Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tiểu luận lịch sử ĐCS việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.8 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC
BỘ MƠN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MÔN
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Tên đề tài: sự phát triển trong nhận thức của Đảng về độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH từ cương lĩnh tháng 2/1930, Luận cương tháng 10/1930,
Chính cương Đảng lao động Việt Nam 1951 đến cương lĩnh xây dựng đất
nước thời kỳ quá độ lên CNXH (1991)

Tên sinh viên :
Mã sinh viên :
Lớp :

Hà Nội, ngày...tháng ...năm...


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................ 1
NỘI DUNG............................................................................................................................. 2
Chương 1: Quan điểm của Hồ Chí Minh về xã hội xã hội chủ nghĩa......................................2
1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin một số đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội.....2
1.2 Sự phát triển của Đảng trong nhận thức về độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa Xã hội
................................................................................................................................................ 3
Chương 2: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội , ý nghĩa với Việt Nam hiện nay....7
2.1 Mối quan hệ biện chứng của “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”..................7
2.2 Sự gắn bó hữu cơ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa....................................................................................................................................... 8
2.3. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của cách
mạng Việt Nam....................................................................................................................... 9
2.4 Ý nghĩa của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đối với Việt Nam hiện nay.. .10


KẾT LUẬN........................................................................................................................... 12
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................................13


MỞ ĐẦU
Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tổng kết thực tiễn quá trình
cách
mạng Việt Nam, nhất là trong hai mươi năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hình
thành một quan niệm tổng quát về xã hội xã hội chủ nghĩa.
Có thể xem đây là mơ hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Những đặc trưng trong
mơ hình vừa phản ánh tính phổ biến theo tinh thần học thuyết Mác-Lênin về xây dựng chủ
nghĩa xã hội, vừa thể hiện tính đặc thù của dân tộc, có tính đến các đặc điểm của thời đại.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu sâu và cụ thể hoá.
Sự lựa chọn con đường cứu nước cứu dân theo con đường cách mạng vơ sản của Hồ
Chí Minh là duy nhất đúng. Nó có cơ sở thực tiễn của cách mạng Việt Nam và cơ sở lý luận
về cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Sự lựa chọn này là bước ngoặt cực kỳ to lớn
trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Lần đầu tiên sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc
được nâng lên trình độ một cuộc cách mạng xã hội, kết hợp trong bản thân tiến trình cách
mạng cả hai sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp để đi đến giải phóng con
người. Điều đó tự nó tạo thành định hướng xã hội chủ nghĩa một cách khách quan, cố kết tự
nhiên giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần
vơ giá của dân tộc ta. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng của Người là “Độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, là xây dựng đất nước đi đôi với giữ nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội đi
đôi với bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Đây cũng là tư tưởng được Đảng ta
dùng làm nền tảng và kim chỉ nam cho mọi hành động

1


NỘI DUNG

Chương 1: Quan điểm của Hồ Chí Minh về xã hội xã hội chủ nghĩa
1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin một số đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã
hội
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã luận giải một số đặc trưng cơ bản
của chủ nghĩa xã hội - với tư cách là một chế độ xã hội, là giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng
sản trên một số nội dung cơ bản sau: Chủ nghĩa xã hội là xã hội thực hiện được việc xóa bỏ
từng bước chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ sở hữu cơng cộng - sở hữu tồn
dân để giải phóng cho sức sản xuất xã hội phát triển.
Chủ nghĩa xã hội là xã hội có một nền đại cơng nghiệp cơ khí với trình độ khoa học
và cơng nghệ hiện đại có khả năng cải tạo nơng nghiệp, tạo ra năng xuất lao động cao hơn
chủ nghĩa tư bản. Như vậy, chủ nghĩa xã hội sẽ hoàn toàn thắng thế khi tạo ra được năng
xuất lao động cao hơn, xã hội giàu có và văn minh, thịnh vượng hơn chủ nghĩa tư bản.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, thực hiện việc sản xuất có kế hoạch, tiến tới xóa bỏ sản
xuất hàng hóa trao đổi tiền tệ. Về sau, quan điểm này của Mác được Lênin phát triển trong
Chính sách kinh tế mới với việc duy trì kinh tế nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị
trường.
Về phân phối lao động, chủ nghĩa xã hội là xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối
theo lao động, thể hiện sự cơng bằng và bình đẳng về lao động và hưởng thụ giữa mọi cá
nhân trong xã hội. Như vậy, xã hội làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu là giai đoạn phát
triển cao của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội là xã hội phải khắc phục dần sự khác biệt giữa các giai cấp, giữa
nông thôn và thành thị, giữa lao động trí óc và lao động chân tay, tiến tới một xã hội tương
đối thuần nhất về giai cấp. Về con người, chủ nghĩa xã hội là xã hội hướng đến giải phóng
con người khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, nâng cao trình độ tư tưởng và văn hóa cho nhân dân,
tạo điều kiện cho con người phát triển mọi khả năng sẵn có của mình.
Khi những đặc trưng tốt đẹp trên đạt được và giai cấp khơng cịn nữa, xã hội là một thực thể
thống nhất, thì chức năng chính trị của Nhà nước - chức năng chuyên chính vô sản sẽ dần
2



