Tải bản đầy đủ (.pdf) (179 trang)

Sự ảnh hưởng của văn hóa chính trị đối với tiến trình dân chủ ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 179 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ HỒNG MINH

SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HĨA CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI
TIẾN TRÌNH DÂN CHỦ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI - 2022


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ HỒNG MINH

SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HĨA CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI
TIẾN TRÌNH DÂN CHỦ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số: 9 31 02 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. TRỊNH THỊ XUYẾN

HÀ NỘI - 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của


riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả luận án

Nguyễn Thị Hồng Minh


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Tình hình nghiên cứu về văn hóa chính trị và văn hóa chính trị Việt Nam
1.2. Tình hình nghiên cứu về dân chủ và dân chủ ở Việt Nam
1.3. Tình hình nghiên cứu về sự ảnh hưởng của văn hóa chính trị đến tiến
trình dân chủ
1.4. Những giá trị tiếp nhận từ các công trình tổng quan và các nội dung
luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Chương 2: KHUNG KHỔ PHÂN TÍCH VỀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN
HĨA CHÍNH TRỊ ĐẾN TIẾN TRÌNH DÂN CHỦ

2.1. Quan niệm và các chiều cạnh văn hóa chính trị
2.2. Quan niệm về dân chủ
2.3. Sự ảnh hưởng của văn hóa chính trị đối với tiến trình dân chủ
Chương 3: THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HĨA CHÍNH TRỊ
ĐỐI VỚI TIẾN TRÌNH DÂN CHỦ Ở VIỆT NAM

3.1. Khái quát bối cảnh và tiến trình dân chủ ở Việt Nam từ 1986 đến nay

3.2. Các giá trị văn hóa chính trị đặc trưng của Việt Nam
3.3. Ảnh hưởng của các giá trị văn hóa chính trị đặc trưng đối với tiến trình
dân chủ ở Việt Nam

1
6
6
14
21
32
34
34
48
58
72
72
86
104

Chương 4: ĐÁNH GIÁ VỀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HĨA

CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI TIẾN TRÌNH DÂN CHỦ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
4.1. Sự tương thích và bất tương thích của các giá trị văn hóa chính trị đặc
trưng đối với tiến trình dân chủ ở Việt Nam
4.2. Dự báo bối cảnh Việt Nam trong thời gian tới và những gợi mở nhằm
tác động đến các giá trị văn hóa chính trị đặc trưng phù hợp với tiến
trình dân chủ ở Việt Nam
KẾT LUẬN
CÁC CƠNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN

LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

130
130

139
148
151
152
165


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Làn sóng dân chủ thứ ba diễn ra đã mang tới nhiều kỳ vọng cho các nhà
hoạt động dân chủ lẫn các học giả chính trị về xu hướng phổ quát của các giá
trị lẫn mơ hình dân chủ tự do phương Tây. Tuy nhiên, sau giai đoạn thối
trào của làn sóng dân chủ này, chính trị thế giới cho đến nay vẫn đang chứng
kiến các nền dân chủ đi theo những kịch bản rất khác nhau. Thực tế này
khiến cho giả thuyết về tính tương thích của các nền dân chủ đối với các bối
cảnh văn hóa xã hội khác nhau, vốn được đề xuất bởi các học giả theo
thuyết tương đối văn hóa được đưa ra xem xét. Học thuyết này cho rằng, nếu
xem dân chủ như là một phát kiến của nền văn minh phương Tây thì nó cũng
sẽ xa lạ với các bối cảnh văn hóa khác phương Tây, do đó, nó tất yếu tạo ra
nhu cầu điều chỉnh các giá trị dân chủ vốn được phương Tây thừa nhận,
đồng thời sáng tạo ra các mơ hình dân chủ mới phù hợp với từng nền văn
hóa của từng quốc gia khác nhau. Cách tiếp cận này sau đó đã phải đối diện

với phản biện rằng, liệu có những nền văn hóa người dân cảm thấy hài lịng
với chế độ độc tài hơn là dân chủ hay không? Rõ ràng, quá trình mở rộng
quyền tự do cơng dân và sự tham gia chính trị ngày càng tăng ở nhiều quốc
gia trên thế giới đã phủ nhận giả thuyết trên, đồng thời giảm độ tin cậy của
những nhận định về tính khu biệt của đặc trưng văn hóa trong việc quy định
giá trị và mơ hình dân chủ.
Như vậy, các tranh luận trên đã bộc lộ hạn chế của cả hai hướng tiếp
cận phổ quát hóa lẫn khu biệt hóa yếu tố văn hóa. Điều này đưa tới những
thay đổi trong cách tiếp cận về sự ảnh hưởng của văn hóa chính trị đối với
dân chủ. Thay vì, chấp nhận hay khơng đối với dân chủ ở các bối cảnh văn
hóa khác nhau, một cách tiếp cận cân bằng và khả thi hơn, đó là: Mơ hình
dân chủ nào sẽ hoạt động hiệu quả hơn trong một bối cảnh văn hóa cụ thể.
Hướng tiếp cận này đưa tới giải thuyết nghiên cứu rằng: Tồn tại mối tương
quan giữa các đặc điểm của một mơ hình dân chủ với các giá trị đặc trưng
của xã hội. Điều này giúp giải thích cho việc, một quốc gia cụ thể sẵn sàng


2
đón nhận mơ hình dân chủ này song đồng thời nghi ngờ đối với mơ hình
khác hay nói cách khác, văn hóa chính trị có ảnh hưởng nhất định đến việc
lựa chọn, áp dụng và thực hành một mơ hình dân chủ.
Giải thuyết nghiên cứu trên thực sự cũng đang đặt ra những vấn đề
cấp thiết về lý luận lẫn thực tiễn đối với nền chính trị Việt Nam hiện nay.
Là quốc gia nằm trong khu vực Đông Á, láng giềng với nước lớn Trung
Hoa và là một trong ít các quốc gia đi theo mơ hình một đảng duy nhất
cầm quyền do đảng Cộng sản lãnh đạo. Ba yếu tố đó đã đặt Việt Nam
đứng trước các xung đột giá trị lớn của thời đại: Giữa Đông và Tây; Tả và
Hữu; giữa nước lớn (nền văn hóa chi phối) và nước nhỏ (nền văn hóa chịu
ảnh hưởng). Đặc điểm này cùng với các yếu tố nội sinh đã góp phần định
hình văn hóa chính trị với những giá trị được ưu tiên riêng có của dân tộc

