Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
MỞĐẦU
Trong xu hướng tự do hoá thương mại ngày nay, chiến lược phát triển
của toàn ngành Thuỷ Sản Việt Nam không chỉ tập trung vào xuất khẩu đi
các thị trường quen thuộc, mà còn tranh thủ các khai thác các thị trường
mới, tạo thêm nhiều bạn hàng lớn đặc biệt ở các nước phát triển. Một
trong những thị trường cóảnh hưởng không nhỏđến sự phát triển của kinh
tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đó là thị trường Mỹ. Mỹ là
một thị trường xuất nhập khẩu khổng lồ với sức mua lớn, đa dạng vềthu
nhập, chủng loại và nhu cầu hàng hoá, trong đó thuỷ sản là một trong
những mặt hàng nhập khẩu lớn nhất của Mỹ. Được xác định là một mũi
nhọn trong phát triển kinh tế của Việt Nam, trong những năm qua xuất
khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ không ngừng tăng nhanh tỷ lệ kim
ngạch xuất khẩu. Bên cạnh đó hiệp định phát triển thương mại Việt Nam-
Hoa Kỳđãđược ký kết lại càng gắn chặt mối quan hệ thương mại giữa hai
nước tạo cơ hội cho thuỷ sản Việt Nam thâm nhập thị trường Mỹ một cách
mạnh mẽ hơn.Tuy nhiên cũng chính hiệp định thương mại song thương
Việt Nam – Hoa Kỳđãđặt ra thách thức không nhỏđối với các nhà doanh
nghiệp Việt Nam.Mặt khác mặc dù Mỹđang dẫn đầu thị trường xuất khẩu
trong ngành thuỷ sản Việt Nam, nhưng thị phần thủy sản Việt Nam trên thị
trường Mỹ còn khá khiêm tốn. Do đó vấn đềđặt ra không chỉ cho Nhà
Nước ta, mà còn cho cả các doanh nghiệp hiện nay là làm thế nào để tận
dụng được cơ hội, đối đầu trước thách thức và có những biện pháp thích
Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
hợp để nâng cao hiệu quả của sản xuất, xuất khẩu thuỷ sản cho tương
xứng với khả năng của Việt Nam và quy mô của thị trường Mỹ. Chính vì
vậy em đã tiến hành đề tài với mục tiêu phân tích thực trạng của tình hình
xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ, từđóđềxuất những
kiến nghị thích hợp nhằm thúc đẩy hoạt động này ngày càng phát triển
mạnh mẽ hơn.
CHƯƠNG I:
THỰCTRẠNGXUẤTKHẨUTHUỶSẢN VIỆT NAM
1. Tình hình xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào thị trường Mỹ
trong thời gian qua:
Mỹ là thị trường luôn luôn sôi động vàđặc biệt hấp dẫn thu hút
tới 130 nước xuất khẩu hàng hoá vào thị trường này. Thực tế cho
thấy thuỷ sản cũng đã chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường Mỹ.
Từ ngay sau khi lệnh cấm vận của Mỹđối với Việt Nam được bãi bỏ
thì xuất khẩu hàng hoá nói chung và thuỷ sản nói riêng vào Mỹđược
tăng lên đáng kể. Nếu như năm 1986 hàng thuỷ sản Việt Nam vào
Mỹ mới chỉ là 8 triệu USD, năm 1987 tăng lên so với năm trước và
gấp 4,5 lần, năm 1999 xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ tăng gấp 18 lần so
với năm 1986. Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ là
320 triệu USD, gấp 40 lần so với năm 1986 và gấp 4 lần so với năm
Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
1998, năm 2001 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ là 70. 931
ngàn tấn thuỷ sản các loại trị giá 489 triệu USD, tăng lên so với năm
2000 là 1,8 tỷ USD và số lượng 538. 833 tấn thuỷ sản đã xuất khẩu
trong năm thì xuất khẩu vào thị trường là rất đáng kể.Với những
thành tựu đãđạt được năm 2001 thì thị trường Mỹđược đánh giá là thị
trường dẫn đầu của ngành thuỷ sản Việt Nam. Mặc dù Mỹ là thị
trường khó tính, yêu cầu về chất lượng và vệ sinh an toàn cao nhưng
không khắt khe như thị trường EU. Giá bán thuỷ sản sang Mỹlại cao
hơn so với thị trường khác do đó hàng thuỷ sản vào Mỹ ngày càng
mở rộng.
Thuỷ sản là một ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam, ngay trong
năm 2000 với khối lượng sản phẩm và doanh số xuất khẩu là 1,475
triệu USD đã trở thành ngành kinh tếđứng thử 3 về xuất khẩu sau dầu
thô và dệt.