dần tiêu vong. Lúc này, nhà nước chỉ còn chức năng quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống cho
mọi người.
Nghiên cứu lý luận về chủ nghĩa xã hội của các nhà kinh điển Mác - Lênin từ khát
vọng giải phóng dân tộc với những đặc điểm riêng về văn hóa, đạo đức và con người Việt
Nam, Hồ Chí Minh sớm nhận thấy sự cần thiết phải bổ sung, phát triển và vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác.
1.2 Sự phát triển của Đảng trong nhận thức về độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa
Xã hội
Từ ngày thành lập đến nay, dưới những hình thức và tên gọi khác nhau, Ðảng ta đã
năm lần ban hành cương lĩnh hoặc những văn bản có tính cương lĩnh. Mỗi cương lĩnh đều
chứa đựng những giá trị nội dung, ý nghĩa lớn lao riêng và có vai trị lịch sử trọng đại đối
với vận mệnh của dân tộc ta.
* Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt (tháng 2 năm 1930)
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội
nghị thành lập Ðảng (tháng 2/1930) thảo luận, thơng qua. Tuy ngắn gọn, chỉ có 282 chữ,
nhưng Chánh cương đã xác định rõ ràng nhiều vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của
cách mạng Việt Nam.
Chánh cương chỉ rõ, về chính trị: Ðánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp và chế độ phong
kiến, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng ra chính phủ cơng nơng binh, tổ chức
ra quân đội công nông.
Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu hết các sản nghiệp lớn (như công nghiệp,
vận tải, ngân hàng...) của tư bản Pháp để giao cho chính phủ cơng nơng binh quản lý; tịch
thu ruộng đất của tư bản Pháp và đại địa chủ để làm của công chia cho dân cày nghèo, bỏ
sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang phát triển công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật
ngày làm 8 giờ.
Về xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, thực hiện phổ thơng giáo dục
theo cơng nơng hóa.
Cùng với Chánh cương vắn tắt, Bác cịn soạn thảo và được Hội nghị thành lập Ðảng
thơng qua Sách lược vắn tắt, Chương trình vắn tắt, Ðiều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi nhân dịp
3



thành lập Ðảng. Tất cả những tài liệu này đã trở thành những văn kiện quan trọng có tính
kinh điển của Ðảng ta, xác lập đường lối chiến lược, sách lược cơ bản của cách mạng Việt
Nam và tôn chỉ, mục đích, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Ðảng Cộng sản Việt Nam.
Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 10 năm 1930)
Tháng 10/1930, sau 8 tháng Đảng ra đời, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung
ương lâm thời có ý nghĩa như một Đại hội cũng tổ chức tại Hương Cảng do điều kiện trong
nước bị đế quốc đàn áp khủng bố gắt gao phong trào cách mạng. Hội nghị (họp từ ngày
14/10 đến 31/10/1930) thông qua bản Luận cương chánh trị, án nghị quyết của Trung ương
tồn thể Đại hội nói về tình hình hiện tại ở Đơng Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng,
Điều lệ Đảng, hợp thành nội dung Cương lĩnh thứ hai của Đảng.
Luận cương chánh trị của Ðảng Cộng sản Ðơng Dương (cịn được gọi là Luận cương cách
mạng tư sản dân quyền) do đồng chí Trần Phú khởi thảo. Toàn bộ nội dung Luận cương
chánh trị của Ðảng Cộng sản Ðông Dương là những tư tưởng cơ bản về mục tiêu, nhiệm vụ
và phương pháp đấu tranh cách mạng của Ðảng Cộng sản Ðông Dương; tiếp tục khẳng định
và bổ sung một số vấn đề cốt lõi về con đường cách mạng của Việt Nam mà Chánh cương
vắn tắt đã nêu.
Luận cương nhận định, nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta
là đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, phong kiến và địa chủ, lập ra chính phủ cơng nông, tịch
thu ruộng đất của địa chủ trao cho nông dân; bãi bỏ các sưu thuế hiện thời, ngày làm công 8
giờ, cải thiện sinh hoạt cho thợ thuyền và những người lao động; xứ Ðơng Dương hồn tồn
độc lập, thừa nhận dân tộc tự quyết; lập quân đội công nông; ủng hộ Liên Xô, liên kết với
giai cấp công nhân thế giới và phong trào cách mạng thuộc địa, bán thuộc địa...
Phương pháp đấu tranh của quần chúng là bãi công, bãi công thị oai, bãi công võ trang, tổng
bãi cơng bạo động; kết hợp địi quyền lợi hằng ngày như tăng tiền lương, bớt giờ làm, giảm
thuế, chống thuế... với mục đích lớn của Ðảng là đánh đổ đế quốc, địa chủ phong kiến, giành
độc lập, lập chính phủ cơng nơng.
Về vai trị lãnh đạo của Ðảng, Luận cương chỉ rõ: Ðiều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi
của cuộc cách mạng ở Ðông Dương là cần phải có một đảng cộng sản có đường lối chính trị