Việt. Những giá trị đó tất yếu đã có những ảnh hưởng quan trọng đến quá
trình tham gia của người dân vào đời sống chính trị cũng như tiến trình
dân chủ của đất nước.
Quá trình hội nhập và phát triển đặt ra nhu cầu của các quốc gia về
nghiên cứu lý luận nhằm, xây dựng và phát huy bản sắc và các giá trị văn
hóa cốt lõi của quốc gia dân tộc, mặt khác tìm ra mơ hình dân chủ phù hợp
cho mình. Do đó, muốn đổi mới và phát triển với một mơ hình dân chủ phù
hợp trong những thời kỳ nhất định, mọi quốc gia đều đứng trước nhu cầu
muốn hiểu rõ hơn về chính mình, trong đó có việc hiểu về văn hóa chính trị
với những giá trị được chính cộng đồng quốc gia dân tộc mình ưu tiên và
chia sẻ rộng rãi. Ở Việt Nam hiện nay đã có khá nhiều cơng trình bàn về văn
hóa chính trị lẫn dân chủ, song vẫn còn một khoảng trống tri thức chưa được
nghiên cứu một cách tương xứng với tầm quan trọng của nó, liên quan đến
câu hỏi nghiên cứu: Văn hóa chính trị Việt Nam được đặc trưng bởi những
giá trị ưu tiên nào? Những giá trị đó đã ảnh hưởng ra sao đến tiến trình dân
chủ ở Việt Nam? Luận giải được điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc
nếu chúng ta muốn tác động và thay đổi các giá trị văn hóa chính trị theo


3
hướng có lợi cho tiến trình dân chủ thì biết thay đổi điều gì và thay đổi như
thế nào.
Với những lý do trên, tác giả mong muốn việc lựa chọn đề tài “Sự ảnh
hưởng của văn hóa chính trị đối với tiến trình dân chủ ở Việt Nam hiện
nay” có thể khỏa lấp phần nào khoảng trống khoa học của những vấn đề
nghiên cứu nêu trên.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khung khổ lý thuyết về văn hóa chính trị, dân chủ và sự ảnh
hưởng của văn hóa chính trị đến dân chủ, luận án nhận diện các giá trị đặc

trưng của văn hóa chính trị Việt Nam và những ảnh hưởng của nó đến tiến
trình dân chủ ở Việt Nam hiện nay, cùng ý nghĩa của sự ảnh hưởng đó.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ các quan niệm về văn hóa chính trị, dân chủ và sự ảnh hưởng
của văn hóa chính trị đến dân chủ
- Khái quát về tiến trình dân chủ ở Việt Nam từ 1986 đến Nay
- Nhận diện các giá trị đặc trưng của văn hóa chính trị Việt Nam
- Phân tích thực trạng ảnh hưởng của các giá trị văn hóa chính trị đặc
trưng đến tiến trình dân chủ ở Việt Nam hiện nay
- Phân tích ý nghĩa ảnh hưởng của các giá trị văn hóa chính trị đặc
trưng đến tiến trình dân chủ ở Việt Nam hiện nay
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án lấy đối tượng nghiên cứu là sự ảnh hưởng của văn hóa chính
trị đối với tiến trình dân chủ ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Văn hóa chính trị Việt Nam được nghiên cứu trong luận án là văn hóa
chính trị phổ qt của Việt Nam, khơng phân biệt vùng miền. Mặc dù, nếu
xem xét về từng vùng miền khác nhau thì mức độ ưu tiên đối với các giá trị
văn hóa chính trị sẽ khác nhau song trong phạm vi của luận án này không đề


4
cập đến đặc trưng văn hóa chính trị theo vùng miền với tư cách là các tiểu
vùng văn hóa như vậy.
Tiến trình dân chủ Việt Nam được nghiên cứu trong giai đoạn hiện nay
là giai đoạn từ Đổi mới (1986) cho đến Nay. Đây là giai đoạn đất nước có
những bước chuyển mạnh mẽ về kinh tế, xã hội, chính trị đồng thời tạo ra
những thay đổi trong nhận thức và hành vi tham gia chính trị của người dân.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, cộng đồng dân tộc Việt Nam đã

tạo dựng cho mình nhiều giá trị văn hóa chính trị khác nhau, song những giá
trị đặc trưng vốn được cộng đồng ưu tiên và chia sẻ rộng rãi sẽ được lựa
chọn nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ vấn đề nghiên cứu và cách tiếp cận, luận án tập trung sử
dụng các phương pháp định tính và các phương pháp cụ thể khác như sau:
Phương pháp tổng hợp - phân tích tài liệu thứ cấp nhằm hệ thống hóa
các đặc trưng của dân chủ và văn hóa chính trị Việt Nam theo các chiều cạnh
nhằm xác định các giá trị được ưu tiên và sự ảnh hưởng của nó đối với tiến
trình dân chủ.
Phương pháp so sánh cung cấp góc nhìn đa chiều khi xem xét các đặc
trưng văn hóa chính trị ở các quốc gia và khu vực, đặc biệt ảnh hưởng của
văn hóa chính trị ở các quốc gia khác nhau đã mang tới những kịch bản dân
chủ chủ khác nhau. Ngoài ra, phương pháp này giúp nhận diện những thay
đổi trong nhận thức lẫn thực hành dân chủ ở Việt Nam qua các giai đoạn
trong hơn 30 năm sau Đổi mới.
Phương pháp phỏng vấn chuyên gia được sử dụng để có những phân
tích chun sâu từ góc nhìn của các chun gia về văn hóa chính trị và dân
chủ, đặc biệt khi nghiên cứu trường hợp là Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Với đối tượng nghiên cứu là văn
hóa chính trị đòi hỏi luận án phải vận dụng tri thức của các khoa học khác
như văn hóa học, nhân học văn hóa kết hợp với chính trị học.


5
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
5.1. Ý nghĩa khoa học
- Góp phần hệ thống hóa, bổ sung và làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về
văn hóa chính trị và dân chủ. Đồng thời, luận giải về sự ảnh hưởng của nó
đối với tiến trình dân chủ nói chung.

- Thơng qua việc nhận diện rõ hơn về các giá trị văn hóa chính trị Việt
Nam đang được cộng đồng ưu tiên, và ảnh hưởng của nó đến tiến trình dân
chủ nước ta hiện nay, luận án góp phần đề xuất hướng tác động và điều
chỉnh các giá trị đó nhằm thúc đẩy tiến trình dân chủ trong thời gian tới.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp những luận cứ và luận
chứng khoa học để các nhà hoạt động chính trị thực tiễn có thêm hướng tiếp
cận trong việc nhận diện các giá trị văn hóa chính trị Việt Nam cũng như sự
ảnh hưởng của nó đến tiến trình dân chủ, góp phần vào việc điều chỉnh, bổ
sung cho xây dựng các thể chế dân chủ phù hợp, cũng như cho hoạt động
lãnh đạo chính trị theo hướng vì một nền dân chủ thiết thực và hiệu quả, phù
hợp với các đặc trưng văn hóa chính trị của dân tộc.
- Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu và giảng dạy chun ngành Chính trị học, Văn hóa học và các chuyên
ngành khoa học xã hội và nhân văn liên quan khác.
6. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
Luận án được kết cấu thành 4 chương, 12 tiết.