Mặt hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ phải
kểđến cá bá sa,cá tra, và phile đạt giá trị xuất khẩu năm 2000 là 60
triệu USD, đứng đầu trong các nước cung cấp các loại sản phẩm cá
này cho thị trường Mỹ. Năm 2001 xuất hiện chiến dịch chống lại
việc nhập khẩu cá tra và cá bá sa của Việt Nam vào thị trường với
những lập luận công khai bôi nhọ sản phẩm cá Việt Nam, thậm chí
còn nói rằng cá da trơn Việt Nam nuôi ở sông Mêkông có thể chứa cả
dư lượng chất độc mầu da cam mà quân đội Mỹđã rãi xuống trong
Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
thời gian chiến tranh. Hơn thế nữa họ còn phát động chiến dịch
“Người Mỹăn cá Mỹ” và sáng tác ra nhãn hiệu “cá catfish nuôi của
Mỹ”. Theo phân tích của cơ quan nghiên cứu kinh tế (ERS)thì việc
tăng nhập khẩu cá da trơn của Việt Nam không phải là nguyên nhân
làm giảm giá bán và lượng tiêu dùng sản phẩm cá nheo nội địa của
Mỹ,mà giá giảm chỉ là một hiện tượng kinh tế. Còn nếu xết về góc
độan toàn của cá Basa và cá tra Việt Nam thì môi trường nước nuôi
là sông Mêkông không bịô nhiểm như nước sông Miissipi của Mỹ.
Về nhãn mác các DN xuất khẩu thuỷ sản đa sốđều nghiêm túc thực
hiện các qui định của FDA và của chính phủ Việt Nam về việc sử
dụng các tên thương mại cho cá Basa và cá tra cũng như tất cả các
sản phẩm khác. Bất chấp những khó khăn trở ngại, các DN Việt Nam
đã cố gắng không ngừng. Trong tháng 1/2002 sau khi xảy ra cuộc
tranh chấp thương mại Việt-Mỹ về cá da trơn(catfish) lô hàng 100
tấn cá Basa đầu tiên mang tên Việt Nam đãđược xuất sang Mỹ.
Từđầu 2/2002 giá xuất khẩu cá Basa và cá tra của Việt Nam sang thị
trường Mỹ liên tục tăng, giá xuất khẩu trung bình đạt 3. 120USD/tấn
FOB cảng Việt Nam, L/C tăng 300USD/tấn so với đầu tháng1/2002.
Cùng với cá tra,cá Basa, tôm cũng được coi là sản phẩm chủ lực của
Việt Nam XK sang Mỹ. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản
Việt Nam sang thị trường Mỹ thì tôm chiếm gần 2/3 trị giá hàng xuất
khẩu năm 1994 mặt hàng tôm sang Mỹ với tổng giá trị là 5,121 triệu
Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
USD chiếm một tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản
sang Mỹ là 88,26%. Năm 1995 tăng hơn gấp 3 lần so với năm 1994,
năm 1996 tăng gấp đôi so với 1995 và những năm tiếp sau nữa sản
phẩm tăng lên liên tục. Đến năm 2000 Việt Nam đã xuất khẩu tôm
sang Mỹ là 200 triệu USD tăng lên gấp 2 lần so với năm 1999. Đến
nay Việt Nam đãđứng hàng thứ 8 trong tổng số 50 nước cung cấp
tôm cho thị trường Mỹ. Tuy nhiên vào ngày 1/1/2004, Liên minh tôm
miền Nam (SSA) đãđệđơn lên Bộ Thương mại Mỹ (DOC) và Uỷ ban
thương mại Quốc tế (USITC)của nước này để kiện 6 nước gồm Thái
Lan, Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ, Ecuador và Brazil trong đó có
bán phá giá tôm vào thị trường Mỹ, làm tổn hại đến hoạt động của
ngành sản xuất của nước này. Mặt hàng khởi kiện bao gồm hầu hết
các loại sản phẩm tôm nước ấm, cả đông lạnh và đóng hộp.Mức thuế
yêu cầu áp đặt từ 30% đến 267% riêng cho từng nước.Mức thuế cho
Việt Nam dao động từ 30% đến 99%. Theo thống kê, trong 9 tháng
đầu năm 2003, giá tôm giảm bình quân 3,4%, riêng tại Mỹ giảm
9,5%. Năm 2002 giá tôm của ở Hoa Kỳđã giảm 50% và hiện đang
giảm xuống mức thấp nhất trong lịch sử nước Mỹ. Tôm được đánh
bắt từ biển Hoa Kỳ chỉ chiếm 20% thị phần vàđang có nguy cơ giảm
mạnh trong thời gian tới. Sản lượng khai thác tôm của các chủ tàu ở
Mỹđang bị sụt giảm do thời tiết, nguồn tài nguyên cạn kiệt…Trong
khi ngành sản xuất tôm trong nước Mỹđang gặp nhiều khó khăn, khối
Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
lượng tôm nhập khẩu vẫn tiếp tục tăng mạnh. Thị trường tôm Hoa
Kỳ phân chia theo tỉ lệ 88% nhập khẩu, 12% làđánh bắt trong nước.
Trong đó tôm đông lạnh nhập khẩu vào thị trường Mỹ hầu hết là tôm
nuôi có giá thành rẻ hơn rất nhiều so với nguồn tôm đánh bắt tự
nhiên của Mỹ, mà nguồn này ngày càng cạn kiệt,chi phí càng cao.