đúng, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và từng trải tranh đấu mà trưởng
thành. Ðảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc,
4


đại biểu cho quyền lợi chính và lâu dài cho cả giai cấp vô sản, lãnh đạo tranh đấu để đạt mục
đích cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Chính cương Đảng Lao động Việt Nam (tháng 2 năm 1951)
Chính cương Ðảng Lao động Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư
Trường Chinh chỉ đạo soạn thảo và được Ðại hội II của Ðảng (tháng 2 năm 1951) thảo luận,
thơng qua.
Chính cương chỉ rõ: trước khi thuộc Pháp, xã hội Việt Nam căn bản là một xã hội phong
kiến, nơng dân là giai cấp bị bóc lột nặng nề nhất. Từ khi thuộc Pháp, Việt Nam là một xã
hội thuộc địa nửa phong kiến; giai cấp công nhân Việt Nam hình thành và trưởng thành
nhanh; tư bản Việt Nam ra đời nhưng bị tư bản độc quyền Pháp đè nén nên không phát triển
được. Khi Nhật xâm chiếm Việt Nam, chế độ thuộc địa của Pháp ở Việt Nam cũng trở nên
phát-xít hóa, làm cho nhân dân Việt Nam càng thống khổ hơn.
Vì vậy, nhiệm vụ căn bản của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi đế quốc xâm lược,
giành độc lập thống nhất thật sự cho đất nước, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa
phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho
chủ nghĩa xã hội. Ðộng lực của cách mạng Việt Nam lúc này là công nhân, nông dân, tiểu tư
sản thành thị, tiểu tư sản trí thức, tư sản dân tộc, những thân sĩ yêu nước và tiến bộ; trong đó
nền tảng là cơng nhân, nơng dân, trí thức; lực lượng lãnh đạo là giai cấp cơng nhân. Từ đó
Chính cương khẳng định: cách mạng Việt Nam hiện nay là một cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội. Ðây là một cuộc đấu tranh lâu dài, trải qua nhiều
giai đoạn, mỗi giai đoạn có một nhiệm vụ trọng tâm, trước mắt là phải tập trung sức hồn
thành giải phóng dân tộc.
Về chính sách của Ðảng, Chính cương chỉ rõ: hồn thành sự nghiệp giải phóng dân
tộc, xóa bỏ phong kiến, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chính
sách kháng chiến là thực hiện một cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, trường kỳ,

kháng chiến đến cùng để giành độc lập thống nhất cho Tổ quốc. Xây dựng chính quyền dân
chủ nhân dân dựa vào Mặt trận dân tộc thống nhất trên cơ sở liên minh cơng nhân, nơng dân,
trí thức do giai cấp cơng nhân lãnh đạo.
Chính cương cịn nêu những quan điểm cơ bản về xây dựng quân đội, phát triển kinh
tế tài chính, cải cách ruộng đất, phát triển văn hóa giáo dục, chính sách đối với tơn giáo,
5