6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VĂN HĨA CHÍNH TRỊ VÀ VĂN HĨA
CHÍNH TRỊ VIỆT NAM

1.1.1. Những cơng trình nghiên cứu về văn hóa chính trị
Các nghiên cứu chính trị học từ thời cổ đại, trung đại và cả thời kỳ phục
hưng ít nhiều đã đề cập đến văn hóa chính trị như một phạm trù quan trọng

tác động mạnh mẽ đến các q trình chính trị. Tuy nhiên, việc đưa văn hóa
chính trị vào nghiên cứu với tư cách là một phạm trù độc lập, đi kèm với các
phương pháp khoa học cụ thể thì chỉ bắt đầu vào giữa thế kỷ XX. Cũng từ
đây các quan niệm về văn hóa chính trị cũng như mối quan hệ của nó với các
thể chế khác như kinh tế, luật pháp và hệ thống chính trị đã được thảo luận.
Đặc biệt, việc đánh giá vai trò và mức độ ảnh hưởng của văn hóa chính trị
đến các q trình chính trị đã trở thành tâm điểm của các cuộc tranh luận
suốt hơn một thế kỷ qua.
Trước hết cần kể đến cơng trình “The Politics of the Developing Areas”
(Chính trị của những khu vực đang phát triển) của A. Almond và James S.
Coleman [94]. Trong khi nhiều cơng trình khoa học chính trị thời kỳ này tập
trung vào các thể chế chính thức như pháp luật, hiến pháp và hệ thống chính
trị, thì hai tác giả của cơng trình này cho rằng, ở nhiều quốc gia đang phát
triển, chính trị hay pháp luật và các thể chế chính thức nói chung là chưa rõ
ràng, vì vậy phải nhìn vào những gì ẩn phía sau các thể chế chính thức đó, vì
các thể chế khơng chính thức có thể quan trọng hơn cả những thể chế chính
thức. Phần trọng tâm của nghiên cứu này đã đề cập đến khái niệm “Văn hóa
chính trị” và những thảo luận về nó. Các tác giả khơng loại bỏ cách giải
thích từ thể chế chính thức mà muốn mở ra một cách tiếp cận linh hoạt hơn
từ các yếu tố phi chính thức, nhất là ở những quốc gia mới nổi, nơi mà việc
định hình thể chế chính thức hay pháp luật là chưa rõ ràng. Hai luận điểm


7
quan trọng của nhóm tác giả là, văn hóa chính trị luôn là sự pha trộn (hay
hợp trội) của yếu tố truyền thống và hiện đại, và nó là một quá trình học hỏi
từ xã hội (thường được gọi là xã hội hóa). Sản phẩm cuối cùng của văn hóa
chính trị theo hai ông là tập hợp các thái độ, định hướng đối với hệ thống
chính trị.
Cơng trình “Civic culture” (Văn hóa cơng dân) của A. Almond và

Verba [116] thực sự là một nghiên cứu tiêu biểu cho việc phổ biến lĩnh vực
nghiên cứu văn hóa chính trị cũng như đóng góp cho sự phát triển của ngành
chính trị học so sánh. Nó đặt trọng tâm phân tích định hướng hành động của
cơng dân đối với hệ thống chính trị và tiên phong trong việc nghiên cứu xu
hướng chứ không thiên về nhận định đặc tính quốc gia giản đơn. Nó tập
trung vào cả các nước phát triển và đang phát triển. Nó bao gồm hệ thống dữ
liệu lớn từ 5 quốc gia Anh, Đức, Mỹ, Ý và Mexico và được thực hiện trong
vòng 5 năm. Khi bàn đến dân chủ, hai tác giả cho rằng, một chế độ dân chủ
cần những người dân tham gia và có tri thức để tham gia. Các tác giả chia ra
làm 3 loại văn hóa chính trị: Văn hóa chính trị thờ ơ, Văn hóa chính trị tn
thủ, Văn hóa chính trị tham gia1. Nghiên cứu cũng đồng thời nhấn mạnh
rằng, khơng có một xã hội nào là tồn tại duy nhất một loại hình văn hóa
chính trị mà ln có sự pha trộn giữa các loại hình và khơng phải lúc nào mơ
hình hệ thống chính trị cũng phản ánh phù hợp với loại hình văn hóa chính
trị. Nếu tính tương thích cao thì tạo ra sự tn thủ và tích cực tham gia, nếu
tính tương thích yếu thì gây ra sự thờ ơ, nếu khơng có tính tương thích thì
gây ra sự rối loạn, mất niềm tin. Ngồi ra, cơng trình được coi là đã bao chứa
một lý thuyết tinh vi về dân chủ.
1

Văn hóa chính trị thờ ơ (Parochial cultures): Cá nhân công dân nhận thức thấp và đánh giá thấp đối với
hệ thống chính trị, xuất hiện trong những xã hội truyền thống đơn giản, họ ít kỳ vọng đến những thay đổi
chính trị và chủ yếu hướng vào các quan hệ gia đình làng xã
Văn hóa chính trị tuân thủ (Subject cultures): có sự nhận thức, niềm tin và đánh giá cao đối với hệ thống
chính trị, song lại tham gia vào q trình chính trị một cách hạn chế, có ý thức tuân thủ pháp luật cao nhưng
lại không tham gia để tạo ra các thể chế đó
Văn hóa chính trị tham gia (Paticipant cultures): Các thành viên có nhận thức, niềm tin và sự đánh giá
cao đối với hệ thống chính trị, là người tham gia vào cả hoạt động đầu vào và đầu ra của q trình chính
sách. Các cá nhân trong cộng đồng có xu hướng là các nhà hoạt động chính trị và các nhà hoạt động xã hội.



8
“Political Culture and Political Development” (Văn hóa chính trị và
phát triển chính trị) của Sidney Verba và Lucian Pye [150] xứng đáng là
một sự tiếp nối của cơng trình “Civic culture” với những nghiên cứu phức
tạp và công phu về văn hóa chính trị của các xã hội phương Tây và ngoài
phương Tây. Pye vốn được sinh ra và lớn lên ở Trung Quốc, và có sự nghiên
cứu sâu đối với các xã hội ở Đông và Đông Nam Á. Ơng khẳng định, khơng
có một loại văn hóa chính trị nào là duy nhất ở một quốc gia, vấn đề nằm ở
tỷ lệ của mỗi loại hình văn hóa chính trị trong từng cộng đồng và nhấn mạnh
nó có tính năng động nhất định, tức có sự biến đổi theo thời gian. Nghiên
cứu này không dừng lại ở 5 quốc gia trên mà còn triển khai ở các quốc gia
Nhật Bản, Anh, Đức, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Ý, Mexico, Ai Cập, Liên Xơ.
Dẫu có nhiều nghiên cứu khác nhau, song “Civic culture” (văn hóa
cơng dân) của A. Almond và Verba vẫn là một nghiên cứu mang tính đột
phá và nổi bật cả về phương pháp lẫn tính mới mẻ trong cách tiếp cận. Cũng
chính vì thế, đây là cơng trình đối diện với nhiều phê phán nhất của giới học
thuật (đặc biệt là giới học thuật Hoa Kỳ). “Civic culture” bị phê phán bởi
cách thức chọn mẫu (tính đại diện của đô thị quá lớn so với khu vực nơng
thơn) cũng như những tham vọng mang tính lý thuyết về dân chủ và dân chủ
hóa vượt xa một nghiên cứu thiên về khảo sát thực nghiệm. Mặc dù sau đó
hai tác giả đã xuất bản cơng trình The Civic Culture Revisited (Xét lại văn
hóa cơng dân) [117] và làm rõ hơn khái niệm “văn hóa cơng dân” cũng như
cập nhật các dữ liệu mới, song các chỉ trích vẫn tiếp diễn từ các nhà nghiên
cứu theo chủ nghĩa cấu trúc và chủ nghĩa thể chế, những người cho rằng việc
sáng tạo ra mơ hình thì có ý nghĩa hơn việc nghiên cứu mang tính giải thích.
Điều này khiến cho những nghiên cứu về văn hóa chính trị bị suy giảm trong
khoảng gần 2 thập niên (cuối những năm 1960 đến giữa thập niên 80).
Sự trở lại của những nghiên cứu về văn hóa chính trị bắt đầu vào cuối
thập niên 80 cho đến nay với việc tái khẳng định các yếu tố phi chính thức,

đặc biệt là văn hóa có ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc định hình cấu trúc hệ
thống chính trị lẫn tiến trình dân chủ của các quốc gia.