Mặt khác trong thời gian qua, các nước châu á như Việt Nam, Trung
Quốc, Thái Lan, Philipin đều trúng mùa tôm, các nước này lại giảm
chi phí từ khâu sản xuất đến chế biến XK. Vì vậy tôm NK vào thị
trường Mỹ từ các nước Châu Á thường rẻ hơn tôm sản xuất tại Mỹ từ
10-20%. Hiện nay, giá tôm ở Mỹ xuống thấp ngang với giá của
những năm 70, khiến nhiều nhà chế biến rơi vào thế tiến thoái lưỡng
nan khi phải lựa chọn các bạn hàng cũ, trong khi tôm NK giá rất rẻ.
Cùng với những khó khăn kinh tế của bản thân nước Mỹđã góp phần
làm cho bộ phận kinh tế nông nghiệp, thuỷ sản của Mỹ không cạnh
tranh được với hàng hoá từ các quốc gia đang phát triển. Một số nhà
sản xuất tôm Mỹ kêu gọi, nếu chậm trễ trong việc tiến hành kiện
chống bán phá giá, thì mùa thu hoạch tôm năm sau sẽ không có sự
cải thiện nào và họ buộc phải phá sản. Có những lý do chính khiến
cho các nhà sản xuất tôm Mỹ muốn tiến hành vụ kiện chống bán phá
giá tôm,đó là:
•
Thứ nhất: DN của Mỹ muốn dùng đến chiêu bài khởi kiện chống
bán phá giáđể bảo hộ mậu dịch, ngăn chặn hàng NK từ các nước
Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
và tranh thủ tài trợ từ phía Chính phủ Mỹ. Vụ kiện này đã diễn ra
vào thời điểm có lợi nhất cho người đi kiện: trước thềm cuộc bầu
cử Tổng thống Mỹ năm 2004 vào tháng 11.
•
Thứ hai: Chính quyền Bush có chương trình hỗ trợ giải quyết
tranh chấp về bán phá giá nhằm lấy lòng cử tri và giới công
nghiệp, nên vụ kiện có nhiều khả năng sẽđược sựủng hộ từ phía
chính quyền Mỹ.
•
Thứ ba: Các luật sư Mỹ lợi dụng vấn đề bán phá giáđể trục lợi
các nhà sản xuất tôm Mỹ và Châu Á.
Về phía Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan cũng đã hoạch
định nhiều chương trình hợp tác với các nhà NK và phân phối tôm
của Mỹđểđưa ra những chứng cứ thuyết phục là tôm của mình không
bán phá gía, nhằm bảo vệ cho người tiêu dùng trên đất Mỹ. Tất cả
khẳng định, đây chỉ là sự ngụy biện của người Mỹ, bất chấp nguyên
tắc tự do thương mại để bảo vệ lợi ích của mình. SSA đang đi ngược
lại xu thế mở rộng tự do thương mại toàn cầu mà Mỹ là quốc gia đề
xướng và yêu cầu các nước trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia
đang phát triển tham gia thực hiện.
Song với sự chỉđạo sâu sát của Bộ thuỷ sản, với sự hoạt động
năng động, linh hoạt của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản
VN mà công tác xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ trong thời
gian qua cũng thuđược những thành tựu đáng kể. Con số xuất khẩu
Tiểu luận Kỹ thuật Thương mại Quốc tế
thuỷ sản Việt Nam đã vượt lên trên 1 tỷ USD từ năm 2000, nâng cao
thị trường Mỹ lên vị trí số một của nghành thuỷ sản.
Sự tăng trưởng của xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ gắn liền với sự tiến
bộ trong quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Mỹ, đặc biệt sau
hiệp định thương mại Việt –Mỹđược kí kết vào ngày 13/7/2000.Sự
kiện đóđã mở ra những cơ hội kinh doanh lớn cho DN Việt Nam.
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu trên thị trường Mỹ rất nhanh, bình
quân giai đoạn 1994-1999 là 90,98% nâng Việt Nam lên vị trí thứ 17
trong số các nước xuất khẩu hàng thuỷ sản vào Mỹ. Cạnh tranh trên
thị trường đã tạo ra một sức ép cho các DN Việt Nam phải tìm tòi,
đổi mới công nghệ nuôi đánh bắt, sơ chế biến thuỷ sản, xây dựng
tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phấm sao cho phù hợp với nhu cầu
của người dân Mỹ, từđóđóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng của
ngành thuỷ sản nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung.
2. Những hạn chế, khó khăn trong xuất khẩu thuỷ sản cuả Việt
Nam:
* Khó khăn đầu tiên: Thị trường XK thuỷ sản của Việt Nam
chưa phải là thị trường NK trọng điểm, lớn của Thế giới, chủ yếu là
thị trường Nhật Bản và các nước láng giềng Châu Á.
* Khó khăn thứ hai: Chủng loại thuỷ sản XK của Việt Nam chủ
yếu là tôm, mực đông lạnh sơ chế (chiếm hơn 80% khối lượng), tỷ lệ