chính sách dân tộc, chính sách đối với vùng tạm chiếm, chính sách ngoại giao, chính sách
đối với Việt kiều... Về ngoại giao, Chính cương khẳng định ngun tắc "tơn trọng độc lập,
chủ quyền lãnh thổ, thống nhất quốc gia của nhau và cùng nhau bảo vệ hịa bình, dân chủ thế
giới, chống bọn gây chiến"; mở rộng ngoại giao nhân dân, giao thiệp thân thiện với Chính
phủ nước nào tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, đặt quan hệ ngoại giao với các nước đó
theo nguyên tắc tự do, bình đẳng và có lợi cho cả hai bên, đấu tranh cho hịa bình thế giới.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (tháng 6 năm 1991)
Sau khi đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, cả nước đi lên CNXH, dưới
sự lãnh đạo của Đảng, một lần nữa, nhân dân ta lại vượt qua thử thách hiểm nghèo. Mơ hình
xây dựng CNXH kiểu cũ bị sụp đổ tại trung tâm của hệ thống XHCN. Chế độ chính trị ở
Liên Xơ, các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ. Là một quốc gia chưa phát triển, lại vừa trải
qua 30 năm chiến tranh, bị bao vây cấm vận, Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ
nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện cơng cuộc đổi mới mở đầu từ Đại hội
VI, năm 1986. Tại Đại hội VII, lần đầu tiên, Đảng ta đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong điều kiện hịa bình. Đó là “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH” năm 1991 (gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991).
Cương lĩnh chỉ rõ mục tiêu và đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng,
đó là một xã hội: Do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn
hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất
cơng, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển tồn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đồn kết và giúp

đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên
thế giới.
Cương lĩnh cũng xác định, quá độ lên CNXH ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều
chặng đường. Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong
về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và
tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
Thực hiện Cương lĩnh, Đảng và nhân dân ta một mặt kiên trì mục tiêu và các ngun tắc của
CNXH, mặt khác chuyển đổi mơ hình xây dựng đất nước từ mơ hình cũ với Nhà nước
6


“chun chính vơ sản”, “kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp” sang mơ hình
mới về CNXH. Về chế độ chính trị, đó là chế độ do “nhân dân lao động làm chủ”; về kinh
tế, đó là nền “kinh tế hàng hóa nhiều thành phần”…
Chương 2: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội , ý nghĩa với Việt Nam hiện
nay.
2.1 Mối quan hệ biện chứng của “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
a. Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi, luận điểm
trung tâm xun suốt tồn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh. Tìm ra con đường cách mạng Độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội “con đường cách mạng vơ sản”, Hồ Chí Minh cũng là
người Việt Nam đầu tiên nhận thức được vai trò lịch sử của giai cấp cơng nhân Việt Nam mà
đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản có sức mạnh lãnh đạo đưa sự nghiệp cách mạng đó
đến thành cơng. Con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là lý
tưởng cao đẹp nhất của thời đại nhằm giải phóng dân tộc, xã hội và con người một cách triệt
để. Con đường đó cực kỳ khó khăn, gian khổ, phức tạp và lâu dài nhằm xây dựng một xã hội
phồn vinh, có kỷ cương, lối sống lành mạnh và văn hóa cao; có quan hệ hữu nghị và bình
đẳng với các quốc gia dân tộc trên thế giới. Hồ Chí Minh kết ln: nhân dân Việt Nam
khơng thể cứu nước, giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng dân chủ tư sản; độc lập
dân tộc không thể gắn liền với con đường phát triển tư bản chủ nghĩa.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc là một khát vọng mang tính phổ biến.
Nó bao hàm một nội dung rất rộng: đó là độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, độc lập dân tộc
gắn liền với thống nhất Tổ quốc; gắn liền với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
Từ khi Pháp xâm lược Việt Nam, nền độc lập dân tộc bị mất, nhân dân bị đè nén, thống trị
của ngoại bang. Xuất phát từ hoàn cảnh Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, Hồ
Chí Minh thấy rõ mâu thuẫn chủ yếu, nổi bật, cấp bách cần giải quyết là mâu thuẫn giữa
toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược cùng bọn tay sai bán nước, Hồ Chí Minh
nhấn mạnh nhiệm vụ dân tộc, xác định mục tiêu cốt yếu của cách mạng dân tộc dân chủ ở
nước ta là giành lại độc lập cho dân tộc, trong khi không quên nhiệm vụ dân chủ nhân dân,
song khi thực hiện nhiệm vụ này trước hết phải nhằm phục vụ nhiệm vụ dân tộc. Có thể
7