9
Inglehart đã cơng bố bài báo có tên The Renaissance of Political
Culture (Sự phục hưng văn hóa chính trị) [126] - đây cũng là phần mở đầu
cho cuốn sách mà ông xuất bản sau đó Culture Shift in Advanced Industrial
Society (Sự chuyển đổi văn hóa trong xã hội cơng nghiệp tiên tiến) [125].
Những nghiên cứu này bàn về sự xuất hiện của các giá trị hậu vật chất và
chủ nghĩa tập thể vốn bị chi phối bởi hành vi cá nhân và chủ nghĩa tư bản
trong các xã hội trước đây. Inglehart tập trung vào những tranh luận về vai
trò của văn hóa chính trị, ơng cho rằng, sự hài lịng đối với cuộc sống ảnh
hưởng đến văn hóa, xã hội và quan điểm chính trị, và đặc trưng văn hóa
quốc gia tác động lớn đến sự phát triển kinh tế và thể chế - “Văn hóa khơng
chỉ là hệ quả của kinh tế mà cịn góp phần định hình bản chất cơ bản của
đời sống kinh tế và chính trị” [125]. Ông lập luận, mỗi xã hội được định hình
ở những mức độ khác nhau bởi các thái độ văn hóa khác nhau - chúng tương
đối bền bỉ nhưng khơng bất biến. Các mơ hình văn hóa khi được xác lập có
một sự tự chủ đáng kể và nó không chỉ không bị chi phối bởi các cấu trúc
kinh tế xã hội mà cịn có thể định hình các cấu trúc cơ bản của đời sống kinh
tế xã hội.
Một nghiên cứu của Wiarda, Political Culture and National Development
(Văn hóa chính trị và sự phát triển quốc gia) [152] - bài báo đã đóng góp
đáng kể vào giai đoạn “phục hưng” của những cơng trình về văn hóa chính
trị. Lập luận chính của nghiên cứu này cho rằng, văn hóa chính trị là một
biến độc lập và quan trọng như nhiều biến khác (kinh tế, thể chế,…) và
chúng đều liên quan, chi phối lẫn nhau theo những cách thức tạp và thường
xun biến đổi. Từ đó, tác giả đã thơi thúc một hướng tiếp cận đa nguyên
nhân và hợp trội nhằm giải thích các hiện tượng chính trị xã hội khác nhau.

“Making Democracy Work: Civic Traditions in Modern Italy” (Làm
cho dân chủ hoạt động: truyền thống công dân ở quốc gia Italy hiện đại) của
Robert Putnam [145], là một công trình vừa thực nghiệm vừa hàn lâm. Ơng
kết hợp đan xen các cách tiếp cận văn hóa chính trị, phân tích thể chế và lựa
chọn hợp lý nhằm đưa ra một hướng giải thích phá cách và tham vọng về


10
căn nguyên của một chính quyền hiện quả. Sự kết hợp các hướng giải thích
này được Putnam mơ tả bằng sự khác nhau giữa ba miền Bắc, Trung, Nam
của nước Ý. Những kết luận quan trọng của ông là: Mỗi cá nhân có xu
hướng thích nghi với các quy tắc hiện tại hơn là thay đổi chúng; Các thói
quen và mơ hình văn hóa có xu hướng giữ các nhịp phát triển trên quỹ đạo
của nó; Các chuẩn mực và văn hóa chính trị (thể chế phi chính thức) thay
đổi chậm hơn các thể chế chính thức và có xu hướng quay lại định hình các
thể chế chính thức đó; Bối cảnh lịch sử và văn hóa có ảnh hưởng sâu sắc
đến việc định hình tổ chức thể chế, chiều ngược lại cũng diễn ra nhưng
chậm hơn; Sự biến đổi của văn hóa lẫn thể chế là một q trình lâu dài.
The Wealth and Poverty of Nations (Sự thịnh vượng và nghèo đói của
các quốc gia) của David Landes [12] có thể nói là một cơng trình truy tìm
các yếu tố dẫn tới sự thịnh vượng và nghèo đói của các quốc gia trước một
hiện thực là đa số các quốc gia giàu có, thu nhập trung bình cao lại tập trung
ở các quốc gia phương Tây (Tây Âu và Bắc Mỹ) chứ không phải là các nước
châu Á hay Mỹ Latinh. Sau những kiến giải về thể chế, công nghệ là không
đủ, các nghiên cứu về địa lý cũng bị loại bỏ, David Landes đã tìm đến văn
hóa như một yếu tố lý giải mạnh mẽ nhất và ông đã đánh giá cao Weber
trong việc khai phá ra vai trị của văn hóa trong cơng trình The Protestant
Ethic and the Spirit of Capitalism (Đạo đức tin lành và tinh thần của chủ
nghĩa tư bản).
Cultures and Organizations: Software of the Mind (Văn hóa và tổ chức:

Phần mềm của tâm trí) của Hofstede [118]. Nghiên cứu này đã làm nên
bước đột phá thực sự trong nghiên cứu về văn hóa chính trị khi nó phá vỡ
các định kiến rằng lĩnh vực nghiên cứu này khơng có tính hệ thống, khơng
khả kiểm và thiếu căn cứ khoa học. Nghiên cứu này đặt ra hai câu hỏi quan
trọng: Có những giải thích mang tính hệ thống cho sự khác biệt giữa các
quốc gia hay khơng? Sự khác biệt có thể là những biểu hiện khác nhau của
các chiều cạnh văn hóa? Theo đó, các cuộc khảo sát được thiết lập với quy
mô ngày càng rộng lớn và phức tạp, được thực hiện trên quy mơ tồn cầu và


