi tài năng đó khơng phục vụ cái chung mà chỉ mưu
cầu lợi ích cho một cá nhân thì cũng trở thành vô giá trị. Đức và tài bổ sung, hỗ
trợ cho nhau thì con người mới trở nên tồn diện, mới đạt hiệu quả lao động
cao và mới có ích cho xã hội. Giá trị một con người được xem xét chính bởi tác
dụng của cá nhân đó trong mối quan hệ với đồng loại. Đối với những người bề
trên như cha, mẹ ,ơng, bà, thầy, cơ… ta cần có thái độ kính trọng, cư xử lễ phép
cịn với những người ngang hàng như bạn bè ta nên tôn trọng, đối xử chân
thành…

Cuối cùng, là một sinh viên trường Đại học kinh tế quốc dân, là người
đang trong quá trình tu dưỡng, phát triển cả về thể lực, trí lực, em sẽ cố gắng
vận dụng thật tốt những nguyên lý được học vào đời sống cá nhân để khơng
ngừng hồn thiện bản thân, rèn luyện cả tài và đức để trở thành một công dân
tốt, sẵn sàng cống hiến cho nước nhà.

11


KẾT LUẬN
Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu về trí tuệ của con người cũng ngày
càng tăng. Để đáp ứng nhu cầu của xã hội, mỗi con người cần chuẩn bị cho
mình một hành trang kiến thức thật vững chắc để bước vào đời và tinh thần tự
học sẽ là yếu tố vơ cùng quan trọng góp phần làm nên thành cơng đó. Ý thức
xã hội là q trình mỗi người tự giác tìm tịi, học hỏi, tiếp thu, tích lũy những
kiến thức bổ ích, có lợi cho cuộc sống cũng như cơng việc dựa vào chính khả
năng của mình.
Phát triển con người ln là trọng tâm của mọi quốc gia. Thực hiện khẩu
hiệu “giáo dục là quốc sách hàng đầu”, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều
mạnh mẽ xây dựng và phát triển giáo dục, nhằm đào tạo đội ngũ lao động có
trình độ, năng lực, khả năng thích ứng với thị trường, đáp ứng nhu cầu của thị
trường. Chuẩn mực nghề nghiệp trong văn hóa, ngành nghề và thị trường.
Giáo dục đại học chỉ có thể được coi là thành cơng nếu đóng góp cho xã
hội đủ trí tuệ và sức lực, đáp ứng nhu cầu lực lượng lao động chất lượng cao và
nghiên cứu khoa học, góp phần vào sự phát triển của xã hội và đất nước.
Vì vậy, nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức
xã hội. Ứng dụng có ý nghĩa to lớn và ý nghĩa thực tiễn cao trong việc thúc đẩy
học tập và rèn luyện của sinh viên hiện nay. Học sinh phải có cách tiếp thu kiến
thức thời đại, từ đó vận dụng tốt kiến thức đó vào thực tiễn, góp phần xây dựng
xã hội ngày càng giàu đẹp.


12


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình triết học Mác – Lênin, Nhà xuất bản
chính trị quốc sự thật, Hà Nội – 2021
2. Nguyễn Văn Tài (Chủ biên) (2018), Giáo trình Triết học Mác -Lênin – Lý
luận và vận dụng, Nhà xuất bản. Quân đội nhân dân, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốclần
thứ VI, Nhà xuất bản. Sự thật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nhà xuất bản. Sự thật, Hà Nội.
5. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, NXB CTQG, HN, 1995



×