khẳng định rằng, Đảng Cộng sản lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là nhân tố
quyết định nhất đảm bảo cho cách mạng tiến hành triệt để, phát triển lên cách mạng chủ
nghĩa xã hội; nhưng trước hết phải giành lại được độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc là mục
tiêu cốt yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đồng thời là tiền đề tất yếu để cuộc
cách mạng này phát triển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa
b. Chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Chủ nghĩa xã hội là phương hướng phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân. Phương hướng phát triển này không những làm cho cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân được tiến hành triệt để, thể hiện ở mục tiêu giành lại độc lập hồn tồn, thực
sự cho dân tộc, mà cịn đảm bảo cho nền độc lập dân tộc đó được giữ vững và ngày càng
củng cố thêm; có những điều kiện, tiền đề để cách mạng phát triển lên giai đoạn xã hội chủ
nghĩa; xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân, làm cho độc lập dân tộc thực sự
có ý nghĩa, có giá trị. Theo Hồ Chí Minh: chủ nghĩa xã hội là một xã hội dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
-


Về kinh tế: từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực
hiện quản lý dân chủ và phân phối theo lao động, không ngừng nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân.

-

Về chính trị: xây dựng chế độ do nhân dân làm chủ dựa trên nền tảng liên minh giữa
công nhân, nông dân và trí thức, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân.

-

Về văn hóa xã hội: thực hiện một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại.

-

Về đối ngoại: thực hiện chính sách hịa bình, hữu nghị, hợp tác và làm bạn với tất cả
các nước.

2.2 Sự gắn bó hữu cơ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong cách mạng xã hội
chủ nghĩa
a. Độc lập dân tộc là điều kiện, tiền đề để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu lịch sử là sự lựa chọn duy
nhất đúng mà Bác Hồ, Đảng ta, nhân dân ta đã lựa chọn. trải qua các thăng trầm của lịch sử,
8


những biến động của thời cuộc, những chao đảo ngả nghiêng của các quốc gia Đơng Âu,
tính đúng đắn của con đường cách mạng mà Hồ Chí Minh tiếp nhận từ chủ nghĩa yêu nước
chân chính với thế giới quan cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin đã làm nên nền tảng tư

tưởng của Đảng ta trong 70 năm đấu tranh cách mạng và đổi mới đất nước hôm nay. Vấn đề
giải phóng dân tộc phải được giải quyết bằng cách mạng vô sản gắn độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội. chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập dân tộc,
mới có thể đem lại tự do hạnh phúc thực sự cho mọi người, cho tất cả các dân tộc và tồn thể
lồi người trên trái đất. Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể xóa bỏ
vĩnh viễn ách áp bức, bóc lột và thống trị của chủ nghĩa tư bản, mới thực hiện sự giải phóng
hồn tồn và triệt để đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động của tất cả các dân tộc
trên thế giới ra khỏi bất công, tiến tới tự do, dân chủ cơng bằng và bình đẳng cho con người
và loài người. Như vậy, mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mối quan hệ
giữa hai giai đoạn, hai thời kỳ của cùng một quá trình cách mạng và đồng thời cũng là mối
quan hệ giữa hai loại mục đích: mục đích trước mắt và mục đích lâu dài.
b. Chủ nghĩa xã hội là con đường bảo đảm vững chắc độc lập.
Chủ nghĩa xã hội không chỉ bảo vệ vững chắc thành quả của độc lập dân tộc, mà về
cơ bản tạo nên sự phát triển mới về chất của nó, hồn tồn có cơ sở để nói rằng: độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là chân lý khơng thể bác bỏ. Khơng có độc lập dân tộc
khơng thể có chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là tiền đề, là điều kiện tiên quyết và căn bản
để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Khơng có chủ nghĩa xã hội khơng thể có độc lập
dân tộc bền vững. Chủ nghĩa xã hội là sự bảo đảm chắc chắn nhất, bền vững nhất cho nền
độc lập dân tộc.
2.3. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của
cách mạng Việt Nam
Thứ nhất, trong suốt quá trình cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng phải được giữ vững,
củng cố và tăng cường. Xuất phát từ quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ
khó khăn hơn đánh đổ đế quốc, phong kiến, Hồ Chí Minh khẳng định trong thời kỳ xây
dựng chủ nghĩa xã hội Đảng phải mạnh hơn bao giờ hết.