11
mang tính định kỳ. Bắt đầu bằng cuộc khảo sát ở IMB đến các cuộc khảo sát
Euro-Barometer nhằm nghiên cứu văn hóa trong doanh nghiệp; Sau đó nó
được mở rộng nhằm nghiên cứu văn hóa chính trị quốc gia bằng Khảo sát
hành vi tổ chức và lãnh đạo toàn cầu (GLOBE), Khảo sát giá trị Trung
Quốc, Khảo sát Giá trị Thế giới (World Values Surveys) của Inglehart và
cho đến nay vẫn được tổ chức định kỳ ở hầu hết các quốc gia (trong đó có
Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của nó nhận được sự quan tâm, theo dõi của
các nhà chính trị thực tiễn lẫn giới học thuật. Đồng thời nó đặt nền tảng lý
thuyết và khái niệm cho rất nhiều cơng trình nghiên cứu sau đó về văn hóa
và văn hóa chính trị (theo các chiều cạnh) như của Inglehart [127], Schwartz
[147] và Minkov [139].
Cơng trình A Proposal for Clustering the Dimensions of National
Culture (Một đề xuất cho việc tập hợp các chiều cạnh của văn hóa quốc gia)
của Ammar Maleki và Martin de Jong (2014) đề xuất về các chiều cạnh của
văn hóa quốc gia nhằm giảm bớt sự phức tạp của các định nghĩa, đồng thời
tạo cơ sở cho các nghiên cứu so sánh về văn hóa xuyên quốc gia. Nghiên
cứu là sự kế thừa và phát triển từ các đề xuất của Hoftede (2001) với cơng
trình Culture’s Consequences: Comparing Values, Behaviors, Institutions,
and Organizations Across Nations (Hệ quả văn hóa: So sánh các giá trị,

hành vi, thể chế và các tổ chức xuyên quốc gia) và dự án GLOBE phát triển
kết quả nghiên cứu của Hoftede (1980). Các tác giả Ammar Maleki và
Martin de Jong cho rằng, việc chọn lựa số lượng các chiều cạnh văn hóa
quốc gia tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu, đồng thời cũng là sự lựa chọn
của nhà nghiên cứu giữa tính tổng quát và sự cụ thể cho nhu cầu lý giải về
đặc điểm văn hóa của mỗi quốc gia. Mặc dù gọi tên đối tượng là văn hóa
quốc gia song dựa vào mục đích nghiên cứu nhất quán của tác giả cho thấy,
đối tượng chính mà tác giả hướng đến là văn hóa chính trị quốc gia. Đây là
nền tảng cho những nghiên cứu của tác giả về tác động của văn hóa đến cấu
trúc hệ thống chính trị, q trình ra chính sách và mối quan hệ giữa văn hóa
và dân chủ giữa các nước sẽ được tổng quan ở phần sau.


12
Culture Matters: How Values Shape Human Progress (Tác động cảu
văn hóa: Các giá trị định hình sự tiến bộ của lồi người như thế nào) [0] là
cơng trình tập hợp từ các báo cáo trong một hội thảo được tổ chức ở đại học
Harvard do Harrison và Huntington biên tập. Mặc dù, cơng trình khơng chứa
đựng một phát kiến mới nào về mặt lý thuyết ở thời điểm đó (2000), song lại
là bộ sưu tập khá đầu đủ của tất cả các lý thuyết về văn hóa chính trị trước
đó. Nó nhấn mạnh thơng điệp rằng, văn hóa chính trị là một biến quan trọng
nhằm giải thích những thay đổi của đời sống chính trị.
Cơng trình Văn hóa chính trị và lịch sử dưới góc nhìn của văn hóa
chính trị của Phạm Hồng Tung [86] tập hợp 14 chuyên luận bàn về các lý
thuyết văn hóa chính trị và cách tiếp cận của các học giả phương Tây về văn
hóa Á Đơng. Trên cơ sở đó, tác giả tập trung lý giải các đặc trưng văn hóa
chính trị Việt Nam dưới các tiếp cận của các điều kiện lịch sử cụ thể và cho
rằng lịch sử xã hội là do con người sáng tạo nên trong những điều kiện lịch
sử nhất định và theo những cách thức nhất định - mà cách thức này lại do
nền tảng văn hóa - tổng hòa của các điều kiện khách quan và chủ quan của

hoạt động sống của con người quy định.
1.1.2. Những cơng trình nghiên cứu về văn hóa chính trị Việt Nam
Cơng trình Văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại của
Nguyễn Hồng Phong [62] là cơng trình có tính tổng kết những truyền thống
văn hóa chính trị Việt Nam với các giá trị về tính nhân văn, yêu nước và tinh
thần cộng đồng. Giá trị nổi bật của cơng trình là những phân tích nguồn gốc
của các đặc điểm văn hóa chính trị Việt Nam từ phương thức tổ chức thành
cộng đồng, đến phương thức tổ chức phát triển kinh tế.
Cơng trình Bước đầu tìm hiểu những giá trị văn hóa chính trị truyền
thống Việt Nam của Nguyễn Văn Huyên (chủ biên) [40] đã nhận diện các giá
trị cốt lõi của văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống, qua đó nhóm tác giả
đã chỉ ra cấu trúc văn hóa chính trị gồm hệ tư tưởng chính trị, tri thức chính
trị, năng lực và niềm tin chính trị, giá trị chính trị.


13
Gần đây nhất là kết quả nghiên cứu tổng quan đề tài khoa học cấp bộ
của Phan Xuân Sơn, Văn hóa chính trị Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
quốc tế [75]. Cơng trình đã đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiễn về văn
hóa chính trị Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đồng thời đúc rút ra
các giá trị cốt lõi của văn hóa chính trị Việt Nam gồm 3 chủ nghĩa và 3 tinh
thần: Chủ nghĩa yêu nước; chủ nghĩa cộng đồng; chủ nghĩa nhân văn; tinh
thần thân dân; tinh thần hòa hiếu; tinh thần thượng võ.
Ngồi ra, các nghiên cứu được cơng bố trên các tạp chí chuyên ngành
như: Hệ giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập
của Hồng Chí Bảo (1997), Tạp chí cộng sản Tiếp cận triết học về văn hóa
chính trị và xây dựng văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay của Nguyễn Văn
Hun (2005), Văn hóa chính trị và văn hóa pháp luật Việt Nam - từ lý
luận đến thực tiễn của tác giả Phạm Ngọc Thanh và Nguyễn Thị Thu Hà
(2009), Thơng tin chính trị học; Tư tưởng về một nền chính trị pháp quyền

trong văn hóa chính trị truyền thống Việt Nam của Nguyễn Hồi Văn
(2010), Tạp chí lý luận chính trị số 3; Tạp chí Tuyên giáo; Khái niệm và
các cách phân loại văn hóa chính trị của Lưu Văn Quảng (2012), Chính trị
học những vấn đề lý luận và thực tiễn; Bàn về sức sống của văn hóa chính
trị Việt Nam của Nguyễn Văn Vĩnh (2015), Tạp chí Lý luận và truyền
thơng số tháng 1. Các nghiên cứu trên đã bước đầu đưa ra những vấn đề lý
luận của văn hóa chính trị như khái niệm, các yếu tố cấu thành văn hóa
chính trị và sự phân loại. Một số cơng trình đã chỉ ra những giá trị đặc
trưng của văn hóa chính trị Việt Nam.
Bên cạnh đó, rất nhiều cơng trình tuy khơng bàn trực tiếp đến văn hóa
chính trị Việt Nam, song có những luận giải sâu sắc về các giá trị văn hóa
của người Việt. Tiêu biểu là cơng trình Xã hội Việt Nam (1941) của tác giả
Lương Đức Thiệp; Tính cộng đồng, tính cá nhân và “cái tôi” của người
Việt Nam hiện nay do Đỗ Long và Phạn thị Mai Hương (2002) đồng chủ
biên; Bản sắc Văn hóa Việt Nam của Phan Ngọc (2002); Văn hóa và văn
minh, văn hóa chân lý và văn hóa dịch lý của Hồng Ngọc Hiến (2007);


14
Tiến trình văn hóa Việt Nam của Nguyễn Đăng Duy (2008); Người nông
dân châu thổ Bắc Kỳ - Nghiên cứu địa lý nhân văn của Prierre Gourou
(2014), Tâm lý người An Nam - Tính cách dân tộc, tiến trình lịch sử, tri
thức xã hội và chính trị của Paul Giran (2019) do Nguyễn Tiến Văn dịch.
Các cơng trình này đã đưa ra những luận giải sâu sắc nhằm chỉ ra các giá trị
đặc trưng của văn hóa Việt Nam.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ Ở VIỆT NAM

1.2.1. Những cơng trình nghiên cứu về dân chủ
Dân chủ là một khái niệm gây tranh cãi bởi nan giải nội tại và sự đa
dạng trong cách tiếp cận.