9


Thứ hai, khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh cơng - nơng - trí thức dưới sự

lãnh đạo của Đảng phải được củng cố và mở rộng. Hồ Chí Minh ln địi hỏi Đảng, Nhà
nước và mỗi người dân cần nêu cao trách nhiệm trong việc làm cho “rừng cây đại đoàn kết
ấy đã nở hoa kết trái và gốc rễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp tồn dân, và nó có một cái
tương lai 'trường xuân bất lão”.
Thứ ba, sự ủng hộ giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hịa bình, dân chủ và tiến bộ
trên thế giới được giữ vững và phát triển. Để làm được việc đó, ngay từ 1947, Hồ Chí Minh
đã nêu cao chủ trương: "Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và khơng gây thù ốn với một
ai".
Ba nhân tố trên luôn được giữ vững và tăng cường, tác động qua lại, liên quan chặt chẽ
với nhau là điều kiện bảo đảm cho sự thắng lợi của mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Đó là ba bài học lớn mà mỗi cán bộ và đảng viên
cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm mãi".
2.4 Ý nghĩa của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đối với Việt Nam hiện
nay.
Chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh", nhân dân ấm no, hạnh phúc… Mục tiêu đó không phải chỉ là
vấn đề giai cấp mà vừa là giai cấp, lại vừa là dân tộc. Nó chứng tỏ ở Việt Nam chỉ có Đảng
Cộng sản và giai cấp cơng nhân mới là lực lượng đại biểu chân chính cho lợi ích của dân tộc,
mới xây dựng được mặt trận đại đoàn kết dân tộc để thực hiện được mục tiêu trên. Những
lệch lạc về phía này hay phía khác đều là trái với tư tưởng Hồ Chí Minh.Chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là định hướng cho việc nhận thức và giải
quyết các vấn đề của dân tộc và của thời đại hiện nay.
Trong nhiều văn kiện của Đảng ta, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội luôn được khẳng định một cách mạnh mẽ và dứt khoát. Tại Đại hội IX của Đảng, khi
tổng kết những bài học chủ yếu của 15 năm đổi mới, Báo cáo chính trị đã chỉ rõ bài học thứ
nhất là: “Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Sự lựa chọn của Đảng ta, của
10



nhân dân ta là hồn tồn chính xác. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với Việt Nam
không chỉ là mục tiêu, là nhu cầu, là cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là
động lực, là niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam ta. Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã
hội là sự gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật mới; là cội nguồn thắng lợi của cách mạng
Việt Nam hôm qua, hôm nay và mai sau.
Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến động, cũng đồng
thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của cộng đồng quốc tế. Dù thời cuộc
biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế toàn cầu hố, thì hệ giá trị độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội hệ giá trị độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong ý thức và trong
hành động vẫn là mục tiêu, lý tưởng, là quốc bảo phù hợp với xu thế thời đại; sẽ đưa nhân
dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ Quốc, vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đưa đất nước ta sánh
vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trước nguy cơ “diễn biến hịa bình” trước việc một số thế lực lợi dụng vai trò giúp
đỡ, viện trợ, đặt nhân quyền cao hơn chủ quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của các
nước, hiện nay, hơn lúc nào hết, chúng ta cần quán triệt lời dạy của Hồ Chí Minh: mỗi một
người phải nhớ rằng có độc lập mới tự lập, có tự cường mới tự do. Hồ Chí Minh khẳng định:
“Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được
ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác
giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Vận dụng tư tưởng trên đây của Hồ Chí Minh
phù hợp với xu thế tồn cầu hóa và thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX viết: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo
đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia,
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ mơi trường”

11



KẾT LUẬN
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội gắn liền với nhau là con đường tất yếu của dân
tộc Việt Nam. Khẳng định tính tất yếu của nó khơng có nghĩa là khơng cần đến điều kiện,
khơng cần tạo ra những điều kiện để tạo ra những điều tất yếu đó. Độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội là tất yếu vì rằng, đó là quy luật phát triển của xã hội Việt Nam, sớm
hay muộn rồi xã hội Việt Nam sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội, khơng ai có thể ngăn cản nổi.
Điều này khơng những đúng đối với Việt Nam mà cịn đúng với thế giới. Những khúc vận
động quanh co của lịch sử, những thất bại là điều thường thấy trên đường đi tới đích. Độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tất yếu chỉ khi nó gắn với các điều kiện bảo đảm
đó và nó nằm ngay trong yếu tố chủ quan của chính sự hoạt động của hệ thống chính trị,
trong đó quan trọng nhất là phụ thuộc vào chính yếu tố chủ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, do đó, trở thành yếu tố then chốt bảo đảm cho
dân tộc Việt Nam phát triển đúng hướng, đúng quy luật, bảo đảm và giữ vững ngọn cờ chiến
lược độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

12


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các mơn khoa học Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh (2003), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
2. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, (15 tập), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội

13




×