Nan giải lớn nhất của dân chủ được tóm tắt là: Làm thế nào để từng
người dân đều được tự do khi họ khơng thể tự do một cách hồn tồn. Điều
này liên quan đến phạm trù tự do: “tự do thụ động” và “tự do chủ động” - là
cơ sở lập nên hai phương pháp luận tương ứng là cá nhân luận
(individualism) và xã hội luận (socialism). Theo đó, sự khác biệt trong cách
tiếp cận về bản chất con người là cơ sở để phân chia thành tư tưởng cánh
hữu và cánh tả. Tư tưởng cánh hữu xuất phát từ việc hạn chế bản chất tiêu
cực của con người hướng đến bảo vệ quyền tự nhiên của con người, nên
quan niệm dân chủ bao gồm hạn chế quyền lực ủy quyền (vốn dễ bị thao
túng). Trong khi đó, tư tưởng cánh tả (tiêu biểu là chủ nghĩa Marx), nhấn
mạnh việc phát huy bản chất tốt đẹp của con người, hướng tới bảo vệ sự ổn
định và phát triển của xã hội nên dân chủ nhấn mạnh giáo dục ý thức trách
nhiệm của người dân, đề cao vai trò quản trị cơng của nhà nước.
Chính hai quan niệm ở hai cực trên có thể coi là hạt nhân hình thành
nên sự đa dạng của các lý thuyết dân chủ, cũng là cơ sở cho những giải thích
đối với các mơ hình dân chủ.
Những cơng trình về mơ hình dân chủ
Cơng trình Modes of democracy (Các mơ hình dân chủ) của David
Held [110] đã khái quát lại lịch sử của các cuộc tranh luận mà khái niệm dân
chủ đã tạo ra dưới dạng các mơ hình dân chủ, từ nền dân chủ Athens đến “sự


15
cáo chung” của dân chủ trực tiếp; từ những biến thể của mơ hình dân chủ thế
kỷ XX đến những địi hỏi về một “chế độ dân chủ” trong mơi trường tồn
cầu hóa hiện nay. Mỗi mơ hình gắn với một tư tưởng về dân chủ và đặc biệt
gắn với bối cảnh hiện thực mà nó được sinh ra. Xuyên qua tất cả các mơ
hình dân chủ tiêu biểu mà lồi người đã tạo ra, David Held khẳng định, dù
khơng thể giải quyết được tất cả các vấn đề của con người, nhưng dân chủ
vẫn cung cấp một nguyên tắc hợp pháp hấp dẫn nhất - “sự chấp thuận của

nhân dân” - như một cơ sở của trật tự chính trị.
Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu nhấn mạnh vào lý thuyết dân chủ và
định hình cho mơ hình dân chủ đa trị là tư tưởng của Robert Dalh, tập trung
trong các cơng trình: A Preface to Democratic Theory (Giới thiệu về lý
thuyết dân chủ) [144], Polyarchy (Dân chủ đa trị) [108], Dilemmas of
Pluralist Democracy Autonomy vs Control (Nan giải của dân chủ đa trị tự
trị và kiểm soát) [109]. Robert Dalh nhìn nhận dân chủ là một mơ hình lý
tưởng với quan điểm khơng có một nhóm nào trong xã hội có thể thường
xuyên chiếm ưu thế. Thế giới quan của ơng đã đóng góp lớn trong việc định
hình cấu trúc quyền lực trong hệ thống chính trị của các quốc gia phương
Tây và làm sâu sắc thêm nhận thức về sự phân quyền trong xã hội (bên
ngoài nhà nước, chứ không phải trong nhà nước) mới là điều kiện quan trọng
tiên quyết để đảm bảo cho sự vận hành của một nền dân chủ.
Trong khi Dalh ủng hộ một sự tham gia rộng rãi của các nhóm trong xã
hội như là nền tảng của dân chủ, thì trước đó, Joseph Schumpeter với cơng
trình Capitalism, socialism and democracy (Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã
hội và dân chủ) [131] lại nghi ngờ và phủ định sự tham gia tập thể. Ông cho
rằng, dù sớm hay muộn sự tham gia của cơng chúng cũng sẽ bị xói mịn bởi
các lực lượng xã hội nổi trội. Theo đó, ơng coi dân chủ như một cơng cụ để
ra quyết định chính trị và trong trường hợp tốt nhất là phương tiện để lựa
chọn người ra quyết định cũng như kiềm chế sự lạm dụng của họ. Lực lượng
chủ yếu tham gia vào các q trình chính trị chủ yếu (xây dựng luật, điều
hành bộ máy nhà nước) là giới tinh hoa - được gọi là mơ hình tinh hoa cạnh


16
tranh. Nhóm này cạnh tranh nhau để giành lấy sự ủng hộ của dân chúng và
bầu cử chỉ có ý nghĩa hợp pháp hóa một nhóm tinh hoa vào vị trí quyền lực
của bộ máy nhà nước. Điểm đáng chú ý là, dù đưa ra quan niệm và mơ hình
dân chủ như vậy song tác giả cũng nhấn mạnh, không nên nhầm lẫn giữa

mục tiêu của nền dân chủ với chính bản thân nền dân chủ đó. Những quyết
định chính trị nào được đưa ra có khi độc lập với hình thức lý tưởng về một
nền dân chủ.
Mơ hình dân chủ thảo luận [134; 135; 142] được tập hợp trong các ấn
phẩm của Macpheson và Pateman đã đưa ra lập luận rằng, sự tham gia bình
đẳng và tự do là điều kiện cho hoạt động chính trị hiệu quả, khuyến khích
sự quan tâm chung và hình thành cộng đồng cơng dân có hiểu biết. Mơ
hình này cũng nhấn mạnh tái tổ chức đảng phái và trách nhiệm giải trình
của các quan chức đảng với đảng viên, cùng hệ thống thông tin cởi mở, hạn
chế tối đa bộ máy quan liêu, thiếu minh bạch. Đây được coi là mơ hình cố
gắng kết hợp và tái tạo nhận nhức trong cuộc đại tranh luận giữa hai hệ tư
tưởng nói trên.
Nhằm khắc phục sự thiếu thống nhất trong các tranh luận về dân chủ
gây hạn chế cho sự so sánh các nền dân chủ, một hướng tranh luận khác đại
diện cho nghiên cứu thực chứng hiện đại chỉ ra các yếu tố dân chủ cốt lõi
tạo thành các mơ hình dân chủ là Democracy with Adjectives: Conceptual
Innovation in Comparative Research (Dân chủ trong các thủ tục: Đổi mới
khái niệm trong nghiên cứu so sánh) của Collier, D and S. Levitsky, (1997)
[106, tr.430-451]. Tác giả đã tổng hợp và phân loại các quan niệm về dân
chủ thành 4 loại: 1. Dân chủ (xét theo) bầu cử, 2. Dân chủ (xét theo) các
thủ tục tối thiểu, 3. Dân chủ (xét theo) các thủ tục tối thiểu mở rộng, 4. Dân
chủ dựa trên các các khuôn mẫu đã được thiết lập tại các nước công nghiệp.
Khi nhìn nhận như vậy, các tác giả cho rằng quá trình dân chủ hóa ở bất kỳ
nước nào cũng có thể đốn định trước, vì nó là một q trình tích tụ các
yếu tố. Các giai đoạn dân chủ hóa cũng sẽ đi từ thấp đến cao tương ứng với
4 loại dân chủ trên.


17
Hiển nhiên, cách nhìn nhận này lấy dân chủ phương Tây như mơ hình

lý tưởng, và các nền dân chủ khác sẽ được đánh giá sự trưởng thành theo các
thang bậc lý tưởng đó. Lập luận này đã bị vượt qua. Cụ thể, dựa trên các kết
quả sẵn có, Turley (2009) [87] đề xuất chỉ nên xem xét các yếu tố của
Collier và Levitsky không phải là các yếu tố định thứ bậc mà chỉ như là
những “yếu tố cốt lõi” mà các quốc gia khác nhau có thể có. Chúng có thể
kết hợp với nhau theo nhiều cách mà không nhất thiết phản ánh “sự trưởng
thành” của một nền dân chủ.
Thực tế cho thấy, việc phân chia các mô hình dân chủ khơng hàm nghĩa
tốt - xấu mà chỉ là cách để xem các mơ hình giải quyết các vấn đề nan giải
của dân chủ như thế nào. Theo đó, nhiều học giả khác cũng sớm nhìn thấy
khoảng cách giữa một mơ hình dân chủ lý tưởng với hiện thực của các nền
dân chủ. Nổi bật là cơng trình Vital democracy - A theory of democracy in
Action (Dân chủ sống: Một lý thuyết về dân chủ trong hành động) của Frank
Hendriks (2010) [114], đã thống kê các quan niệm dân chủ tiêu biểu và ông
lập luận rằng, vấn đề lớn nhất của dân chủ là khoảng cách giữa nhà nước và
cơng dân, nhằm giải quyết hai tình huống, hoặc “quá ít dân chủ” (độc tài)
hoặc “quá nhiều dân chủ” (vơ chính phủ). Theo tác giả, các nhà lý thuyết
dân chủ thường loanh quanh với khái niệm dân chủ hoặc đưa ra các đánh giá
về mơ hình “dân chủ hồn thiện”, “dân chủ chưa hoàn thiện, “dân chủ
mạnh”, “dân chủ yếu” mà bỏ qua cái dân chủ thực tế - dân chủ trong hành
động. Hai câu hỏi quan trọng nhằm xác định các đặc trưng của một nền dân
chủ là: Ai là người quyết định? (nhân dân - trực hiếp hay người đại diện gián tiếp) và Quyết định bằng cách nào? (Đa số hay đồng thuận). Điều này
sẽ đưa tới 4 mơ hình dân chủ gồm: Dân chủ cử tri (trực tiếp và đa số); Dân
chủ đa số (gián tiếp và đa số); Dân chủ đồng thuận (trực tiếp và đồng thuận);
Dân chủ tham gia (gián tiếp và đồng thuận). Mặc dù đưa ra và mô tả đầy đủ
về đặc trưng của 4 mơ hình, song tác giả cho rằng, trên thực tế không một
quốc gia nào trọn vẹn đặc trưng của 1 trong 4 mơ hình trên mà đều là sự pha


18

trộn. Tuy nhiên, mỗi quốc gia sẽ sở hữu một mơ hình nổi trội hơn, điều này
phụ thuộc rất lớn vào các đặc trưng văn hóa cụ thể.
Những cơng trình nghiên cứu dân chủ với tư cách là một tiến trình
Câu hỏi chính mà Anthony Arblaster (2002) đặt ra trong cơng trình
Democracy (Dân chủ) [99] khi bàn về ý nghĩa của dân chủ là tại sao ngay
cả các nền dân chủ phương Tây trong quá khứ, hình thức dân chủ trực tiếp
lại khó có thể tồn tại lâu dài và cần có một cách tiếp cận hiện thực từ đời
sống chính trị để có thể hiện thực hóa các tiêu chí của một nền dân chủ lý
tưởng.
Cơng trình Democracy (Dân chủ) của James Laxer (2009) [129] đã
xuyên qua lịch sử dân chủ từ nền dân chủ Hy - La cổ đại đến các cuộc cách
mạng tư sản Pháp, Mỹ và q trình chuyển đổi ở các quốc gia Đơng Âu và
Liên Xô, đồng thời khảo sát thực trạng dân chủ ở các quốc gia phát triển và
kém phát triển, ông đưa ra nhận định rằng, khơng có một bằng chứng thuyết
phục nào về việc tồn tại một nền dân chủ lý tưởng chung cho tất cả các nền
văn hóa và môi trường xã hội. Laxer cũng chứng minh dân chủ không chỉ
đơn thuần là quyền bầu cử và bác bỏ dân chủ tiếp cận từ các thủ tục.
Nhận thức này khiến các lý thuyết hay mơ hình vốn khẳng định tính
phổ quát của các giá trị dân chủ phương Tây bị phê phán mạnh mẽ. Nó cũng
là phát hiện của Fukuzama khi đứng trước thực tế về sự chững lại của làn
sóng dân chủ thứ ba. Ơng cho rằng, khơng phải là những thể chế chính thức
có tính quyết định đến thành quả của mọi nền dân chủ mà đối với những xã
hội ngoài phương Tây, những thể chế phi chính thức đóng vai trị thực sự
quan trọng. Bởi, suy cho đến cùng, dân chủ với tư cách là sản phẩm lịch sử
của một cộng đồng, không thể được áp đặt từ ngồi cộng đồng đó.
Trong khi nhấn mạnh vào tính hiện thực của một nền dân chủ đã đồng
thời bộc lộ tính thống nhất tất yếu giữa hai phương pháp luận nói trên (trọng
cá nhân và trọng xã hội): Trong những lĩnh vực nhất định, cá nhân phải được
tự do, không bị ngăn cản, và trong những lĩnh vực nhất định khác, sự tự do
cá nhân phải bị hạn chế. Tuy nhiên, việc xác định đâu là lĩnh vực để áp dụng



19
việc hạn chế hay không của quyền tự do cá nhân lại phụ thuộc rất lớn đến
các yếu tố thực tiễn như điều kiện kinh tế, trình độ nhận thức, lịch sử và văn
hóa - vốn mang tính biến động cả về khơng gian lẫn thời gian. Theo đó, việc
quan niệm dân chủ là đích hướng đến với các tiêu chí và mơ hình định sẵn
đã bị vượt qua. Nhiều nghiên cứu theo đó hướng tới việc coi dân chủ là một
quá trình, tức ngày càng trở nên “dân chủ hơn”.
Những nghiên cứu theo hướng tiếp cận này nhấn mạnh vào khơng gian
mà người dân có thể tham gia vào đời sống chính trị, bao gồm khơng gian bỏ
phiếu và khơng gian đóng góp ý kiến vào các q trình ra quyết định chính
sách liên quan đến họ, và thậm chí là quy trình mà các ý kiến của cơng dân
được tạo ra.
Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này là các cơng trình gần đây của Viện
nghiên cứu về dân chủ và hỗ trợ bầu cử (IDEA - Institude For Democracy
And Electoral Assistance) đã công bố như Dân chủ trực tiếp và Dân chủ địa
phương với các nghiên cứu trường hợp ở các quốc gia trên thế giới (châu Á,
châu Phi, châu Mỹ…). Nền tảng lý luận của những nghiên cứu này khẳng
định, khơng có một mơ hình dân chủ nào là lý tưởng cho mọi quốc gia và
thậm chí mọi địa phương và cần có những khảo sát thực tế để có thể ngày
càng hồn thiện dân chủ ở các địa phương hơn như trưng cầu dân ý, sáng
kiến cơng dân, sáng kiến chương trình nghị sự, bãi miễn,… dựa trên các đặc
trưng văn hóa và tâm lý vùng miền.
1.2.2. Những cơng trình nghiên cứu về dân chủ ở Việt Nam
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về dân chủ ở Việt Nam, trong đó đa
phần các cơng trình tiếp cận tiến trình dân chủ ở Việt Nam mang đặc trưng
riêng của mơ hình dân chủ xã hội chủ nghĩa, vừa chỉ ra các yếu tố tác động
vừa làm rõ những hạn chế và xu hướng mở rộng dân chủ ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay.

Cơng trình “Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam” tác
giả Đỗ Trung Hiếu (2004) đã đưa ra những dấu hiệu căn bản của dân chủ và
khẳng định sự tồn tại của các dấu hiệu dân chủ cũng như chỉ ra các đặc trưng


20
cơ bản của dân chủ ở Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả lập luận về các đặc
trưng dân chủ ở nước ta và chỉ ra những điều kiện cần có cho việc xây dựng
nền dân chủ ở Việt Nam.
Nghiên cứu Thực hành và phát huy dân chủ qua 30 năm đổi mới của Lê
Hữu Nghĩa (2007) [59] bàn về dân chủ xã hội chủ nghĩa và đánh giá những
thành tựu và hạn chế của dân chủ trên tất cả các lĩnh vực ở Việt Nam qua 30
năm đổi mới, đặc biệt nhấn mạnh đến dân chủ trong hệ thống chính trị. Theo
tác giả một trong những nguyên nhân của những hạn chế dân chủ ở nước ta
bắt nguồn từ trình độ dân trí thấp.
Cơng trình Xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Vũ Hồng
Cơng (2009) [10] bàn về những đặc trưng của nền dân chủ Việt Nam, đặc
biệt những biến đổi của nó trong điều kiện mới của kinh tế thị trường cũng
như các thách thức đặt ra cùng giải pháp định hướng nhằm phát triển nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Cơng trình Về q trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay của Lê Minh Quân (2010) [66] trên cơ sở mô tả các lý thuyết và mơ hình
dân chủ hóa, những yếu tố tác động và q trình dân chủ hóa trên thế giới,
cuốn sách phân tích nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của q trình dân chủ
hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Cơng trình Đảm bảo và phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy
nhất cầm quyền của tác giả Tô Huy Rứa (2010) [70] làm rõ đặc trưng xây
dựng nền dân chủ ở Việt Nam là một đảng duy nhất cầm quyền và điều kiện
này không phải là yếu tố cản trở dân chủ theo quan điểm về mơ hình dân chủ

lý tưởng như ở các quốc gia phương Tây mà ngược lại nếu được phát huy
đúng nó sẽ hỗ trợ mạnh mẽ cho q trình thực hiện dân chủ ở Việt Nam, phù
hợp với lịch sử và các đặc điểm văn hóa xã hội của đất nước.
Luận án Xây dựng hệ tiêu chí đánh giá trình độ phát triển dân chủ ở
Việt Nam hiện nay của Trần Thị Thu Huyền (2015) đã xây dựng hệ tiêu chí
đánh giá dân chủ dựa trên những đặc trưng của đời sống chính trị xã hội Việt


21
Nam. Cơng trình đã đo lường một cách cụ thể về mặt định lượng lẫn các
phân tích định tính làm cơ sở cho những đánh giá thực chứng về mức độ
phát triển dân chủ ở Việt Nam. Cơ sở lý luận quan trọng của luận án là trong
khi phê phán các cách thức đo lường của các tổ chức đánh giá dân chủ
phương Tây vốn xuất phát từ cá nhân luận và đặt ra các tiêu chí dân chủ
mang tính phổ quát, luận án đã đưa ra cách đánh giá mức dộ dân chủ dựa
trên sự phù hợp với các đặc điểm chính trị xã hội và các giá trị văn hóa
truyền thống để đưa ra bộ cơng cụ đánh giá dân chủ phù hợp.
Tóm lại, sự đa dạng trong quan niệm về dân chủ đã phản ánh quá trình
phát triển nhận thức và tư duy về dân chủ, từ việc xác định những giá trị
cốt lõi và có ý nghĩa phổ quát mà mọi nền dân chủ cần đảm bảo đến việc
nhấn mạnh tính tương thích của nó với những điều kiện cụ thể của từng
quốc gia; từ việc định hình các mơ hình dân chủ với những tiêu chí và
chuẩn mực đến việc xem dân chủ như là một quá trình dưới sự tác động và
ảnh hưởng qua lại với các thể chế chính thức lẫn phi chính thức. Việc tồn
tại những khái biệt trong quan niệm về dân chủ là tất yếu, song dù có thể
dùng các tiêu chí, tên gọi khác nhau, điểm chung của các cách tiếp cận là
nhấn mạnh các khía cạnh, đặc tính nào đó của việc tổ chức và thực thi
quyền lực nhà nước, và xem xét chúng có phù hợp với nguyện vọng của
dân chúng hay khơng. Nói cách khác, nhân dân có phải là người quyết định
cuối cùng hay khơng, hay đúng hơn là mức độ, phạm vi của các vấn đề mà

người dân có quyền quyết định cuối cùng là gì.
1.3. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HĨA
CHÍNH TRỊ ĐẾN TIẾN TRÌNH DÂN CHỦ

1.3.1. Về sự ảnh hưởng chung của văn hóa chính trị đến tiến trình
dân chủ
Mặc dù khơng trực tiếp bàn đến mối quan hệ giữa văn hóa (văn hóa
chính trị) và dân chủ, song xuyên qua hệ thống các tác phẩm của K.Marx
tốt lên tư tưởng về chức năng chính trị xã hội của văn hóa. Ơng quan niệm
rằng, văn hóa là lĩnh vực hoạt động mà nhờ đó, con người sản xuất và tái


×